Giặc Đã Đến Nhà….
GIẶC ĐÃ ĐẾN NHÀ,
TOÀN DÂN VIỆT NAM CÒN ĐỢI GÌ MÀ KHÔNG VÙNG DẬY!
HỠI CON CHÁU LẠC HỒNG, HÃY MỞ MẮT RA ĐỂ THẤY ĐẤT NƯỚC
ĐANG BỊ TÀN PHÁ BỞI GIẶC TÀU VỚI SỰ ĐỒNG LÕA
CỦA MỘT BẦY CẦM QUYỀN BÁN NƯỚC.
CHẲNG CÒN BAO LÂU CHÚNG SẼ BIẾN VIỆT NAM
THÀNH MỘT TỈNH CỦA TRUNG CỘNG,
CÙNG CHUNG SỐ PHẬN HẨM HIU CỦA TÂY TẠNG VÀ TÂN CƯƠNG,
VÀ DÂN TA SẼ BỊ ĐẨY VÀO CẢNH NÔ LỆ, TRÊN ĐƯỜNG DIỆT VONG.
Chúng ta không còn thời gian nữa đâu, mỗi phút
chần chừ là quân thù tiến thêm một bước trong sự khống trị chúng ta. Không
tin ư? Xin bạn hãy chịu khó đọc tiếp: Dưới đây là những điều đã được tiết lộ,
có thể kiểm chứng qua các tài liệu trên Mạng; còn nhiều nhiều nữa tôi không kể
ra xiết vì sợ rườm rà hoặc chưa thâu được bằng cứ rõ rệt, nhưng thế cũng đủ để
chứng minh âm mưu diệt chủng dân ta để quân Tàu thôn tính nước ta của bè lũ
Trung cộng và Hán nô Việt cộng.
Đông dân Việt Nam ở quốc nội bị nhà nước cộng
sản bưng bít và tuyên truyền láo phét về mọi mặt, chính trị, kinh tế, xã hội,
v.v., nhận thấy đời sống của mình ngày càng kiệt quệ, siêu cao thuế nặng, quan
chức lộng hành, tai ương bệnh hoạn triền miên, dân Tàu nhan nhản vênh vang khắp
mọi nơi đấy, nhưng chỉ biết than trời trách phận mà không tìm hiểu duyên cớ tại
sao ra nông nỗi. Nguyên do chính là nhà cầm quyền cộng sản đã bán nước từ lâu
cho Tàu cộng.
HỒ CHÍ MINH VÀ HIỆP ƯỚC THÀNH ĐÔ
Giờ thì đã nhiều chứng cứ được đưa ra để khẳng
định rằng Hồ Chí Minh, kẻ được nhà nước XHCN vinh danh là cha già dân tộc (làm
như trước hắn không có dân Việt!) thực ra chỉ là một tên thiếu tá Tàu cộng, tên
thật là Hồ Tập Chương, bí danh Hồ Quang, do Cộng sản quốc tế huấn luyện để nắm
đầu nhóm cộng sản Việt Nam vào năm 1939 dưới lốt Nguyễn Tất Thành/Nguyễn Ái
Quốc mất tại nhà tù Hồng Kông năm 1932[i]. Nhưng dù là Tàu hay Việt, Hồ Chí
Minh cũng trước hết là một kẻ man trá. Vì ngay cái tên Nguyễn Ái Quốc[ii] mà
hắn dùng để được coi là một nhà yêu nước văn hay chữ tốt cũng là một cái tên ăn
cắp; bởi chính ra Nguyễn Ái Quốc là bút hiệu chung của ba nhà cách mạng Phan
Châu Trinh, Phan Văn Trường và Nguyễn Thế Truyền như Hồ Hữu Tường kể lại trong
hồi ký “40 năm làm báo”; vì Nguyễn Tất Thành nhờ quen biết Phan Châu Trinh hay
lai vãng tới chỗ các ông tụ họp, các ông đã đề nghị cho anh chàng ít học này
đội cái tên Nguyễn Ái Quốc, để lừa sự theo dõi của mật thám Pháp đối với các
ông; do thời cơ đó Nguyễn Tất Thành nhận vơ luôn là nhà cách mạng tăm tiếng đã
được mời đến hội nghị Tours (nơi Thành, NAQ giả, đọc bản diễn thuyết do NAQ
thật viết), tác giả của những áng văn chương hùng hồn chống thực dân, như “Bản
án chế độ thực dân”, tuy bản văn này rõ ràng là do Nguyễn Thế Truyền viết như
ghi trên bản in đầu của tập sách.
Năm 1948, thấy thủ đoạn cướp chính quyền và
tuyên bố độc lập xạo[iii]của mình không đủ để cộng sản giật hẳn chính quyền
khỏi tay Bảo Đại, Hồ Chí Minh đã quyết dùng vũ lực để lật đổ chế độ quốc gia
dưới mỹ từ đánh đuổi thực dân, trong khi Pháp đã hết là thực dân và Việt Nam
đang có một chính phủ tự do. Để thực hiện tham vọng này, Hồ Chí Minh đã không
ngần ngại hứa biến Việt Nam thành một phần của Trung Cộng để đổi lấy sự hỗ trợ
quân sự của Mao Trạch Đông (nếu Hồ tặc là người Tàu thì đó chỉ là việc thi hành
lệnh của Mao). Bằng chứng là giao ước ký giữa Hồ và Mao ngày 12/6/1953 tại
Quảng Tây[iv].
Cho nên, không lấy gì làm lạ khi vào năm 1990,
sau chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979-1989)[v], trước sự tan vỡ của các
chính thể cộng sản đông Âu, đám chóp bu Hà Nội tham quyền cố vị rủ nhau sang
Trung Cộng khấu đầu xin phục tùng đàn anh và nguyện theo gương “Bác” dâng đất
nước cho kẻ thù truyền kiếp thông qua mật ước Thành Đô. Đã là mật ước, văn kiện
này không hề được công bố, nhưng với thời gian, sự thực thi những điều khoản
“lạ lùng” trong đó, cộng với những sự hé lộ từ trong nội bộ đồn ra từ khoảng
2010, sự thật về hành động bán nước vô tiền khoáng hậu của lũ tặc quyền đã được
phơi bày ra ánh sáng. Tháng 4 năm 2013, thiếu tướng Hà Thanh Châu, chính ủy
tổng cục công nghiệp quốc phòng, nhân dịp sang Mỹ thăm con du học bên ấy, xin
tị nan chính trị và trao cho tạp chí The Foreign magazine một tập tài liệu bí
mật của Tổng cục 2, theo đó mật ước Thành Đô chỉ là văn kiện chính thức cụ thể
hóa những lời cam kết của Hồ Chí Minh với Trung cộng từ ngay 1926, được chấp
nhận bởi nhà cầm quyền Việt Nam khi xin cầu hòa với Bắc Kinh vào tháng 8/1987.
Chính Nguyễn Văn Linh đã đề nghị với Đặng Tiểu Bình năm 1987 tại Trùng Khánh
rồi năm 1990 tại Thành Đô một chương trình “sáp nhập Việt Nam vào lãnh thổ
Trung Cộng”, qua chiến thuật “hòa bình, hữu nghị, chầm chậm, êm ả, kín đáo,
không có ai có quyền biết đến”. Và Đặng Tiểu Bình rồi Giang trạch Dân đã cho
Việt Nam một thời hạn chuyển tiếp là 60 năm, phân làm 3 giai đoạn, mỗi giai
đoạn 20 năm, kể từ năm 2000:
2000 – 2020: Việt Nam là một tỉnh tự trị
2020 – 2040: Việt Nam là một tỉnh thuộc trị
2040 – 2060: Việt Nam đổi tên là Âu Lạc và thành
một tỉnh lỵ dưới sự quản trị của tổng đốc Quảng Châu. [vi]
Trên thực tế, kết quả của mật ước Thành Đô là
một tiến trình sáp nhập Việt Nam vào Trung Cộng được thực thi như sau:
SỰ LỆ THUỘC VỀ CHÍNH TRỊ
– Dựa trên những cam kết của tặc quyền Hà
Nội, Bắc Kinh đã sau đó cho in bản đồ Trung Cộng với Việt Nam thuộc vào đất của
họ để giảng dạy cho học sinh nước họ rằng Việt Nam là đất Trung Hoa, rồi mỗi
khi sinh chuyện với Việt Nam là họ chửi Việt Nam là “đứa con hoang phản bội”.
Phía nhà cầm quyền Việt Nam thái độ trước sau vẫn là sự im lặng nhục nhã.
– Năm 1992, Việt Nam sửa đổi Hiến
pháp ban năm 1980 để xóa bỏ những điều có ý chống Trung Cộng xâm lược.
– Để tỏ lòng “hữu nghị”, Việt Nam từ đây
phải tránh nhắc tới chiến tranh biên giới với Trung Cộng. Hèn hạ hơn, Hà Nội
chịu đục chữ liên quan đến chiến tranh trên mộ của của các tử sĩ Việt Nam trong
khi ngược lại để mặc cho Trung Cộng xây nghĩa địa khang trang trên đất ta cho
binh lính tử trận của chúng, cũng như không phản kháng khi chúng ủi mồ của binh
sĩ Việt Nam trên phần đất cắt cho chúng. Ngoài ra, trong khi Trung Cộng không
ngưng kể công và đòi nợ về sự hỗ trợ của chúng trong hai cuộc chiến gọi là
chống thực dân và đế quốc (trái với Mỹ giúp đỡ không Việt Nam Cộng Hòa), Việt
Nam không bao giờ dám đòi Trung Cộng bồi thường cho những thiệt hại chúng gây
ra trong cuộc chiến biên giới. Thêm vào Việt Nam phải tiếp nhận trở lại những
người Hoa ra đi khỏi Việt Nam thời chiến tranh Việt Trung.
– Năm 1999, Việt Nam ký kết với Trung Cộng
một hiệp ước về biên giới đất liền, theo đó Việt Nam nhượng cho Trung Cộng
khoảng 900 km2 [vii], trong số đó có nửa đẹp nhất của thác Bản Giốc và Ải Nam
Quan là hai địa điểm lịch sử của nước nhà.
– Năm 2000, hiệp định phân định Vịnh Bắc
Việt nhượng cho Trung Cộng bãi Tục Lãm và từ 11000 đến 16000 km2 lãnh hải (tùy
theo ước lượng của của các tác giả); Việt Nam chỉ còn 53% biển trong vịnh so
với 62% trước đây. Thêm vào, Trung Cộng đòi Việt Nam để cho Trung Cộng khai
thác chung ngư nghiệp tới 30% lãnh hải khiến cho Trung Cộng thực sự chiếm 2/3
vịnh [viii].
– Về Hoàng Sa Và trường Sa, các đảo này đã
bị nhà nước cộng sản gián tiếp nhượng cho Trung cộng từ 1958 qua công hàm nhìn
nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng biển trong giới hạn 12 hải lý, tức giới
hạn trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Cộng sản Việt Nam cãi chì cãi chầy rằng
công hàm đó không hề đả động đến hai quần đảo Hoàng Sa Trường Sa, thế thì tại
sao ít lâu sau Hà Nội cho in một bản đồ Việt Nam với hai quần đảo này dưới tên
Tàu của chúng là Tây Sa và Nam Sa? [ix] Thêm vào, tại sao Hà Nội cấm dân Việt
Nam biểu tình đòi Trung Cộng trả lại Trường Sa – Hoàng Sa, đàn áp và bỏ tù
những ai không tuân lệnh?
– Chính quyền cộng sản Hà Nội vin vào một
lối giải thích gượng gạo công ước quốc tế để biện hộ cho sự đánh mất lãnh thổ
và lãnh hải ở biên giới, nhưng làm sao bào chữa cho sự dâng cắt dần dà hàng
chục ngàn km2 đất rừng, đất dọc biển, đất nội địa, toàn những đất quý giá giàu
tài nguyên cho Trung cộng, dưới hình thức nhượng địa tới 70 năm cho công ty của
họ khai thác, và lại nữa để họ khai thác bằng cách phá hoại vô tội vạ?
– Năm 2013, Việt Nam ký 10 văn kiện
“hợp tác” chính thức cho phép Trung Cộng can thiệp vào việc nước của Việt Nam,
trong mọi lĩnh vực ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, xã
hội, v.v. Trung cộng có thể từ đây cài một cách công khai (không cần giấu giếm)
cán bộ của mình, được dân gọi là “tình báo Hoa Nam” trong bộ máy công quyền
Việt Nam, ở mọi cấp bậc tới tận chức chủ tịch nhà nước (chẳng hạn như Hoàng
Trung Hải, Tô Lâm). Kể từ đại hội nghị thứ 8 (1996) đaị hội nghị nào của
Đảng cũng đều chịu sự giám sát của phái đoàn Cộng sản Trung Cộng, và vì đó là
thời cất nhắc các quan chức, Trung cộng có thể trực tiếp canh chừng cho chỉ
những người thân Trung Cộng được bổ nhiệm. Nhờ có tai mắt khắp nơi Trung cộng
có thể cho thanh trừng hay sát hại những người máu mặt có tâm chống đối chúng,
ví như vụ trung tướng tổng tham mưu trưởng Đào Trọng Lịch, và trung tướng tư
lệnh quân khu 2 (là quân khu rất quan trọng cho sự phòng thủ biên giới phía
bắc) Trần Tất Thanh cùng 18 sĩ quan trung cao cấp khác, từng là anh hùng thời
chiến tranh biên giới Việt-Trung bỗng tử nạn trong một chuyến bay ở Lào tháng
5/1998, hay vụ thiếu tướng Lê Xuân Duy, cũng tư lệnh quân khu 2 và nghịch Trung
bỗng đột ngột tử vong sau ba tháng nhậm chức vào tháng 7/2016.
Chính để thi hành quyết định “tăng cường định
hướng đứng đắn báo chí và dư luận” ghi trong thỏa ước hợp tác đó, mà Trương Tấn
Sang đã lập ra đội “dư luận viên” tráo trở có công tác làm chó săn cho Đảng.
– Trên nguyên tắc dân Việt Nam và Trung
Cộng có thể đi lại dễ dàng qua nước nọ nước kia, nhưng trong thực tế đó là một
sự ưu đãi đơn phương. Dân Việt sang Trung Cộng vẫn phải chìa hộ chiếu, nhưng
dần dà người Hoa tha hồ qua cửa khẩu không bị xét; mới đây qua những chuyến bay
và chuyến tàu đi thẳng từ Trung Cộng đến hải cảng và phi cảng địa phương nhượng
cho Trung cộng, người Hoa ra vào Việt Nam thoát hẳn mặt cơ quan công quyền Việt
Nam. Vì cả nể hay do một thỏa thuận ngầm giữa hai Đảng, người Hoa có thể cư trú
công khai tại Việt Nam mà chẳng ai dám hỏi giấy. Đã thế chúng chỉ cần chấm chỗ
nào là quan chức ký giấy trục xuất cư dân bản xứ đổi lấy một số tiền bồi thường
rẻ rề rồi giao đất cho quan thầy chỗ đó, gây ra không biết bao là “dân oan” mất
nhà mất cửa mất phương tiện sinh kế.
– Người Hoa sống ở Việt Nam được tặc
quyền cho hưởng một quy chế kẻ cả. Chúng có quyền lập khu riêng biệt lớn ngang
thị xã, không cho người Việt vào, trong đó chỉ tiếng Tàu và tiền Tàu được sử
dụng, ví như tại Bình Dương.
– Tháng giêng 2017 Nguyễn Phú Trọng sang
Trung Cộng ký thêm 15 văn kiện xiết chặt hơn sự “hợp tác” một chiều (vì chỉ
Trung Cộng có quyền can thiệp vào Việt Nam nhưng Việt Nam không những không có
quyền nhòm vào việc của Trung Cộng, còn ngược lại phải tuân thủ mọi yêu cầu của
Bắc Kinh), về thương mại kinh tế, văn hóa chính trị, đặc biệt về đào tạo cán bộ
cao cấp và an ninh quân sự, với mục đích hợp nhất hai đảng và hai quân đội.
– Tâm địa Hán nô của bè lũ chóp bu
Việt cộng thể hiện qua sự sử dụng một lá cờ Trung cộng 6 sao thay vì lá cờ
chính thức 5 sao (1 sao lớn với 4 sao nhỏ vây quanh). Theo Mao Trạch Đông 4 sao
nhỏ biểu thị 4 giai cấp sĩ nông công thương cùng một chí hướng cộng sản, nhưng
theo lối giải thích thông thường của người Hoa dựa trên một truyền thuyết có từ
thời Tôn Dật Tiên thì 4 sao nhỏ đó tượng trưng cho 4 tộc lớn ở biên thùy do
Trung Cộng chinh phục: Mãn Châu, Nội Mông, Tân Cương và Tây Tạng. Như vậy ngôi
sao nhỏ do Đảng vẽ thêm có ý biểu hiệu cho Việt Nam, tộc và tỉnh tự trị thứ 5
của Trung Cộng. Lá cờ 6 sao này xuất hiện lần đầu tiên trên đài truyền hình VTV
đằng sau một nữ nhân viên, sau đó được mọi người thấy trong tay các em học sinh
đứng đường chào đón phó chủ tịch Tập Cận Bình viếng thăm Việt Nam năm 2012.
Trước sự phản đối của báo chí, nhà chức trách đổ tội cho lỗi lầm của xưởng in
cờ! Thế nhưng năm 2015 lá cờ 6 sao đó lại được treo trong một cuộc họp giữa cán
bộ Việt-Trung, và mới đây dân biểu tình bị công an bắt thấy nó chình ình ở
trong đồn cảnh sát. Khi Việt Nam chính thức thành tỉnh của Trung Cộng sẽ chỉ có
lá cờ 6 sao đó được treo, thay thế cho lá cờ đỏ sao vàng, chính ra cũng chỉ là
một ngọn cờ Trung cộng. Các tín đồ Cộng Sản Việt Nam nào có biết rằng họ đã bị
Hồ Chí Minh chơi trò xỏ lá khi bắt họ nhận hiệu kỳ của Đoàn thanh niên tiên
phong Cộng Sản Trung Hoa[x](chứ không phải cờ của tỉnh Phúc Kiến, là lá cờ cũng
do Cộng Sản chọn nhưng cho Mặt trận giải phóng miền Nam VN!) làm quốc kỳ!
SỰ LỆ THUỘC VỀ VĂN HÓA
Với tinh thần bành trướng của chúng, Trung Cộng
không thể không muốn áp đặt văn hóa là cái đích đi đôi với sự chi phối chính
trị. Chúng ta đã thấy nó hiện ra trong lá cờ chúng khiến tặc quyền chọn làm
quốc kỳ hiện tại (cờ đỏ sao vàng) và tương lai (cờ đỏ sáu sao). Quên rằng chúng
vẫn phải đối địch với những nước được thành lập bởi người cùng chủng tộc với
chúng như Tân Gia Ba (Singapore) hay Đài Loan, chúng quan niệm Việt Nam sẽ hết
là mối nguy nếu dân Việt bị Hán hóa. Cho nên chúng yêu sách tặc quyền Hà Nội
ban ra một số nghị quyết:
– Cổ súy tình hữu nghị giữa Trung Cộng và
Việt Nam và lấy lẽ đó để xóa bỏ vết tích của cuộc chiến năm 1979-1989: thu hồi
các sách báo nói về cuộc chiến ấy, sách giáo khoa không được dành quá 11 giòng
cho nó, cấm tuyệt dân chúng tưởng niệm chiến sĩ bỏ mình trong thời gian đó. Kết
quả mong muốn là thế hệ trẻ phần lớn không nghĩ rằng nó đã từng xảy ra.
– Cấm chỉ đích danh Trung Cộng mỗi
khi Trung Cộng có hành động gây hấn, khinh mạn, trái luật, mà phải dùng những
từ vu vơ kiểu như “ngư dân bị tàu lạ bắn”.
– Tránh vinh danh những anh hùng
lịch sử có công đánh đuổi giặc Tàu. Nếu không sợ dân phẫn uất lũ Hán nô đã cho
dẹp bỏ tượng đài của những nhân vật ấy rồi; hiện tặc quyền chỉ dám đụng tới
tượng thờ tại gia của những vị đó: bằng chứng chuyện xảy ra cho một bức tượng
Trần Hưng Đạo ở Lâm Đồng[xi]. Trong bối cảnh này dễ hiểu tại sao một tên tặc
khuyển như sư hổ mang Thích Chân Quang, kẻ đã có ác tâm thả hàng tấn cá chim
trắng vào sông Hồng, dám tuyên bố trước công chúng rằng Lý Thường Kiệt mang
quân sang đánh Trung Cộng là “hỗn”.
– Thi hành những biện pháp truyền bá tiếng
Hoa tại Việt Nam: Cho dịch sách báo Trung Cộng, nhất là sách ca ngợi các nhà
lãnh đạo Trung Cộng. Lồng chương trình của đài truyền hình Trung Cộng vào
chương trình của đài truyền hình Việt Nam. Phổ biến phim và nhạc Tàu. Phát sóng
những kênh nói toàn tiếng Hoa. Đưa dần tiếng Hoa vào chương trình giáo khoa. Cho
phép mở Viện Khổng Tử tại các thành phố lớn của Việt Nam.
SỰ LỆ THUỘC VỀ THƯƠNG MẠI
Sự hàng phục về chính trị luôn luôn lôi kéo sự
áp đảo về kinh tế thương mại. Ngay sau hiệp định về biên giới đường bộ, ngày
7/11/1991 nhà cầm quyền Việt Nam ký với Trung Cộng một hiệp định về thương mại
theo đó hai nước trao đổi hàng hóa không hạn chế, với đặc quyền tối ưu đãi. Từ
đó không cuộc gặp gỡ nào giữa lãnh đạo hai bên mà không kết thúc bằng một thỏa
ước hay điều khoản về thương mại và kinh tế. Các thỏa ước, trên nguyên tắc dựa
trên sự bình đẳng vì là trao đổi tự do, thực ra hết sức bất bình đẳng vì hai
đối tượng quá chênh lệch về tầm phát triển, khả năng sản xuất và tiền tệ; đấy
là không kể tinh thần nô dịch của các quan chức Việt Nam khiến mỗi yêu cầu của
Bắc Kinh biến thành mệnh lệnh, thành thử mỗi chỉ tiêu tăng gia thương mại do
Trung Cộng đề xuất được hiểu là Việt Nam phải ưu tiên mua bán và ký hợp đồng
với Trung Cộng nhiều hơn nữa không cần biết loại hàng hóa và loại doanh nghiệp
nhập vào nước có thích hợp hay không. Kết quả là:
– Hàng hóa Trung Cộng tràn ngập Việt
Nam, giết dần giết mòn công nghệ Việt Nam do giá rẻ mạt của hàng Trung Cộng
tương tự. Vì hàng Việt Nam xuất khẩu chẳng có bao nhiêu (hàng Trung Cộng mua
phần lớn là vài nông phẩm như gạo, sắn, cao su, khoáng chất và nhiên liệu
(than, dầu khí), trong khi thượng vàng hạ cám hàng hóa Trung Cộng
(chủ yếu, tới 75%, là hàng công nghệ, thành phẩm, vật tư) đổ vào Việt Nam; bởi
phần lớn hàng Việt Nam bán cho Trung Cộng là nguyên liệu thô, sản xuất cực nhọc
lại giá cả kém cỏi, trong khi hàng mua của Trung Cộng là thành phẩm giá cao,
cán cân kim ngạch thương mại thiên hẳn về phía Trung Cộng[xii]. Ví như Việt Nam
bán 70% sản lượng cao su của mình cho Trung Cộng nhưng lại nhập từ Trung Cộng
sản phẩm chế từ cao su trị giá ba lần số cao su bán[xiii].
– Nhờ vào áp lực chính trị và điều
kiện tín dụng dễ dàng, Trung Cộng trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
Việt Nam kể từ 2003. Thay vì đa dạng hóa thị trường để tránh lệ thuộc vào Trung
Cộng, Việt Nam chỉ lo đạt chỉ tiêu mậu dịch của Bắc Kinh, đến độ về nhập khẩu
không đi hỏi nước khác mà lại đặt mua những thiết bị lạc hậu của Tàu mang về
trang bị nhà máy nước mình, gây ra thiệt hại nặng nề cho năng suất cũng như môi
trường; về xuất khẩu thì bất kể lượng tiêu dùng trong nước, trưng thu gạo của
nông dân với giá bóc lột (3000 đ/cân) để bán cho Trung Cộng khiến dân thiếu gạo
phải đi mua gạo (có khi là gạo giả) nhập từ Trung Cộng với giá gấp ba. Cái lối
quản trị thương mại quái đản này xảy ra trong nhiều ngành khác: nhà nước bán
hết than Quảng Ninh cho Trung Cộng để rồi không có than dùng[xiv] trong nhà máy
nhiệt điện Việt Nam, phải đi mua than của Úc, Nga và Nam Dương (Indonesia) và
cả của Trung Cộng với giá cao hơn nhiều[xv]. Cái độc của việc Trung Cộng mua
gạo và than của Việt Nam nằm ở sự thực ra Trung Cộng không thiếu gạo cũng như
không thiếu than mà còn là nước xuất khẩu hai hàng đó, nhưng chúng dùng áp lực
chính trị và tiền nợ để ép Việt Nam bán những sản phẩm cần thiết của mình cho
chúng với giá ưu đãi để rồi Việt Nam phải đi mua lại với giá cao hơn cũng loại
sản phẩm ấy ngõ hầu đáp ứng nhu cầu của chính mình.
– Lạ lùng nhưng không hiểu tại sao
(ngay báo của đảng cũng lấy làm lạ[xvi])Việt nam là một nước nông nghiệp lại
bỗng dưng nhập khẩu rau quả củ của Tàu đầy hóa chất, đôi khi còn là của giả.
Nông sản của Việt Nam đâu mất rồi? Như kiểu gạo, đã bị cơ quan nhà nước trưng
thu bán đi để có tiền trả nợ công hay đã do thương lái Tàu mua lậu mua sỉ hết?
– Hiện thời, trên nguyên tắc[xvii],
hàng Trung Cộng phải chịu thuế suất, thuế nhập khẩu, ấy vậy đã ngập thị trường
rồi, sang năm 2018, theo quyết định của ASEAN những thuế đó sẽ bị bãi bỏ, liệu
sẽ còn hàng Việt Nam để cạnh tranh với chúng không?
SỰ PHÁ HOẠI KINH TẾ
Việt Nam là một nước nhỏ bé song le được Trời
phú cho rất nhiều tài nguyên: rừng vàng, biển bạc, châu thổ phì nhiêu, mỏ quặng
phong phú, lại thêm dầu khí; vì thế cho nên bị tên láng giềng khổng lồ không
ngưng nuôi mộng chiếm cứ, xâm lược mấy lần mà vẫn không trôi. Cuối cùng, thời
cơ đã đến với Trung Cộng nhờ vào một đám cuồng Đảng vô liêm sỉ tự nguyện
làm tay sai cho quan thầy Tàu; lần này, học được kinh nghiệm ngàn năm và đặc
biệt kinh nghiệm của cuộc chiến biên giới, Trung cộng thấy trước khi dùng đến
vũ lực, cần phải hủy hoại kinh tế và môi trường Việt Nam để làm cho dân Việt
Nam chẳng chết thì cũng suy nhược mất sức phấn đấu chống lại sự Hoa hóa đất
nước. Một khi kinh tế Việt Nam bị lũng đoạn, đương nhiên kinh tế Việt Nam trực
thuộc Trung Cộng theo như chủ trương “thực hiện nhất thể hóa kinh tế Việt-Trung…làm
cho Việt Nam nhập vào vành đai kinh tế Trung Cộng, … ràng buộc hai nước lại với
nhau, Việt Nam muốn phản bội cũng không có thể”[xviii].
Nông nghiệp:
Tuy ngày nay nông nghiệp chỉ chiếm 18% GDP, đại
đa số dân Việt (70%) còn là nông dân, nên muốn hủy diệt dân Việt không gì bằng
phá hoại ngành nông của Việt Nam. Mặc dầu đồng ruộng phân mảnh, phương tiện tân
tiến không mấy được dùng, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích
đáng kể: nước xuất cảng thứ nhất trên thế giới về hạt điều và hồ tiêu, thứ hai
về gạo và cà-phê, nước sản xuất thứ 5 về cao-su và thứ 6 về trà; nhưng vì nông
sản xuất khẩu là hàng thô, ít chất lượng cao, giá cả kém, nên nhiều triệu tấn
hàng chỉ mang lại có 32 tỷ USD (so với con số 15.000 tỷ USD nông sản trao đổi
trên thế giới) năm 2015, có lẽ là năm thịnh cuối cùng của ngành nông Việt Nam.
Lý do là từ 2010, nó bị Trung Cộng phá rối qua nhiều phương cách:
– Trung Cộng cho xây đập thủy điện
trên thượng lưu sông Hồng và sông Mê Kông ở Vân Nam để giữ độc quyền nước sông
đồng thời kiềm chế lưu lượng của sông và ức chế kinh tế và an ninh lương thực
của Việt Nam (1/3 nông sản được sản xuất ngoài Bắc và 2/3 trong Nam). Sông Hồng
chỉ chảy qua Việt Nam nên Trung cộng không gặp phản đối nào; ngược lại Việt
cộng còn bắt chước đàn anh, cũng xây đập trên sông Hồng (đập Hòa Bình và nhiều
dự án đập khác). Nhưng đánh đổi với điện của đập là hiện tượng giảm trầm tích,
lở bờ, xâm mặn, lũ lụt và hạn hán, thiếu nước ngọt, .vv. Những hiện tượng này
rất trầm trọng ở châu thổ Cửu Long vì Trung Cộng xây đến cả chục đập trên
thượng lưu sông, trong đó có hai công trình khổng lồ là đập Tiểu Loan (dung
lượng 15 tỷ m3- 2010) và đập Nọa Trát Độ (dung lượng 23 tỷ m3 – 2012). Vì ở hạ
lưu, sông Mê Kông còn chảy qua Miến Điện, Thái Lan, và đặc biệt Lào, Cam Bốt,
các quốc gia này đã cùng Việt Nam lập ra một “Ủy hội sông Mê Kông” để bàn về sự
quản lý dòng sông hay đúng hơn để thương lượng với Trung Cộng. Song, với tinh
thần bá chủ xấc xược, Trung Cộng không thèm tham gia Ủy hội và bất chấp các lời
cảnh cáo từ các tổ chức quốc tế về những nguy hại cho sinh thái của động vật và
sinh kế của người dân, chúng vẫn cho các đập của chúng hoạt động, không chấp
nhận thông báo gì cho các quốc gia liên can, muốn tháo nước lúc nào thì tháo,
cho dù ở hạ lưu đang có hạn hán hay mưa lụt. Không lay chuyển được Trung Cộng,
các nước kia bèn hùa theo Tàu cũng xây đập. Đặc biệt Lào do thế lợi thiên
nhiên, có dự án xây nhiều đập lớn với ước mộng trở thành kẻ cung cấp điện cho
toàn vùng. Việt Nam,ở đồng bằng không thể xây đập trên sông Mê Kông, đành chịu
trận, để nhòm một nửa miền Tây trước kia trù phú, ruộng nương thẳng cánh cò
bay, nay ngập lũ triền miên, mai khô héo lở nứt, dân cư điêu đứng không làm ăn
được, phải di tản đi nơi khác, một số ra tận nước ngoài làm mọi cho người.
– Đối với những nông dân còn lại, Trung
cộng để cho thương lái[xix] Tàu nghĩ ra trăm ngàn quỷ kế để đưa họ vào chỗ sa
sút, thường bằng cách đẩy giá thật cao bất cứ hàng gì, rồi sau một hai vụ, rút
lui làm hàng sập giá. Bọn thương lái đi khắp nơi và hỏi mua những món hàng lạ
như móng trâu, móng bò, lá khoai, lá điều khô, rễ sắn, rễ tiêu, .v.v.; dân quê
thường nghèo đói, dốt nát và ham lợi, thấy bán được hàng tầm phào với giá cao
là đổ sô vào cuộc, không ngại mổ bò giết trâu (có khi còn đi chặt trộm chân của
bò trâu hàng xóm) để rồi trong vùng không còn phương tiện kéo cầy, bứt lá đào
rễ để mất cây mất giống. Chúng còn muốn tận diệt những thực vật quý hiếm của
Việt Nam và tiếp tục phá rừng bằng cách đặt mua với giá cao lá chua ke, thân
cây cu li, gỗ cây sưa, cây kim cương, cây máu chó .v.v., chỉ có ở
rừng.[xx] Chúng dạy dân độn hàng, làm giả để kiếm thêm lợi. Chúng nhử dân nuôi
gián, đỉa, ốc bươu vàng .v.v., là những động vật tăng sinh có hại cho sinh thái
và mùa màng. Dân quê bỏ ruộng vườn chạy theo lợi ảo khiến nông sản giảm sút.
Tác động của bọn thương lái gây rối loạn trong thị trường, tổn hại đến kinh tế
Việt Nam, nhưng điều lạ hơn là nhà chức trách khoanh tay để cho chúng hoành
hành, không điều tra ngành ngọn. Hành vi của chúng có tính quá quy mô và dai
dẳng nên không thể bảo chúng chỉ là những cá nhân hoạt động riêng rẽ, mà phải
hiểu rằng chúng đang áp dụng một âm mưu thâm độc của Bắc Kinh[xxi].
Lâm nghiệp – phá rừng:
Tổ tiên ta đã để lại cho chúng ta một đất nước
với rừng vàng biển bạc. Nhưng chỉ trong 40 năm cái gia tài quý báu ngàn năm của
chúng ta đã bị giặc Tàu phá tan với sự đồng lõa của bè lũ tặc quyền Hà Nội. Năm
1943, 43% diện tích Việt Nam (tức 139.905 km2 vì VN thời đó có 325.360 km2,
theo con số của tác giả dẫn ở dưới) được rừng che phủ. Trong 30 năm từ 1943 đến
1973, suốt hai cuộc nội chiến mang danh là chống Pháp và Mỹ với bom đạn triền
miên chỉ có 22.000 km2 rừng bị hủy hoại[xxii], tức chưa tới 16% rừng chứ không
phải 60% như đảng rêu rao, và như vậy sau chiến tranh Việt Nam còn khoảng
118.000 km2 rừng; nhưng 17 năm sau (1990), trong thời bình, số rừng còn lại chỉ
là 91.750 km2, nghĩa là 26.520 km2 bị hủy hoại, nhiều hơn thời chiến tranh. Do
đó một chương trình trồng lại rừng đã được phát huy, nhưng độ phá rừng vẫn mạnh
với năm tháng, hủy hoại những cánh rừng mưa nguyên sinh quý báu, nuôi dưỡng hơn
ngàn sinh vật khác nhau, với những giống chỉ thấy tại Việt Nam và được Liên
Hiệp Quốc che chở. Năm 1990, số rừng nguyên sinh của Việt Nam còn tương đương
với 10% tổng số rừng, nhưng đến năm 2010, theo CIFOR chỉ còn khoảng 80.000 ha
rừng nguyên sinh (0,6% tổng số rừng), trên nguyên tắc được bảo vệ nhưng vẫn
thường xuyên bị cướp phá. Ngày nay, theo Bộ nông nghiệp công bố ngày 27/7/2016,
rừng che phủ hơn 40% diện tích toàn quốc, trong đó 20% là rừng trồng (ít cây
bản địa mà chủ yếu là bạch đàn, thông, keo, tre luống), 1,3% là rừng đặc sản
(cao su, cà phê, hồ tiêu, lý ra không được gồm trong mục rừng), còn lại là rừng
tự nhiên, đa số là rừng tái sinh thuộc loại thưa nghèo.
Hậu quả của sự phá rừng là đất bị xói mòn, trọc
lở, khó canh tác, khí hậu khô hạn và nước trôi bề mặt gây ra lũ lụt, không kể
sinh thái mất tính đa dạng.
Rừng bị phá do nhiều nguyên nhân, quan trọng
nhất là sự gia tăng dân số lôi cuốn theo những nhu cầu về không gian, xây cất,
gia dụng (củi), phát triển nông nghiệp (chuyển rừng sang đồn điền cà phê, hồ
tiêu, cao su, .v.v.) và công nghiệp (các loại nhà máy, đặc biệt nhà máy
nhiệt điện và thủy điện); nhưng cái tệ hại đáng kể là sự quản lý lỏng lẻo của
nhà nước Cộng Sản trong việc cấp đất và kiểm soát sự sử dụng đất, không ngại để
cho giặc Tàu nghiễm nhiên chiếm cả trăm ngàn ha rừng dưới cái cớ khai thác lâm
nghiêp và công nghiệp. Nếu không có lá thư phản kháng của hai tướng Đồng Sĩ
Nguyên và Nguyễn Trọng Vĩnh[xxiii]ngày 11/2/2010 ít ai biết tặc quyền Hà Nội đã
cho Trung Cộng, Đài Loan và Hồng Kông thuê và khai thác dài hạn (50 năm)
264.000 ha rừng đầu nguồn, 87% chủ yếu ở các tỉnh xung yếu ở biên giới. Nhà
nước cộng sản còn cho phép mỗi công ty Trung Cộng tàn phá cả ngàn hay chục ngàn
ha rừng, kể cả rừng già, ở vùng duyên hải và các tỉnh ở Tây bắc và Tây nguyên,
để có đất xây nhà máy và tùy nghi sử dụng. Ngoài ra, phải kể đến đám lâm tặc
cướp gỗ từ rừng nguyên sinh và rừng già để bán cho Tàu, với sự tiếp tay của
quan chức Cộng Sản rất sính trang hoàng nhà cửa bằng gỗ quý.
Ngư nghiệp:
– Ngay sau hiệp định về vịnh Bắc Bộ,
Trung Cộng được nhượng nhiều phần biển chưa đủ, đòi thêm quyền đánh cá trong
vùng đặc quyền của Việt Nam, dưới hình thức một thỏa thuận “hợp tác” về ngành
cá, có nghĩa là tàu bè tối tân của Trung Cộng sẽ vào phần vịnh của Việt Nam câu
tranh cá của ngư dân Việt Nam với thuyền tàu nhỏ bé.
– Do sự sa thải chất độc bởi công ty
Formosa (sẽ nói ở sau), biển miền Trung coi như chết, nghề câu cá, nghề làm
muối, nghề làm nước mắm cũng chết theo, gây nạn thất nghiệp, bệnh tật và nghèo
đói cho ngư dân thuộc 5 tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên – Huế. Ngư dân nào ra ngoài khơi xa bờ biển kiếm cá sạch phải liều mạng
vì thuyền gỗ nhỏ bé của họ có thể bị thuyền bọc sắt và trang bị vũ khí của ngư
dân (hay lính giả làm ngư dân) Tàu đâm hoặc bắn chìm; bén mảng xa hơn gần Hoàng
Sa Trường Sa thì họ có cơ bị bắn bể sọ bởi hải quân Tàu như lại xảy ra ngày
11/3/2017 mới đây[xxiv]. Còn sợ bị Trung Cộng bắn, đi xa hơn đến tận biển của
Thái Lan, Mã Lai và Nam Dương thì có cơ nguy bị cảnh sát của họ bắt giữ.
– Sông hồ Việt Nam cũng đang hấp hối
vì các chất độc sa thải từ các công ty bẩn không bị kiểm soát của Trung Cộng,
đưa đến sự tiêu diệt dần ngành thủy sản trong nước. Ví dụ ở ngoài Bắc, theo báo
Pháp luật Việt Nam ngày 10/10/2016, thủy sản ở các ao hồ Hà Nội gồm 17 000 ha,
cung cấp cho 25-30% thành phố, bị nhiễm kim loại nặng như chì, thủy ngân,
arsenic, cadmium, kền, crom, vv.[xxv]; ở trong Nam thì cuối năm 2014 một cuộc
giám sát nguồn nước giếng khoan quanh Sài Gòn, cấp nước tiêu dùng hàng ngày cho
dân chúng cho thấy trên 1400 mẫu nước thì 1360 không đạt chỉ tiêu lý hóa[xxvi],
chứng tỏ các chất độc đã ăn sâu vào lòng đất.
Công nghiệp
– Sau mật ước Thành Đô, Việt cộng
bắt buộc phải để cho người Hoa sang sinh sống buôn bán ở Việt Nam, và nhà hàng
Hoa Long tại đường Hàng Trống, Hà Nội, của người Hoa góp vốn với người Việt năm
1991 là vụ đầu tư đầu tiên của Trung Cộng vào Việt Nam. Tính đến ngày 10/3/2016
Trung cộng có 1616 dự án còn hiệu lực trị giá 11,19 tỷ USD[xxvii], có mặt trên
khắp lãnh thổ Việt Nam (chính thức là tại 54 trên 63 tỉnh) và là nhà đầu tư thứ
8 tại Việt Nam, nhưng sau quý đầu 2017 chúng đã nhẩy lên vị trí đầu các nước
đầu tư. Cạnh phần lớn các dự án không quá 7 triệu USD (bằng nửa dự án trung
bình của các nước khác) nhưng phủ rộng từ Bắc chí Nam, có một số dự án lên tới
bạc tỷ USD. Thêm vào còn có những dự án trên nguyên tắc do Việt Nam hoàn toàn
làm chủ, nhưng có vốn vay của Trung Cộng nên chịu cùng điều kiện bất thuận lợi.
Cũng như sự nhập siêu từ Trung Cộng, sự có mặt quá lớn của các công ty Tàu tại
Việt Nam, ngoài cái tệ hại chèn ép nông công nghiệp bản xứ, nó còn làm trầm
trọng thêm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Trung Cộng.
– Trung Cộng luôn luôn chọn những
địa điểm có tính chiến lược để lập công ty và luôn luôn được tặc quyền Hà Nội
cấp cho chúng một thửa đất rộng lớn quá nhu cầu của công nghiệp; làm như Trung
Cộng lấy cớ công nghiệp để tiếp thu dần đất đai Việt Nam do Việt Cộng đã bán
cho chúng tại hội nghị Thành Đô, bắt đầu là những thửa đất trọng yếu nhất, quý
giá nhất, đẹp nhất (vùng biên giới, Tây nguyên, duyên hải, các nơi thắng cảnh).
– Do áp lực và tiền hối lộ của Bắc
Kinh, tập đoàn Hán nô Việt Nam thông thường chọn gói thầu của công ty Tàu thay
vì công ty Việt cho mọi dự án lớn bé, viện vào lý do chúng rẻ hơn, tuy biết rõ
rằng giá rẻ đó chỉ là giá dỏm, khi thực thi giá sẽ vượt trội giá dự kiến. Điển
hình là dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông giao cho Tàu đảm trách, khởi công
năm 2008 với giá ước định là 550 triệu USD, tính hoàn thành trong năm 2013, đến
nay vẫn chưa xây xong trong khi giá đã tăng thêm 330 triệu USD. Báo chí đã từng
than phiền về sự làm ăn cẩu thả vô trách nhiệm của nhà thầu Trung Cộng[xxviii],
khiến công trình trì trệ và thiếu an toàn (như lấy đất bùn làm đường xá sẽ làm
đường lún sụn) nhưng nhà nước vẫn làm ngơ, để Tàu nắm gần trọn ngành xây cất:
90% dự án nhà máy điện, 79% dự án xi măng đều do công ty Trung Cộng thầu.
– Chuyện nhà thầu đường sắt Cát Linh
– Hà Đông thật ra không lạ vì chủ đầu tư là Cục đường sắt Việt Nam không có
tiền thực hiện dự án, phải vay tiền của Trung Cộng, mà khi đã vay của đàn anh
tham ác thì phải chịu những điều kiện khắt khe do đàn anh đề ra: dành mọi ưu
tiên cho nhà thầu Tàu, mua thiết bị và nguyên phụ liệu của Tàu với giá do Tàu
ấn định. Đặc biệt chúng bắt phải dùng lao động Tàu, tuy luật VN nhất quán
“không chấp nhận lao động phổ thông nước ngoài vào VN làm việc, kể cả các công
việc cần chuyên gia, giám đốc điều hành hay lao động kỹ thuật, nếu người VN có
thể đáp ứng được thì cũng phải tuyển lao động VN”[xxix]. Khỏi nói, nếu chủ đầu
tư là công ty Tàu kiểu như Formosa, thì chúng chẳng coi nhà nước VN là cái gì,
cơ quan công quyền bị chúng cấm bén mảng tới khu công nghiệp của chúng. Thành
thử hiện giờ ngay tặc quyền VN cũng không rõ hiện có bao nhiêu công dân Trung
Cộng sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Nhất là với chính sách cho người Hoa
đến Việt Nam không cần hộ chiếu và với số lượng cả vạn “du khách” Trung Cộng ùa
vào Việt Nam mỗi ngày, làm sao biết được có bao nhiêu “du khách” ở lại VN không
về, trú ngụ trong các khu và công ty Tàu?
– Sự lệ thuộc vào Trung Cộng khiến
ngành công nghiệp của Việt Nam ở trạng thái lạc hậu không thể vươn lên được.
Tiền bỏ ra để mua những thiết bị và nguyên liệu phụ trợ kém chất lượng và lỗi
thời của Trung cộng[xxx] (tương đương với 70% hàng hóa nhập từ Trung Cộng)
không những làm cho cán cân mậu dịch với Trung Cộng thâm thụt tới 20 tỷ USD,
còn có hại cho sự phát triển và môi trường; nếu được đem dùng để mua thiết bị và
nguyên liệu của nước khác thì công nghiệp Việt Nam sẽ tiến bộ hơn nhiều. Trong
khi nhà thầu Trung Cộng thiếu kỹ năng lại chỉ biết hưởng lợi, nếu để cho các
nước Âu Mỹ Nhật làm tổng thầu thì họ sẽ tôn trọng hợp đồng hơn, sẽ giao một
phần công trình cho người Việt giúp họ có thêm tay nghề, và nhà máy sẽ hoạt
động tốt hơn.
– Công nghiệp Việt Nam hiện không
sản xuất được sản phẩm cụ thể gì cho sự tiêu dùng hàng ngày của dân chúng bởi
sự cạnh tranh của hàng hóa rẻ tiền nhập từ Trung Cộng. Các xí nghiệp Việt Nam
hiện tập trung vào công nghiệp nặng, khai thác tài nguyên, lắp ráp (than, thép,
điện, dầu khí, cơ khí, hóa học), có ít công nghiệp chế biến (may mặc, da giầy),
phần lớn được xây dựng với tiền vay từ các ngân hàng quốc tế. Đa số là những
công ty nhà nước do quan chức hay thân quyến của chúng quản lý, được bổ nhiệm
không phải theo khả năng mà theo bè phái, dễ bị mua chuộc và bị các doanh nhân
Tàu thao túng, để rồi công ty thông thường lỗ lã nợ nần (chủ yếu nợ ngân hàng
Trung cộng) chồng chất, như chẳng hạn công ty Vinachem, chủ hai nhà máy đạm ở
Ninh Bình và Hà Bắc nợ tới 7000 và 8300 tỷ đồng (30,8 và 36,5 T USD)[xxxi], hay
công ty PVC (tổng công ty xây lắp dầu khí VN) lỗ 2362 tỷ đồng (14,3 T USD) danh
tiếng với vụ Trịnh Xuân Thanh
– Tuân theo yêu cầu của Bắc Kinh, Hà
Nội cấp mọi sự ưu đãi cho công ty Tàu, không dám từ chối dự án nào của chúng dù
nó tai hại đến đâu cho đất nước. Trung cộng đầu tư ồ ạt vào Việt Nam không phải
để giúp đàn em phát triển, mà vì lợi ích của chúng và đặc biệt hơn vì qua sự du
nhập vào Việt Nam những nhà máy chế biến nguy hại nhất chúng đạt được nhiều mục
tiêu: chuyển sang nước khác những công nghiệp bẩn và lạc hậu để thực hiện sự
canh tân theo công nghiệp cao tại nội địa, khai thác triệt để những tài nguyên
và ưu thế địa lý của Việt Nam, bóp nghẹt kinh tế Việt Nam, phá hoại môi trường
và phương tiện sinh kế của người Việt để dân tình suy nhược đến độ không còn
sức chống lại sự Hán hóa.
SỰ TÀN PHÁ MÔI TRƯỜNG
Sau nhiều lần toan chiếm Việt Nam, đặc biệt sau
cuộc xâm lăng bất thành năm 1979, Trung Cộng đã rút kinh nghiệm và hiểu rằng
chúng không thể thành công bằng binh lực không thôi trước sự phản kháng của 90
triệu công dân Việt Nam vốn có óc bài Hoa do lịch sử in vào tâm khảm; muốn thôn
tính Việt Nam, chúng thấy trước khi dùng đến bạo lực, phải tìm cách tiêu diệt
dân Việt một cách khôn ngoan, khiến họ chết dần chết mòn, mất hết dũng khí.
Với sự đồng lõa của tặc quyền Hà Nội, không
những đã cam tâm bán nước mà còn có dã tâm bán dân, từ hơn mười năm nay Bắc
Kinh cho thi hành mọi phương thức có tác động đầu độc dân Việt. Nhờ vào áp lực
chính trị và tài chính, Trung Cộng ép lũ tay sai Việt Nam đón nhận mọi doanh
nhân Tàu muốn hoạt động tại Việt Nam. Mà doanh nhân Trung Cộng có tiếng về lối
làm ăn vô trách nhiệm bất chấp luật pháp và nhân đạo. Chẳng những chúng dùng
những mánh khóe gian lận mang thêm lợi lộc trong việc sản xuất, chúng còn dạy
cho người Việt bắt chước chúng: pha trộn thức ăn thức uống với chất hóa học,
lạm dụng phân bón và thuốc diệt trùng khi trồng trọt, đổ chất thải thẳng vào
sông hồ mà không xử lý trước vv.. Qua những thỏa ước bất bình đẳng Việt Nam
phải mua ưu tiên hàng hóa thiếu phẩm chất của Trung cộng từ đồ ăn đến thiết bị.
Kết quả là chợ búa Việt Nam toàn hàng độc khó phân biệt tốt xấu.
Các tư nhân và nhà máy nhỏ không hại đủ, Bắc
Kinh tiến lên một bước trong việc sát hại dân Việt với sự áp đặt một loạt dự án
nguy hiểm khổng lồ. Nhất cử lưỡng tiện, chúng chuyển sang Việt Nam những loại
nhà máy gây nhiều ô nhiễm nhất mà chúng đã phải đóng lại trong chính nước chúng,
đồng thời chúng đòi xây những nhà máy đó tại những điểm trọng yếu nhất, có tính
cách chiến lược nhất của Việt Nam. Biết vậy mà đám tặc quyền vẫn cúi đầu chấp
nhận.
Nhà máy bauxite Tây Nguyên:
Chất bùn đỏ thải từ công nghệ nhôm độc hại đến
nỗi một khi nó lan tới đâu là giết hại sinh vật và thực vật đến đó do những
chất xút, arsenic, kiềm, natri phóng xạ, .v.v. chứa trong đó. Công nghệ tân
tiến tốn kém có thể xử lý được một phần lớn nhưng không hoàn toàn loại bùn ấy.
Vì vậy cho nên Trung Cộng đã phải đóng cửa các nhà máy nhôm của mình. Nhân biết
Việt Nam có tại Tây Nguyên một trữ lượng bauxit (là khoáng chất luyện được
thành nhôm) lớn thứ ba thế giới, lũ chóp bu Bắc Kinh, ngay từ 2001 đã gây áp
lực với Hà Nội để lập nhà máy bauxit ở Tây Nguyên, một vùng được coi là “mái
nhà của Đông Dương” vì từ trên đó có thể giám sát được ba nước Việt Nam, Căm
Bốt, Lào. Và cuối cùng năm 2007 Nông Đức Mạnh – Nguyễn Tấn Dũng đã bằng lòng ký
kết thỏa ước nhượng tới 1800 km2 cho Tàu ở Lâm Đồng và Dak Nông để chúng khai
thác bauxit cùng với Việt Nam trong 6 nhà máy, với 2 nhà máy đầu tiên ở Tân Rai
và Nhân Cơ được chọn ở ngay đầu nguồn các sông hồ, nhưng thực sự để làm gì với
một diện tích rộng lớn như vậy? Và chúng đã cho triển khai việc xây nhà máy bất
kể đến sự phản đối của hàng ngàn chuyên gia và nhân sĩ nêu lên các cơ nguy cho
môi trường và quốc phòng. Hiện hai nhà máy, tốn hơn 32.000 tỷ đồng (1,4 tỷ USD)
vay của nước ngoài (Trung Cộng?),[xxxii]đã đi vào hoạt động từ 2013 và 2016.
Chưa thấy Tân Rai và Nhân Cơ mang lại lợi lộc gì[xxxiii]mà chỉ thấy bể chứa bùn
đã khá đầy, nếu có mưa lũ lớn, bùn tràn ra ngoài sẽ hủy hại cả một miền từ bắc
xuống nam[xxxiv], thêm vào cả chục ngàn ha rừng thiên nhiên và nguyên sinh trên
đất nhượng giao cho Tàu đã bị phá hoại,và hàng ngàn người Hoa (nếu không hơn,
vì ai dám kiểm soát số người cư trú trong phần đất nhượng cho Tàu), trên nguyên
tắc là công nhân được nhà thầu Tàu mang theo, sống nhan nhản tại Tây Nguyên, ăn
ở với phụ nữ trong vùng và sinh con đẻ cái ở đó (theo dư luận số trẻ con lai Tàu
có quốc tịch Tàu nơi đó đã lên tới ít nhất 3000, khiến Trung cộng đòi Việt Nam
mở trường học dạy tiếng Tàu cho chúng). Đấy là không kể sự phá rừng Tây Nguyên
vì lý do phát triển đã tiêu diệt cả một nền văn hóa đặc trưng của đồng bào
Thượng, đưa họ vào cảnh lầm than điêu đứng.
Nhà máy thép Formosa:
Năm 2008, Bắc Kinh lại làm
áp lực chính trị và đặc biệt tài chính (qua tiền hối lộ các quan chức) với Hà
Nội để Việt Nam chấp nhận cho tập đoàn Formosa Plastic mở một nhà máy gang thép
tại Hà Tĩnh cùng một nhà máy nhiệt điện ở ngay bờ biển. Để thực hiện dự án được
khoe là trị giá 28,5 tỷ USD, 10 tỷ trong giai đoạn đầu, tập đoàn đã lập ra một
công ty con lấy tên là Hưng nghiệp Formosa Hà Tĩnh, gọi tắt là công ty Formosa.
Nghe tên thì tưởng Formosa thuộc về Đài Loan, nhưng trên thực tế, công ty con
này đã bán hầu hết cổ phần cho công ty Trung Quốc và đấy là một công ty của Tàu
cộng. Bắc Kinh bèn chọn một dãy đất ở dưới Đèo Ngang gồm cảng Sơn Dương tại
Vũng Áng (một hải cảng nước sâu có thể tiếp nhận tàu thủy tới 50.000 DWT), một
khu hết sức xung yếu của Việt Nam, và năm 2010 bắt cặp bán nước Nông Đức Mạnh –
Nguyễn Tấn Dũng cắt tại đó cho Formosa 3.300 ha (gồm rừng mưa quý giá chẳng bao
lâu bị chúng phá sạch), dưới hình thức cho thuê dài hạn 70 năm nhưng thật ra là
gần như cho không vì đất được miễn đủ thứ thuế, ngay cả tiền thuê đã rẻ bèo còn
được miễn trong 15 năm.[xxxv] Thêm vào chúng còn được quyền tùy nghi xây
cất cơ sở hạ tầng cùng đưa công nhân của chúng đến ở và để có chỗ ở cho công
nhân chúng đang xây một chung cư lớn trên 14 ha cắt thêm cho chúng tại Kỳ Anh.
Kệ cho dư luận bàn tán và
đám dân nghèo bị cướp đất kêu ca, dự án Formosa được tiến hành năm 2012. Hơn ba
năm sau (2015) ai cũng có thể nhận thấy trên Google map rằng trong khu nhượng
địa Formosa, được xây cả một thành phố với nhiều kiển trúc biệt lập trong đó
nhà máy thép chỉ là một cơ quan phụ.
Ngày 6/4/2016, dân Vũng Áng
ngủ dậy ra biển thấy cá chết chồng chất trên bãi. Hiện tượng mỗi ngày một tăng
cho tới ngày 18/4 hàng hàng cây số bờ biển miền Trung đầy dãy cá chết. Thảm họa
này không hề được cơ quan chính quyền quan tâm. Để tìm hiểu nguyên nhân, ngư
dân trong vùng lặn xuống biển và khám phá ra một dòng nước thải màu nâu cam
tuôn ra từ một ống ngầm của nhà máy thép. Phải đợi sáu tuần sau những cuộc biểu
tình dài dẵng của ngư dân Hà Tĩnh chống Formosa, quan chức nhà nước mới lên
tiếng công nhận đấy là một thảm họa lớn và khiến công ty nhận trách nhiệm đồng
thời nhận bồi thường 500 triệu USD. Số tiền này chẳng đáng là bao so với những
thiệt hại gây ra: biển chết, cả triệu ngư dân mất công ăn việc làm, ngành cá và
hải sản miền Trung suy sụp gây ra nạn thất nghiệp ; nam nữ thanh niên và
trung niên phải đi tha phương cầu thực. Mà không rõ số tiền đã được trao trả
cho phía Việt Nam chưa hay vào túi ai rồi, bởi người dân miền Trung từ hơn một
năm nay vẫn không có trợ cấp từ cơ quan nhà nước. Và hơn một năm sau, nước thải
đỏ vẫn tiếp tục chảy ra biển, lan dần tới Đà Nẵng.
Điều khó hiểu là Trung Quốc
với Việt Nam lập nhà máy gang thép để làm gì, khi Trung Quốc đang phải trữ một
lượng thép lớn không bán được do sản xuất thặng dư so với nhu cầu thế giới, và
Việt Nam đã có nhiều nhà máy thép nhỏ hoạt động một nửa công suất cùng một nhà
máy thép lớn ở Thái Nguyên (Tisco) đang xây dở[xxxvi]. Lại nữa, Formosa không
phải là một tập đoàn rành nghề thép, và nhà thầu Trung Quốc chỉ biết nhập thiết
bị kém cỏi của nước họ, làm sao chúng dám bảo đó sẽ là nhà máy thép lớn nhất và
tối tân nhất đông Nam Á ? Thêm vào, công ty Trung Quốc làm chủ dự án 10 tỷ
nhưng thực vốn chỉ có 3,8 tỷ, còn lại phải vay ngân hàng ; thế là thường,
nhưng tại sao nhà nước Việt Nam lại nhận bảo lãnh số tiền chúng vay nước ngoài
biến nó thành nợ công, rồi cho phép chúng vay thêm ngân hàng thương mại VN tới
40 tỷ ? Phải chăng đây là một cách cướp tiền của dân qua Formosa ? Sự
thỏa thuận giữa Bắc Kinh và tặc quyền Hà Nội thật rất chi là mờ ám[xxxvii].
Ngoài ra, tập đoàn Formosa
có tai tiếng vì những hành sự phá hại môi trường, đi đến đâu là có chuyện ở đó.
Bắc Kinh thừa biết vậy mà vẫn liên minh với đám doanh nhân ấy ; chúng cố ý
chọn Formosa chính vì lý do đó chăng, bởi mục đích ngầm của chúng là dùng
Formosa để diệt dân miền Trung và thay thế họ bởi công dân của chúng ?
Theo ban quản trị Formosa, nhà máy chưa hoàn thành hẳn tức chưa hoạt động thực
sự, vậy chúng lấy ở đâu ra nhiều chất thải đến nỗi nhiễm độc cả một dọc 250 km
biển ? Như nhiều nhân chứng nghi ngờ, nhà máy thép phải chăng chỉ là một
công ty giải quyết chất thải trá hình ? Họ nói đã phát giác nhiều điểm
chôn chất thải quanh nhà máy, ngay cả một trang trại 16 ha chứa rác của Formosa
tại Kỳ Long[xxxviii]. Và liệu tặc quyền Việt Nam có biết chăng cái dụng ý biến
đất nước thành bãi chứa rác công nghệ khồng lồ của Trung Quốc và Đài
Loan ?
Tháng 9/2016, đương lúc
lòng dân công phẫn về vụ Formosa, Bộ Công Thương tuyên bố đưa vào quy hoạch một
dự án 10 tỷ USD để xây một nhà máy luyện cán thép lớn ngang Formosa tại Cà Ná,
Ninh Thuận, trên 150 ha bờ biển được tỉnh cho thuê không lại thêm nhiều ưu đãi
về thuế má và tiếp vận. Dự án do tập đoàn Hoa Sen đề xuất, nhưng tập đoàn này
chỉ có nhiều nhất 300 triệu USD vốn, lại có khoản nợ bằng một nửa số vốn thì
lấy đâu ra để đầu tư nếu không là bù nhìn của Trung Quốc[xxxix] ? May mà
vụ Formosa vẫn nóng nên cuối cùng TT Nguyễn Xuân Phúc phải yêu cầu tạm ngưng dự
án. Nếu ngày nào nhà máy Cà Ná hoạt động và cũng xả chất thải không xử lý, chắc
chắn phần biển miền Nam sẽ chết tiếp.
Nhà máy giấy trên sông Hậu
và sông Tiền
Đồng bằng sông Cửu Long,
vựa lúa của nước Việt, phì nhiêu nhờ vào vô số rạch tủa ra khắp đồng bằng từ hai
nhánh chính Tiền và Hậu của sông Cửu Long. Muốn kiềm chế hay tiêu diệt miền
Nam, chỉ cần đe dọa hay đầu độc hai con sông đó.
Tháng 5/2007, công ty Lee §
Man của Trung Quốc (trụ sở tổng bộ tại Đông Quản, Quảng Đông) được tặc quyền
cho phép thực hiện một liên hiệp nhà máy giấy trị giá 1,2 tỷ USD, gồm một nhà
máy giấy tẩy trắng với công suất 330.000 tấn/năm, một nhà máy giấy cứng, bao bì
cao cấp với công suất 420.000 tấn/năm, một nhà máy nhiệt điện, một nhà máy xử
lý nước thải, và một bến cảng, tại một thửa đất 200 ha ở Phú An – Mái Dầm,
huyện Châu Thành, Hậu Giang, ở đầu nguồn sông Hậu. Vì gặp khó khăn, đến 2014
công ty mới khởi động dự án.
Tuy không biết rằng công ty
Lee § Man từng có thành tích làm ô nhiễm sông Dương Tử và Trường Giang ở ngay
Trung Quốc nước họ, do suy luận các chuyên gia và dư luận lề đảng cũng thấy cần
phải phản đối dự án, vì nó đe dọa sự sinh tồn của sông Hậu, là con sông nuôi
dưỡng đồng bằng sông Cửu Long[xl]. Công ty chỉ vận trù 20% dự án với cây nguyên
liệu còn sẽ phải dùng giấy vụn và giấy phế liệu nhập từ các nước khác. Không rõ
nhà máy sẽ dùng phương thức gì để tẩy trắng giấy cũ[xli], bởi tùy theo phương
thức chất thải sẽ ít/nhiều độc hơn, nhưng theo lượng nước lớn trù tính (20.000
đến 50.000 m3/ngày-đêm) xả ra ngoài thì công nghệ dùng không tân tiến lắm. Nhà
máy giấy thuộc loại công nghiệp gây nhiều ô nhiễm nhất, nếu hệ xử lý nước thải
không nghiêm ngặt, nước đầy cơ chất clo như dioxin, cộng với phénol,
hydrôcacbua, kim loại .v.v. sẽ sớm tiêu diệt hết sinh vật và thực vật trên và
trong sông rạch miền Tây Nam Bộ; ngay nếu có hệ xử lý tốt, nó không thể loại
hết các chất độc, lại nữa nó dùng quá nhiều nước nên chiếm phần nước ngọt dành
cho các sinh hoạt khác; kết quả sẽ là sông chết, thủy sản chết, lúa chết và
người cũng sẽ chết theo[xlii]. Mới đi vào giai đoạn thử nghiệm sáu tháng kể từ
đầu tháng ba, nhà máy đã làm cho dân Châu Thành khổ vì bụi bậm, mùi hôi thối và
tiếng ồn. Sau một tháng bộ Tài nguyên môi trường mới thức tỉnh và bắt nhà máy
sửa sai, nhưng nhà máy vẫn được chạy thử.
Nhà máy giấy ở Hậu Giang
chưa xây xong thì đầu năm 2016, chỉ trong ba tháng, công ty Chang Yang Holding
Limited (nguyên của Đài Loan nhưng năm 2008 đã trở thành công ty con của Tập
đoàn Nine dragons paper holdings limited của Trung Quốc) đã được cấp giấy phép
xây một nhà máy giấy khác tên là Đại Dương tại Long Giang, Tân Phước, Tiền
Giang, trên một thửa đất 22 ha ở đầu nguồn sông Tiền, với tổng vốn đầu tư là
220 triệu USD, để sản xuất giấy duplex, giấy kraft và giấy gia dụng[xliii]. Nó
sẽ xả nước vào kênh Năng là đường tuyến đi vào Đồng Tháp Mười. Nhỏ hơn Lee §
Man, nó cũng sẽ dùng nguyên liệu giấy vụn và giấy phế bỏ. Theo hợp đồng, tháng
8/2017 nhà máy sẽ đi vào hoạt động nhưng dư luận yêu cầu nhà nước thu hồi dự
án ; trong trường hợp này công ty Chang Yang đòi được bồi thường 10 triệu
USD.
Nhà máy điện:
Để có điện, tặc quyền Việt
Nam thoạt đầu noi gương Trung Quốc, triệt để khai thác thủy điện. Nhà nước chỉ
công nhận có 888 nhà máy thủy điện, nhưng theo báo The diplomat thì Việt Nam có
hơn 7000 (!) đập hay đơn vị thủy điện. Từng đó nhà máy chỉ cung cấp được 30%
điện trong nước. Nguyên do của sự kiện là xây đập chỉ là có cớ để được cấp đất
cho hồ chứa nước, mà đất ở trên cao để xây đập thường là đất phủ rừng già có gỗ
quý. Được giấy phép xây đập là có thể phá rừng buôn gỗ có lợi lớn. Thành thử
rất nhiều đập bị xây bởi những kẻ chẳng biết gì về công nghệ thủy điện (phần
lớn là người Hoa biết đút lót quan chức địa phương) không vững chắc nên thường
bị vỡ, không được quản lý tử tế vả xả nước bất thần, gây ra nhiều thiệt hại cho
dân gian.
Không còn nơi để khai thác
thủy điện, ngõ hầu đáp ứng nhu cầu sản xuất điện để kèm theo sự phát triển kinh
tế[xliv],
Việt Nam chọn sự khai triển nhà máy nhiệt điện, chủ yếu nhiệt điện than thay vì
hướng về một năng lượng tái tạo như gió thích hợp với một nước có hơn 3000 km
bờ biển. Song, về sự gây ô nhiễm không khí thì nhiệt điện đoạt kỷ lục, ở đâu có
nhà máy nhiệt điện thì trời u tối, bụi than tô đen nhà cửa và vật dụng, số dân
cư mắc bệnh đau phổi gia tăng hẳn. Bắc Kinh đã phải đóng cửa nhà máy
nhiệt điện của chính họ. Thế nhưng Hà Nội quy hoạch cho xây 20 nhà máy nhiệt
điện[xlv],
tính sẽ tăng số đó lên tới 80 vào năm 2030. Bắc Kinh khuyến khích quyết định ấy
và lợi dụng nó để du nhập công ty của họ tại những địa điểm trọng yếu do chúng
chọn, ví như Vĩnh Tân 1 ở Bình Thuận, hiện là nhà máy điện lớn nhất Việt Nam,
trị giá 1,75 tỷ USD, nằm trên 58 ha cạnh khu bảo toàn biển. Trên 20 nhà máy
nhiệt điện hiện hữu, có 15 do Trung cộng làm chủ hoặc tổng thầu, toàn là những
dự án đồ sộ, có tác động lớn trên môi trường, mà công nghệ của Tàu về nhà máy
than rất lạc hậu, nên dễ xảy ra sự cố, như với nhà máy Duyên Hải 1, vừa mới đi
vào hoạt động tháng 1/2016 đã khiến dân lân cận nghẹt thở vì khói bụi, đe dọa
nghề muối của họ[xlvi].
Hậu quả ô nhiễm môi trường:
Ngoài
ra, Trung Quốc còn chuyển sang Việt Nam hàng loạt nhà máy nữa, toàn những công
nghiệp nguy hại như nhà máy nhựa, nhuộm, vv. Hậu quả là với một mạng nhà máy
lớn bé có tác động gây ô nhiễm phủ khắp Việt Nam, đặc biệt ở những điểm xung
yếu của đất nước như tại đầu nguồn nước, cạnh các thành phố lớn và các khu nông
nghiệp quan trọng nhất, chúng có thể dễ dàng đe dọa và giết hại chúng ta mà
không mất một viên đạn[xlvii]. Không cần đánh đuổi, với
sự trợ giúp của lũ tay sai tham ô bất tài, chúng đã đẩy khỏi Việt Nam hơn 2,5
triệu người, bắt buộc phải bỏ nước ra ngoại quốc để kiếm ăn và lập cư[xlviii]. Nhờ vào sự khống chế
nguồn nước ở thượng lưu sông Cửu Long, một nửa miền Tây Nam bộ gần như đã chết,
và nông dân đã phải bỏ nhà bỏ đất (được người Hoa sẵn sang mua lại) đi nơi
khác, khiến nghề nông thiếu nhân công. Ở miền Trung cũng vậy, do biển chết,
hàng triệu người mất công ăn việc làm, nam nữ có học và khỏe mạnh phải bỏ nhà
ra nước ngoài ; cứ nom những đoàn biểu tình ở Hà Tĩnh gồm toàn người già, phụ
nữ và trẻ con mà phát buồn. Điều ô nhục cho đất nước là phần lớn những
người dân di tản đó ra nước ngoài chẳng phải để nở mặt nở mày với người mà để
làm mọi cho dân họ, cho cả dân Căm Bốt và Lào, một hiện tượng không ai tưởng
tượng nổi trước 1975. Còn những người ở lại thì sao? Ngoại trừ thiểu số trục
lợi nhờ vào Đảng, toàn dân sống thường trực trong sự lo âu: lo bị chân tay của
đảng hạch sách đã đành, họ còn đặc biệt lo cho sức khỏe của gia đình họ: sống
thì phải thở, phải ăn, phải uống, phải rửa ráy, nhưng làm sao biết được và
tránh được không khí độc, nước độc, thức ăn độc khi bụi bẩn ngập không gian,
khi sông ngòi đục ngầu với rác rưởi, khi mắm muối phát sinh từ biển chết, khi
rau quả thịt tẩm hóa học tràn lan ? Số người Việt mắc bệnh ung thư càng ngày
càng tăng. Theo cơ quan y tế quốc tế (WHO) năm 2015 mỗi ngày ở Việt Nam có 360
người chết vì ung thư, và có thêm 115.000 ca ung thư mới, và năm 2020 Việt Nam
sẽ là nước có nhiều người mắc bệnh ung thư nhất thế giới[xlix].
Tập Cận Bình và đồng bọn có thể vỗ đùi cười,
vì mưu đồ của chúng diễn ra như ý muốn. Dân Việt Nam đang dần dần bị tiêu diệt,
thanh niên trai tráng còn sức chống lại chúng thì đã và đang bỏ nước không có
mặt tại nhà ; còn lại những người ốm yếu làm gì được chúng. Trừ phụ nữ có
thể dùng làm gái cho chúng, chúng chẳng màng gì đến dân Việt. Chúng chỉ cần làm
chủ Việt Nam để khai thác dầu mỏ, khoáng sản và lập căn cứ quân sự canh giữ
Biển đông.
SỰ ĐE DỌA BINH ĐAO
Trong
khi các nước văn minh chỉ cho xí nghiệp nước ngoài hoạt động nếu họ mang đến
việc làm cho dân bản xứ, tặc quyền Hà Nội cho phép các công ty Trung cộng đem
công nhân của chúng theo. Ngoài cách vào Việt Nam dưới hình thức công nhân, dân
Trung Quốc có thể du lịch vào Việt Nam rồi không về nước, hay vào lậu thẳng
trong các máy bay và tàu thủy của nước chúng. Các cơ quan công quyền Việt Nam
(được chỉ thị) không dám kiểm soát giấy tờ người Hoa, cũng không có quyền vào
các khu nhượng cho Trung cộng, cho nên hiện chẳng ai rõ có bao nhiêu Hoa kiều,
công nhân hay không, sinh sống tại Việt Nam [l]. Điều hiển hiện là đám Hoa kiều
phần lớn là đàn ông vạm vỡ, có nhiều khả năng ̣̣đấy là quân nhân trá hình. Vả
lại trong các khu đặc nhượng bao la như Bauxit Tây Nguyên và Formosa, Trung
cộng có thể chứa cả vạn người, cả đống khí giới mà chẳng ai biết. Tin đồn còn
rao Trung cộng đã đào hầm trong các xí nghiệp lớn của chúng ngoài hai con đường
hầm đủ rộng cho xe tăng tàu bò chạy từ Tây Nguyên xuống Đồng Nai.
Như vậy, trong trường hợp phải dùng tới giải
pháp binh đao, Trung cộng coi như đã có sẵn nhiều căn cứ quân sự trong đó chúng
đã chuẩn bị cả chục sư đoàn. Từ biên giới Bắc Việt do chúng kiểm soát, chúng có
thể điều động thêm binh lính tiến vào Hà Nội. Tại cảng sâu Vũng Áng là cảng có
thể tiếp nhận tàu thủy có 30.000 tấn trọng tải và tàu ngầm, chúng có thể cho
quân đổ bộ vào miền Trung để kết hợp với các sư đoàn ở trong Formosa và tấn
công các tỉnh ngoài Trung rồi cắt Việt Nam làm hai. Từ Hải Nam, Hoàng Sa và
Trường Sa chúng có thể dội hỏa tiễn hay cho phi cơ dội bom vào Đà Nẵng, Đà Lạt,
Nha Trang. Những sư đoàn đóng ở Tây Nguyên sẽ đổ xuống miền Nam đồng thời với
quân đội Miên và Lào là hai nước hiện bị Trung cộng chi phối.
Tóm
lại, mộng thôn tính Việt Nam của Trung Quốc chưa bao giờ dừng từ xưa tới nay.
Với sự hỗ trợ đắc lực của tặc quyền Hà Nội chúng gặp thời cơ sáp nhập Việt Nam
một cách khôn khéo êm ả theo kiểu tầm ăn dâu, không cần phải đấu đá ; chỉ
trong trường hợp bất đắc dĩ như xảy ra chiến tranh Biển đông hay cuộc khủng
hoảng nào khác chúng mới phải dùng tới quân đội. Năm 2008 trong trang điện tử
của Sina.com,
chúng huênh hoang sẽ đánh chiếm được Việt Nam trong 31 ngày[li], nhưng ngày nay
nhờ sự tăng cường của quân đội chúng, thời gian đánh thắng sẽ ngắn hơn nhiều.
Bởi chúng được sự tiếp tay của bè lũ Hán nô đã vô hiệu hóa quân đội Việt Nam.
Tướng tá Việt Nam hiện là người Trung Quốc hay đã được Trung Quốc huấn luyện.
Để dễ cài lính Trung cộng vào quân đội Việt Nam, năm 2009 tặc quyền Hà Nội đã
thay đổi quân phục Việt Nam cho giống hệt quân phục Trung Quốc, chỉ khác cái mũ
của lính Việt có thêm đường viền đỏ và nếu nhìn kỹ màu xanh lục của quân phục
Trung cộng đậm hơn một chút[lii] ; nếu lính Trung cộng gắn thêm đường viền
trên mũ hoặc bỏ mũ ra, dân Việt Nam làm sao phân biệt được quân thù với quân
ta. Hay là, đáng sợ hơn, quân ta đã biến thành quân thù rồi ?
Hỡi dân Việt Nam, hãy thức tỉnh ! Giặc nội xâm với giặc
ngoại xâm đang tàn phá nước ta, kìm kẹp dân ta ! Tất cả những lời hoa mỹ
trấn an mà đảng Cộng Sản rót vào tai các bạn chỉ là những lời dối trá lừa bịp.
Hãy nhìn những gì chúng làm và nhất là hãy nhìn xung quanh các bạn. Sự
thật còn trầm trọng hơn những điều tôi ghi chép vì thiếu tài liệu tôi không tra
được hết. Giặc Tàu đang chùm lưới trên đầu các bạn. Muộn nhất là năm 2020, nhưng
có nhiều triệu chứng là sẽ sớm hơn, Trung Quốc sẽ chính thức hóa sự thống trị
của chúng, và lần này dân ta sẽ không phải chịu một cuộc đô hộ ngàn năm nữa đâu
mà một cuộc diệt chủng vĩnh viễn, thiểu số sống sót sẽ bị Hán hóa quên hẳn
giống nòi. Bè lũ bán nước, biết trước đại họa từ hai chục năm nay, đã ngày đêm
kiếm cách bóc lột các bạn, cướp đoạt tài sản quốc gia, tẩu tán tiền của ra nước
ngoài để, sau khi chốn chạy, phè phỡn trên nước mắt và sương máu của các bạn.
Chúng đã gửi trước vợ/chồng con cái chúng sang các nước tư bản « dãy
chết » để tránh nạn. Sự bất tài và tham ô của chúng cùng sự khuyên bảo xảo
quyệt của giặc Tàu đã làm cho kinh tế nước nhà kiệt quệ, vỡ nợ đến nơi. Vì
trong ngân khố quốc gia hiện nay chỉ còn 40 tỷ USD ngoại tệ mà nợ công chồng
chất và năm nào ngân sách cũng bội chi khoảng 7 tỷ USD. Con số nợ công chính
thức cho 2017 là 117 tỷ USD (= 64% GDP), nhưng theo nhiều chuyên gia, phải nhân
gấp 2 gấp 3 con số ấy[liii]. Trong khi đó, số tiền do các quan chức Việt Nam
biển thủ giấu nhẹm cộng lại lên tới gần ngàn tỷ USD[liv]. Chỉ có một lối thoát
khỏi cảnh nô lệ duy nhất cho các bạn là vùng lên đánh đổ cái chế độ cộng sản
bán nước hiện tại, để lập lên một thể chế tự do độc lập thực thụ có tư cách tố
giác các thỏa ước bất bình đẳng ký kết với kẻ thù bởi tập đoàn Hán nô, có thể
liên minh với các quốc gia tự do khác để có hậu thuẫn đương đầu với giặc Tàu.
Vấn đề không còn là kiên nhẫn đợi chờ cho Đảng từ từ thay đổi và giải thể, vì
thời gian quá kíp. Các bạn không còn năm, mà chỉ còn tháng, có cơ chỉ còn tuần
để xoay ngược vận mệnh của các bạn và con cháu các bạn. Hỡi toàn dân Việt Nam,
hãy nghe tiếng gọi của tổ quốc và tổ tiên, hãy tạm gạt những bận lòng cá nhân
để cùng nhau giật lại quyền công dân khỏi tay giặc. Chúng có hung dữ đến đâu,
chúng chỉ có thể đàn áp trăm người, nghìn người, cả vạn người, nhưng hàng trăm
nghìn người, hàng triệu người xuống đường không thôi, chúng làm gì nổi? Đồng
bào tôi ơi ! Can đảm vào ! Hãy tỏ cho thế giới rằng tinh thần bất
khuất từ Trưng Trắc đến Nguyễn Huệ còn nung nấu trong lòng các bạn! Các bạn
nhất trí quật cường thì lịch sử Việt Nam sẽ tiếp tục tiến và ghi ơn các bạn.
Đặng Phương Nghi
(Tác giả là Gíao Sư Đặng phương Nghi, tốt nghiệp
trường École des Chartes Paris, tiến sĩ sử học Paris, cựu giám đốc thư
viện và văn khố VNCH và cựu GS Sử học tại Đại Học văn khoa Saigon.)
Chú thích:
[i] Người
đầu tiên nêu ra việc giả mạo này là một tác giả Đài Loan trong một cuốn sách có
nhan đề là “Hồ Chí Minh” viết bằng tiếng Nhật năm 1946, và điều ông nói được
xác định bởi một tờ báo của đảng CS Trung quốc tại Cương Sơn năm
1949 ; nhưng sự kiện được ếm nhẹm cho tới đến năm 2008, khi Hồ Tuấn Hùng,
một học giả cũng người Đài Loan cho ra quyển “Hồ Chí Minh sinh bình khảo” trong
đó ông dẫn chứng lai lịch Tàu Đài Loan, gốc Hẹ, của Hồ Chí Minh/Hồ Tập Chương.
Nhưng phaỉ tới 2013, khi sách này được dịch ra việt ngữ bởi Thái Văn, vấn đề Hồ
Chí Minh giả mới được nhiều người Việt Nam đặt ra, tranh luận hay thêm chứng
cứ. Có nhiều bài đứng đắn trên Mạng, để có một ý niệm rõ ràng xem: Trần Việt
Bắc, Hồ Chí Minh: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc và tôi (http://www.geocities.ws/xoath
antuong/tvb_hcmdongchi.htm).
[ii] Xem:
Thụy khuê, Nguyễn Ái Quốc, lai lịch và văn bản, trong Vinasia.org .
[iii] Xạo ở hai điểm: Thứ nhất về phần tuyên ngôn
thì Bảo Đại đã tuyên bố Việt Nam độc lập trước rồi (Bảo Đại ngày 12/3/1945,Hồ
Chí Minh ngày 2/9/1945 ; thứ hai về sự độc lập thì Hồ Chí Minh không hề
giành nổi độc lập cho Việt Nam từ tay chính phủ bảo hộ Pháp, mặc dầu ông ta
chạy chọt đủ cách với chính khách Pháp khi sang Pháp vào tháng 6-9/1946 ;
ngược lại qua thỏa ước ký với Bảo Đại ngày 5/6/1948 Pháp rõ ràng “long trọng
thừa nhận sự độc lập của Việt Nam và để cho Việt Nam tự do thực hiện sự thống
nhất của mình”.
[iv] Xem:
Đặng Chí Hùng, Bằng chứng bán nước toàn diện của đảng cộng sản VN, trong blog
Sinicization of Indochina ( http://namviet.net/blog-hanhoa
/?p=657#.WNaot7g8acM): Giao ước có tên “Ghi nhớ hợp tác Việt
Trung” – số hiệu (VT/GU- 0212) ký ngày 12/06/1953 tại Quảng Tây giữa Hồ và Mao
như sau: “Trước tình hình quân đội thực dân Pháp đang củng cố xâm lược Việt
Nam. Đảng cộng sản nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa và đảng Lao động Việt Nam
dân chủ cộng hòa nhận thấy cần có sự tương trợ và giúp đỡ lẫn nhau để giữ tình
đoàn kết hai đảng, chính phủ và nhân dân hai nước như sau:
Điều 1: Chính phủ Trung
Quốc sẽ đồng ý viện trợ vũ khí theo yêu cầu chi viện của quân đội nhân dân Việt
Nam. Ngoài ra sẽ gửi các cố vấn, chuyên gia quân sự để giúp đỡ quân đội nhân
dân Việt Nam.
Điều 2: Đảng Lao động do
đồng chí Hồ Chí Minh lãnh đạo đồng ý sáp nhập đảng Lao Động Việt Nam là một bộ
phận của đảng cộng sản Trung Quốc.
Điều 3: Hai bên thống nhất
Việt Nam dân chủ cộng hòa là một bộ phận của cộng hòa nhân dân Trung Hoa với
quy chế của một liên ban theo mô hình các quốc gia nằm trong Liên Bang Xô Viết
(Phụ lục đính kèm).
Điều 4: Trước đảng và chính
phủ hai nước cần tập trung đánh đuổi thực dân Pháp và giành lại chủ quyền lãnh
thổ cho Việt Nam. Các bước tiếp theo của việc sáp nhập sẽ được chính thực thực
thi kể từ ngày hôm nay 12/06/1953.
Điều 5: Chính phủ cộng hòa
nhân dân Trung Hoa đồng ý cung cấp viện trợ kinh tế cho chính phủ Việt Nam dân
chủ cộng hòa theo thỏa thuận đã bàn giữa chủ tịch Mao Trạch Đông và chủ tịch Hồ
Chí Minh (Phụ lục đính kèm).
….Ký
tên: Hồ Chí Minh và Mao Trạch Đông”
[v] Tháng
hai 1979, để trừng trị Việt Nam dám đánh chiếm Căm Bốt, Đặng Tiểu Bình cho lùa
hơn 600 000 đội quân xâm nhập Việt Nam, tàn phá các tỉnh biên giới, gặp ai
là chém giết không ngừa người già trẻ nít, nhưng nhờ sự phản kháng kịch liệt
của binh lính và dân quân tự vệ, quân Tàu phải rút lui tháng sau, nhưng sau đó
lại tiếp tục gây hấn và chiến tranh giữa hai bên kéo dài tới tận 1989 ;
chính trong thời gian này, năm 1988, Trung Quốc đã chiếm đóng đảo Gạc Ma ở
Trường Sa ; nhưng vì từ năm 1987, thấy Nga Sô có cơ nguy biến với chính sách
cởi mở của Gorbatchev, nhóm cầm quyền Hà Nội đã có tâm đầu hàng Trung cộng nên
cấm ngặt binh sĩ ở Gạc Ma chống trả, khiến họ chết một cách tức tưởi lãng xẹt.
Về sự tàn bạo của chiến tranh Việt-Trung dưới mắt của chính người Hoa, xem: Tù
binh chiến tranh Việt Nam – Trung Quốc 1979-1989, trong Phan Ba’s Blog,
24/2/2017 (https://phanba.wordpress.com/
2017/02/24/tu-binh-chien-tranh -viet-nam-trung-quoc-1979- 1989/) .
[vi] Xem
bài báo của Kerby Anderson Nguyễn đăng lại trong Văn thơ Lạc Việt (http://vantholacviet.com/tuon
g-cong-san-viet-nam-ha-thanh- chau-da-xin-ty-nan-chinh-tri-
tai-hoa-ky-va-tiet-lo-am-muu- ban-nuoc/ ) và trong trang web
của Việt Nam cộng hòa hải ngoại: http://www.vnchhiepdinhparis19
73.com/SUB_TaiLieuLichSu/TaiLi euLS1307072304.shtml . Ngoài bài báo của
ông K.A Nguyễn không thấy ai khác nói về tướng Hà Thanh Châu, nhưng mặc dầu
trên Mạng thường được tuôn ra nhiều tin đồn thất thiệt, những điều được tác giả
nêu ra coi như khả tín vì trùng hợp với những tin xuất từ nhiều nơi khác. Năm
2014, hành động bán nước của tập đoàn cầm quyền Hà Nội được hai tờ báo Tân Hoa
Xã và Hoàn Cầu thời báo của Trung Quốc công nhận, khiến cho dư luận ở Việt Nam
xôn xao, nhưng nhà nước cộng sản không chịu công bố mật ước, chỉ cho ban Tuyên
giáo phủ nhận và giải thích dòng dài về nội dung của thỏa ước. Song hành xử
ngang ngược của Trung cộng tại Việt Nam cùng những nhượng bộ hèn mạt đối với
chúng trên thực tế của nhóm cầm quyền Hà nội không thể không minh định cho tính
xác thực của tin tức trên.
[vii] Diện
tích mất đi được ước chừng từ 700 đến15000 km2. Xem bài của Tèo Ngu Khìn, Hơn
15 000km2 đất của VN mất vào tay ai, trong Dân làm báo (http://danlambaovn.blogspot.co
m/2016/10/hon-15000-km2-at-cua -viet-nam-mat-vao.html) và của Trương Nhân
Tuấn, Việt Nam có mất đất… ,trong blog Những vấn đề Việt Nam (http://nhantuantruong.blogspo
t.fr/2013/11/viet-nam-co-mat- at-mat-bien-qua-hai.html) . Một việc đơn giản để
biết về con số đất mất đi là so sánh diện tích toàn thể Việt Nam được các nhà
địa lý hay cơ quan địa lý ghi nhận trước và sau 2000. Kẹt một cái là các sách
báo không đồng nhất về con số, và ngay trong cùng một bài các tác giả đứng đắn
nhất cũng đưa ra nhiều con số mâu thuẫn nhau. Tuy nhiên, có thể có một ý niệm
về số đất mất đi qua hai con số trước sau 2000 nêu ra trong cùng một bài báo
cáo về rừng của một nhóm nhà nghiên cứu địa lý (Phạm Thu Thủy, Moira Moelino
vv., Bối cảnh REDD+ ở Việt Nam…, Cifor, Bogor Barat, 2012). Những tác giả này
công nhận con số 14,3 triệu ha rừng tương đương với 43% diện tích cả nước cho
năm 1943 của các nhà địa lý châu Âu, tức tổng diện tích năm đó là 332.679 km2,
và con số năm 2010 của FAO theo đó 13,797 triệu ha bao phủ 44% diện tích cả
nước, tức tổng diện tích năm đó là 313.568 km2. Số chênh lệch giữa hai tổng
diện tích = 19.111 km2 có thể được coi như diện tích bán cho Tàu.
[ix] Có
thể bản đồ đó đã bị nhà nước thu hồi, nhưng Trung cộng có chụp lại nó trong tài
liệu tuyên truyền của Bắc Kinh. Đối với quốc tế, Trung cộng luôn luôn khẳng
định rằng hai quần đảo HSTS thuộc về lãnh thổ Trung Quốc từ thời xa xưa, và đưa
ra một số cứ liệu lịch sử gượng gạo, nhưng trong một thông báo của nhà cầm
quyền Bắc Kinh đọc trên đài truyền hình “Tiếng nói nhân dân Trung Hoa” phát
thanh bằng tiếng Việt, tôi thấy lần đầu tiên Trung Quốc công khai tuyên bố
Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam nhưng đã được Cộng sản Việt Nam nhượng cho
Trung Quốc: «… Chúng tôi đồng ý là Hoàng Sa và Trường Sa và bờ biển thuộc Việt
Nam, nhưng cộng sản Việt Nam đã ký công hàm do thủ tướng Phạm Văn Đồng ngày
7/6/1958. Trung Quốc có đầy đủ những chứng cứ không thể chối cãi trên vùng
biển, và Trung Quốc sẽ được khai thác dầu khí của Việt Nam, cộng sản Việt Nam
sẽ không thể làm gì được…” (https://www.youtube.com/watch
?v=RCLlsvpRNhg) .
[x] Bằng chứng, hình của cờ
Đoàn thanh niên này trong Wikipedia pháp ngữ, mục Drapeau de la république
populaire de Chine. Trong một thời gian tỉnh Phúc Kiến cũng có một lá cờ sao
vàng nhưng khác ở chỗ nền của nó chia làm hai, nửa xanh, nửa đỏ (xem trên mạng
mục: cờ của Phúc Kiến, tiếng anh), và có thể đó là lá cờ toán quân Việt Minh
cầm khi tiến vào Hà Nội năm 1945, theo lời tả của một số nhân chứng, nhưng chắc
chắn đấy là cờ (với phần nền xanh nhạt hơn) được Mặt trận giải phóng miền Nam
chọn làm cờ hiệu sau này. Ngoảnh đi ngoảnh lại đảng cộng sản Việt nam không
ngừng loay hoay với cái gốc gác Tàu cộng của nó.
[xii] Theo
thống kê của “Biên phòng” ngày 18/1/2017, thì trong năm 2016 tổng kim ngạch
thương mại Việt-Trung là 70,6 tỷ USD, trong đó xuất khẩu là 21,8 tỷ và nhập
khẩu 49,9 tỷ. Đặc biệt là số do Trung Quốc và Việt Nam đưa ra rất khác nhau.
Như về năm 2015, theo “Bộ công thương Việt Nam” (báo ngày 9/11/2016), thống kê
của hải quan VN cho biết tổng kim ngạch thương mại Việt-Trung là 66,6 tỷ USD
với 17,1 tỷ xuất khẩu và 49,5 tỷ nhập khẩu ; nhưng phía Trung Quốc đưa ra
con số tổng kim ngạch = 95,8 tỷ USD với 29,67 tỷ nhập khẩu (từ VN) và 66,14
xuất khẩu (từ TQ) – http://www.mofahcm.gov.vn/vi
/mofa/cn_vakv/ca_tbd/nr0408180 94447/ns150401025706 – không hiểu số
chênh lệch những 29,2 tỷ USD là do đâu ? do sự buôn lậu hay biển thủ tại
Việt Nam ?
[xiv] Xem bài báo trên.
[xvii] Trên
thực tế, trong tinh thần “hữu nghị”, Việt Nam để cho xe và người của Trung cộng
qua cửa khẩu một cách dễ dãi, nhưng ngược lại, theo như báo Biên Phòng ngày
18/1/2017, Trung Quốc luôn luôn gây phiền nhiễu cho xe chở hàng Việt Nam ở biên
giới: “các cơ quan chức năng trung ương của Trung Quốc thường xuyên kiểm tra
hoặc đưa ra yêu cầu đối với hang nhập khẩu qua đường tiểu ngạch… Những đợt kiểm
tra giám sát và các yêu cầu mới đưa ra thường gây gián đoạn khó khăn cho hàng
Việt Nam xuất sang Trung Quốc, có đợt gián đoạn dài ngày gây ách tắc nhiều hàng
hòa và tổn thất cho các doanh nghiệp Việt Nam.” (http://www.bienphong.com.vn/v
iet-nam-tro-thanh-doi-tac-thuo ng-mai-lon-nhat-cua-trung-quoc -trong-khu-vuc/) Vấn đề là tại sao phía Việt Nam không làm hệt
như vậy để kiểm xoát số lượng và chất lượng của các mặt hàng Trung Quốc?
[xix] Nông dân Việt Nam, đại đa số là tiểu nông
không có đất nhiều hơn ½ ha, thiếu vốn, nên cần phải bán gấp bán ngay sản phẩm
để có tiền sinh sống và chuẩn bị mùa sau. Trong khi đó, ngành nông vẫn
thiếu doanh nghiệp hay hợp tác xã có thể mua gom cho người dân, kết quả là nông
dân, đặc biệt ở các nơi hẻo lánh, lệ thuộc vào thương lái Tàu và dễ bị chúng
lừa.
[xxii] Theo
Collins, được dẫn trong Yann Roche et Rodolphe de Koninck, Les enjeux de la
déforestation au Vietnam, in Vertigo, vol.3, n°1, 4/2002 (https://vertigo.revues.org/41
13) .
Nhưng sau khi cho hai con số 43% và 22000 km2 hai tác giả tính làm sao mà bảo
số rừng hủy hoại lên tới 23% ! Các cơ quan nhà nước công nhận con số 43%
nhưng chẳng hiểu vin vào đâu mà bảo sau chiến tranh Việt Nam chỉ còn 9,5 triệu
ha rừng (tức 95.000 km2) phủ 29% diện tích cả nước, trong khi nếu trừ 22.000
với 139.905 thì còn 9,7905 triệu ha (97.905 km2) bằng 27% diện tích cả nước.
[xxiii] Xem
lá thư đó đăng trong blog Boxitvn.net,
trong đó có đoạn: “Đây là một hiểm họa cực lớn liên quan đến an ninh nhiều mặt
của quốc gia. Hám lợi nhất thời, vạn đại đổ vào đầu cháu chắt. Mất của cải còn
làm lại được, còn mất đất là mất hẳn. Cho Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc khai
thác rừng đầu nguồn là tiềm ẩn đầy hiểm họa. Họ đã thuê được thì họ có quyền
chặt phá vô tội vạ. Rừng đầu nguồn bị chặt phá thì hồ thuỷ lợi sẽ không còn
nguồn nước, các nhà máy thuỷ điện sẽ thiếu nước không còn tác dụng, lũ lụt, lũ
quét sẽ rất khủng khiếp. Năm qua nhiều tỉnh miền Trung đã hứng chịu đủ, chẳng
phải là lời cảnh báo nghiêm khắc hay sao ? Các tỉnh bán rừng
là tự sát và làm hại cho đất nước. Còn các nước mua rừng của ta
là cố tình phá hoại nước ta và gieo tai họa cho nhân dân ta
một cách thâm độc và tàn bạo. Nếu chúng ta không có biện pháp
hữu hiệu, họ có thể đưa người của họ vào khai phá, trồng trọt, làm nhà cửa
trong 50 năm, sinh con đẻ cái, sẽ thành những “làng Đài Loan”, “làng Hồng
Kông”, “làng Trung Quốc”. Thế là vô tình chúng ta mất đi một phần lãnh thổ và
còn nguy hiểm cho quốc phòng.” (http://boxitvn.blogspot.fr/20
10/02/ve-viec-cac-tinh-cho-ngu oi-nuoc-ngoai.html).
[xxiv] Theo
ông Vũ Văn Tám, thứ trưởng bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, “trong hai
năm hơn 4000 tàu cá, hơn 2300 ngư dân Việt thương vong, mất tích trên
biển”. Xem Viet Times, 8/5/2016
( http://viettimes.vn/2-nam-hon-
4000-tau-ca-hon-2300-ngu-dan-v iet-thuong-vong-mat-tich-tren- bien-54638.html) . Theo ông Đặng Xương Hùng, cựu nhân viên
ngoại giao xin tị nạn chính trị tại Thụy Sĩ, sở dĩ nhà cầm quyền Việt Nam tiếp
tục khuyến khích ngư dân ra câu cá ở Hoàng Sa nhưng không dám phản đối Trung
Quốc mỗi khi họ tấn công ngư dân Việt Nam, là tại vì “người cộng sản Việt Nam
rất thí quân…và vấn đề thí quân đó đang xảy ra với ngư dân Việt Nam. Tức sử
dụng ngư dân để nói lên rằng Hoàng Sa Trường Sa vẫn là của Việt Nam. Tuyên bố
đó ra với bên ngoài để giành được bao nhiêu thì hay bấy nhiêu, còn ngư dân thì
chứ thiệt thòi, không được bảo vệ từ phía quân đội Việt Nam”… “Tuy nhiên
việc Việt Nam có thực sự muốn thoát hẳn khỏi Trung Quốc hay không, thì đó là
một vấn đề mà tôi muốn đặt câu hỏi. Tôi cũng thắc mắc về ý đồ Việt Nam có muốn
thoát khỏi Trung Quốc hay không.” Xem: Gia Minh, Tại sao Việt Nam không thể bảo
vệ ngư dân trong vùng biển chủ quyền, RFA, 14/10/2015 (http://www.rfa.org/vietnamese
/in_depth/fishm-plight-n-vn- foreign-policy-10142015060627. html).
[xxxiv] Xem:
Mạnh Quân, Những hồ chứa bất an, 20/6/2016, trong Dân trí (http://dantri.com.vn/blog/nhu
ng-ho-chua-bat-an-201606200516 40836.htm) . Tác giả cho biết
tháng 10/2014 đã có một sự cố bùn đỏ thoát ra ngoài nhà máy Tân Rai vùi lắp
4000 m2 ao cá vườn chè của dân địa phương. Ngoài ra, cũng đã có một sự cố bùn
đỏ tràn ra ngoài nhưng của nhà máy titan tại Bình Thuận, cũng do Trung Quốc
khai thác. Nguyên do đều là sự cẩu thả của nhà thầu Tàu và thiết bị lạc hậu của
Tàu.
[xxxvi] Vụ
nhà máy Tisco cũng lại là một chuyện đầu tư tắc trách của quan chức cộng sản,
luôn luôn mắc mưu nhà thầu Tàu. Lũ này chuyên đấu giá thật hạ, ký hợp đồng xong
chúng kiếm cớ đẩy cao giá đầu tư lên tới gấp hai gấp ba. Trong trường hợp Tisco
giá ban đầu năm 2007 là 3843 tỷ đồng (160 triệu USD), sang 2008 nhà thầu đòi
tăng lên 8104 triệu đồng (356 triệu USD), chủ đầu tư trả tới 4500 tỷ đồng (198
triệu USD) năm 2012 thì hết tiền không vay được nữa, thế là nhà thầu bỏ ngang
xương, để mặc cho thiết bị đã chi gỉ tại chỗ. Tisco đang đợi nhà nước giải
quyết hộ, đến nay vẫn chưa ngã ngũ ra sao. Xem: Cầm Văn Kình – Chu Hà, Nhà máy
8100 tỷ thành đống sứt gỉ, 16/11/2015, trong Tuổi trẻ (http://tuoitre.vn/tin/kinh-te
/20151116/nha-may-8100-ti-than h-dong-sat-gi/1003558.html)
.
[xli] Hiện có 2 phương pháp tẩy trắng giấy: 1°
phương pháp bình thường với khí clo, bioxit clo, hypoclorit natri, peroxit
hydro ; cách tẩy bằng xút, quá hại môi trường đã bị bỏ ở Âu Mỹ, tuy vẫn phải
dùng tới xút để khử chất clorolignin ở giấy; 2° phương pháp mới hơn, với oxy
hoặc hơn nữa với ozon.
[xlviii] Con
số hơn 2,5 triệu người bỏ VN sang nước ngoài sinh sống từ 1990 đến 2015 là do
Vụ kinh tế và xã hội của Liên hiệp quốc (UN-DESA) cung cấp. Xem: Hồ Mai, Mỗi
năm gần 100 nghìn người di cư ra nước ngoài, 24/7/2016, trong Vietnam finance
(http://vietnamfinance.vn/tai
-chinh-quoc-te/moi-nam-gan-100 -nghin-nguoi-viet-di-cu-ra-nuo
c-ngoai-20160722095009241.htm) . Vì không cấp nổi việc làm cho công
dân, tà quyền cộng sản Việt Nam khuyến khích công dân đi kiếm ăn ở nước ngoài
dưới cái từ ngữ hạ nhân phẩm “xuất khẩu lao động” làm như con người chỉ là một
món hàng buôn bán. Số 2,5 triệu dân di cư kia là số chính thức, không kể đến
những người đi “chui” và ở lậu. Theo dư luận thì số người ra đi lớn gấp hai.
[l] Về
vấn đề công dân Trung Quốc tại Việt Nam xem: Thực trạng lao động Trung Quốc tại
Việt Nam, 12/8/2011, trong Báo không lề (https://baokhongle.wordpress.
com/2011/08/12/th%E1%BB%B1c-tr %E1%BA%A1ng-lao-d%E1%BB%99ng-
trung-qu%E1%BB%91c-t%E1%BA% A1i-vi%E1%BB%87t-nam) . Bài báo cho hay năm
2009 có 35.000 dân lao động Trung Quốc và 800.000 người Hoa (dân VN?) sống tại
Việt Nam. Ngoài bài báo này không thấy tài liệu khác nói về số dân Trung cộng ở
VN. Theo thông tin nhà nước hiện ở VN có hơn 1300 công ty Trung Quốc đăng ký,
một con số nhỏ so với thực tế vì nó không kể đến vô số công ty đăng ký là của
người Việt hay nước khác nhưng sau đó đã được mua lại bởi người Trung Quốc;
theo dư luận số công ty của Trung cộng ở VN phải ít nhất là 5000. Nếu tính
trung bình mỗi công ty TQ nhập khoảng 1000 công nhân nước họ thì ở VN đã có ít
nhất 1,3 triệu người dân Trung cộng.