Đằng sau ‘GDP tăng trưởng’ của Thủ tướng Phúc là gì?
25/10/2018
Ở Việt Nam, người ta
có thể nhìn ra rõ ràng là không chỉ ‘tân chủ tịch nước’ Nguyễn Phú Trọng - với
phát ngôn bất hủ ‘đất nước có bao giờ được như thế này!’ - là chóp bu tham vọng
quyền lực duy nhất, mà bên cạnh đó và rất có thể đang mong ngóng được kế thừa
cái ghế ‘hoàng đế’ là Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc.
Sản xuất xuống, doanh
nghiệp ‘chết’ nhưng GDP vẫn tăng mạnh!
Tại kỳ họp quốc hội
khai mạc tháng Mười năm 2018, một lần nữa trong nhiều lần, thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ
Vờ’ và ‘mỗi tỉnh là một đầu tàu kinh tế’ lại tiếp tục tung ra nhưng thành tích
quá đỗi ấn tượng cho ‘chính phủ kiến tạo’ của ông ta: dự kiến chỉ số tăng
trưởng tổng sản quốc nội (GDP) trong năm 2018 sẽ tiếp tục 6,7%, tương đương với
thành tích đã lập được vào năm 2017.
Đã thành một thói
‘gật’ ăn sâu vào não trạng, cả nghị trường lặng thinh ngơ ngáo trước bài diễn
văn hùng hồn, đầy số liệu và thành tích của đại biểu Nguyễn Xuân Phúc. Không
một cánh tay nào giơ lên phản bác thành tích đó.
Và cũng đã thành một
thói quen chiến thuật, ‘vũ khí’ chủ yếu của ông Phúc để tác chiến trên chính
trường Việt Nam luôn là tỷ lệ tăng trưởng GDP cao ngất cùng toàn bộ các chỉ
tiêu kinh tế - xã hội mà chính phủ không thể không đạt được.
Nhưng về thực chất,
GDP của Thủ tướng Phúc là ‘tăng trưởng ổn định’ hay rơi vào suy thoái?
GDP được cấu thành chủ
yếu từ hoạt động sản xuất và kinh doanh của ba thành phần kinh tế tại Việt Nam
(khu vực doanh nghiệp nhà nước, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
và khu vực kinh tế ngoài quốc doanh).
Một sự thể trớ trêu và
phản dội là trùng với thời điểm Thủ tướng Phúc say sưa nghiêng ngoẹo với những
con số thành tích của mình trước gần 500 mái đầu ngoan ngoãn trong quốc hội,
một bản báo cáo vào tháng Mười năm 2018 của cơ quan Kiểm toán Nhà nước Việt Nam
được công bố đã phải thừa nhận rằng nguồn thu từ 3 khu vực kinh tế không đạt dự
toán (thu từ khu vực doanh nghiệp nhà nước giảm 2,9%, đạt 4.908 tỷ đồng; thu từ
khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài giảm 15,1%, đạt 33.646 tỷ đồng;
thu từ khu vực kinh tế ngoài quốc doanh giảm 2,2% đạt 4.855 tỷ đồng).
Trước đó khi năm 2017
trôi qua, chính Uỷ ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội đã phải đánh giá rằng
thu từ sản xuất kinh doanh của 3 khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế ngoài quốc doanh trong khoảng 3 năm liền kề
đều thấp hơn so với dự toán với mức khá lớn và đều thấp hơn số ước thực hiện đã
báo cáo Quốc hội.
Mặc dù Uỷ ban Tài
chính - Ngân sách không nêu cụ thể thực trạng ‘thấp hơn’ là bao nhiêu, nhưng
một số chuyên gia đã ước tính tỷ lệ thu từ khối doanh nghiệp nhà nước và kinh
tế ngoài quốc doanh chỉ đạt khoảng 80 -85% so với dự toán – tức thấp hơn rất
nhiều so với kết quả của những năm trước.
Mà khi thu thuế từ 3
khu vực doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và kinh tế
ngoài quốc doanh bị giảm mạnh, lấy đâu ra ‘Kinh tế Việt Nam đạt thành tích tăng
trưởng 7,31% GDP’ - gấp gần 3 lần tỷ lệ tăng trưởng của Mỹ và EU - như Thủ
tướng Nguyễn Xuân Phúc tuyên rao đầy tự hào vào cuối năm 2017 và được các bộ
ngành, giới chuyên gia cận thần và báo đảng đồng ca đầy sống sượng lẫn trơ
tráo?
Chưa hết. Cũng vào
tháng Mười năm 2018, những số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố cho
thấy số doanh nghiệp thành lập mới trong quý III/2018 là 96.611, tăng 2,8% so
với cùng kỳ năm 2017. Trong khi đó, số doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động lại
nhiều bất thường, với 24.501 doanh nghiệp, tăng 76%. Tính chung 9 tháng kể từ
đầu năm, có 73.103 doanh nghiệp tạm dừng hoạt động, so với cùng kỳ năm 2017
tăng 48,1%. Có nghĩa là tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ cao hơn hẳn tỷ lệ doanh
nghiệp được thành lập mới.
Tình trạng tham nhũng
trong hệ thống thủ tục ‘hành là chính’, thiếu đầu ra và quá dễ phá sản là những
nguồn cơn khiến nhiều doanh nghiệp không còn mặn mà với các chương trình khuyến
mãi cho vay vốn của ngân hàng, trong tình trạng ngân hàng đang thừa mứa tiền
không tiêu thụ được - hệ lụy của nạn in tiền quá nhiều từ Nhà máy In tiền quốc
gia của Ngân hàng nhà nước và hình ảnh cơ suy thoái kinh tế Việt Nam đã kéo
sang năm thứ 10 kể từ năm 2008. Nhiều doanh nghiệp vẫn không thể quên được vào
năm 2011 họ đã phải vay ngân hàng với lãi suất cắt cổ lên đến 25 - 30%/năm
(chưa kể phí ‘bôi trơn’), để sau đó không ít doanh nghiệp đã coi đó là thuốc
độc mà ngân hàng bắt họ phải uống.
Thật rõ ràng, không
thể có một nền kinh tế tăng trưởng liên tục và tăng trưởng mạnh đến gần 7%/năm
của thủ tướng ‘Cờ Lờ Mờ Vờ’ mà tỷ lệ doanh nghiệp ‘chết’ lại cao hơn hẳn tỷ lệ
doanh nghiệp mới ra đời!
Phương pháp thống kê
của Tổng cục Thống kê Việt Nam là ‘có vấn đề’ hay về thực chất là ‘thống kê
chính trị’ theo chỉ đạo của chính Thủ tướng Phúc nhằm phục vụ cho những mục
đích tô hồng cá nhân của ông ta?
Vì sao ‘nợ công giảm
còn 61,4% GDP’?
Cũng tại kỳ họp quốc
hội tháng Mười năm 2018, Nguyễn Xuân Phúc - quan chức thủ tướng bị dư luận đánh
giá là còn ‘nổ’ hơn cả người tiền nhiệm Nguyễn Tấn Dũng, đã khoe khoang thành
tích nợ công quốc gia đã giảm xuống chỉ còn 61,4% GDP - tức chưa chạm vào
ngưỡng giới hạn trên là 65% GDP.
Nhưng có thực như vậy
không?
Theo phân tích của
Tiến sĩ Vũ Quang Việt vào đầu năm 2017 ngay trên một tờ báo nhà nước là Thời
báo Kinh tế Sài Gòn, nợ của 3.200 doanh nghiệp nhà nước theo điều tra của Tổng
cục Thống kê năm 2014 là 4,9 triệu tỉ đồng (231 tỉ đô la Mỹ), gấp nhiều lần con
số 1,5 triệu tỉ đồng mà Bộ Tài chính đưa ra chỉ cho một số tập đoàn và công ty
lớn. Ước tính thêm cho thấy năm 2016, nợ của doanh nghiệp nhà nước là 324 tỉ đô
la Mỹ, bằng 158% GDP.
Như vậy, cộng cả nợ
chính phủ và nợ doanh nghiệp nhà nước sau khi trừ đi phần Chính phủ bảo lãnh
trùng lặp, tổng số nợ năm 2016 là 431 tỉ đô la Mỹ, bằng 210% GDP.
Cho đến nay và cùng
với số nợ nước ngoài của khối doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân
tăng vọt, nợ công quốc gia thậm chí còn tồi tệ hơn những năm trước.
Bối cảnh ngân sách cạn
kiệt, cụ thể là chẳng còn khoản kết dư đáng kể nào, cũng là lúc đang có nhiều
dấu hiệu cho thấy nợ công sắp “vỡ” và Chính phủ không còn khả năng trả nợ thay
cho các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước. Đó là nguồn cơn vì sao Luật Quản lý nợ
công (sửa đổi) - được Quốc hội thông qua vào cuối năm 2017 - lại cố tình không
gộp cả phần nợ vay nước ngoài của các tập đoàn và doanh nghiệp nhà nước, dù
loại nợ này lại là một trong 5 định nghĩa về nợ công của cơ quan thống kê của Liên
hiệp quốc.
Điều trớ trêu là vào
đầu năm 2017, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã phải thốt ra một đánh giá chưa từng
có tiền lệ: “Nếu tính đủ, nợ công đã vượt trần”.
Đó là lần đầu tiên ông
Phúc tỏ ra cám cảnh thật sự trước tình cảnh ‘đổ vỏ’ của mình cho đời thủ tướng
trước là Nguyễn Tấn Dũng. Thậm chí sau đó ít lâu, ông Phúc còn thốt ra một tán
thán khác ấn tượng không kém: ‘sụp đổ tài khóa quốc gia’.
Tuy nhiên từ đó đến
nay, Thủ tướng Phúc đã im bặt mà không còn bất kỳ lời thú nhận thực nào về cảnh
nạn khốn khó của ngân sách và nợ công nữa. Thay vào đó, quan chức này đi nhiều
địa phương mà gần như ở đâu cũng được ban tặng là ‘đầu tàu kinh tế của cả nước’
- một thủ thuật chính trị mà dư luận chẳng khó gì để nhìn ra ngay động cơ của
ông Phúc muốn vận động sớm cho cái ghế tổng bí thư tại đại hội 13 vào năm 2021.
Chỉ có điều, những
cuộc vận động của Thủ tướng Phúc có thể chẳng nên cơm cháo gì. Cái ghế tổng bí
thư tại đại hội 13 vừa được sáp nhập với cái ghế chủ tịch nước bởi một tác giả
duy nhất: ‘Hoàng đế Nguyễn Phú Trọng’.
No comments:
Post a Comment