Wednesday, August 3, 2016

Tranh biếm Đông Hồ



Tranh biếm Đông Hồ
Mặc Lâm, biên tập viên RFA
2016-07-30
                                                             Tranh biếm bơm hơi vào gà.
http://www.rfa.org/rfa_resources/graphics/icon-zoom.pngPhoto by Nguyễn Ngọc Tú
00:00/00:00
Phần âm thanhTải xuống âm thanh
Tranh sinh hoạt
Mới tuần trước trên mục này chúng ta đã cùng nhau theo dõi câu chuyện tranh giả của một chuyên gia về mỹ thuật Việt Nam là ông Jean Francois Hubert với 17 bức tranh dưới những cái tên lừng lẫy của trường Mỹ thuật Đông Dương, bị người xem, cũng như các nhà nghiên cứu hội họa vạch ra sự giả mạo rất non tay để từ đó ngành hội họa non trẻ của đất nước không tránh khỏi đau lòng khi tự biết lĩnh vực giám nghiệm tranh của chúng ta quá thô sơ, lạc hậu.
Thế nhưng trong cái “giả” đau lòng ấy, một loạt tranh khác, được định danh là “nhái” lại không hề làm cho người xem bực mình vì đã nhái kỹ thuật của loại tranh nổi tiếng của đất nước, bởi, trong cái nhái đầy thi vị của mình tác giả những bức tranh này ý thức rõ ràng rằng nó sẽ là thông tin cho mai sau đúng với chức năng nó đã và đang mang trên lưng từ hàng trăm năm nay: tranh sinh hoạt.
Dòng tranh tạm “chuyện làng” ấy không khó để đoán ra, đó là những bức tranh Đông Hồ trên giấy dó. Nét cọ nghịch ngợm của những họa sĩ dân gian hằn lên từng thớ giấy toát ra tiếng cười dân giã, kể lại những câu chuyện xảy ra nơi làng quê mà trong đó nhiều thế hệ sau, khi nhìn tranh vào những dịp cuối năm sẽ được dịp cười nghiêng ngã trước những đường cọ bình dị đầy bản sắc dân tộc lộ lên từng mảng màu một cách tinh tế. Khi được hỏi vì sao lại chọn cách mà Đông Hồ đã làm, Nguyễn Ngọc Tú, tác giả của cách thể hiện mới này chia sẻ:
Thế hệ của chúng ta bây giờ xem tranh Đông Hồ để hình dung lại sinh hoạt ngày xưa của ông cha mình, thì ngày nay việc dùng thực phẩm bẩn để gây hại cho người khác cũng sẽ trở thành đề tài để thể hiện sau này.
-Nguyễn Ngọc Tú
“Vì sao lựa chọn chất liệu Đông Hồ? Đó là vì bản chất tranh Đông Hồ là thể loại tranh dân gian, nó lưu giữ lại những cảnh sinh hoạt đời thường của người dân. Thế hệ của chúng ta bây giờ xem tranh Đông Hồ để hình dung lại sinh hoạt ngày xưa của ông cha mình, thì ngày nay việc dùng thực phẩm bẩn để gây hại cho người khác cũng sẽ trở thành đề tài để thể hiện sau này. Khi con cháu mình nhìn vào những bức tranh được lưu giữ ở quá khứ nó mang giá trị dành cho thế hệ sau hơn là ở thế hệ này bởi vì chúng ta thấy nó quá bình thường rồi nhưng sau này con cháu chúng ta nhìn vào nó sẽ hình dung ra được một quá khứ không còn đẹp đẽ như những bức tranh Đông Hồ mà chúng ta thấy hiện nay nữa. Nó là một quá khứ rất đáng sợ, đó là lý do tại sao cháu chọn phong cách tranh Đông Hồ.”
Tranh Đông Hồ nổi tiếng vì những câu chuyện mà nó chuyên chở, từ hái dừa, đánh ghen hay đám cưới chuột, cho tới cách nhìn của tranh đối với những con vật quen thuộc trong gia đình như gà hay lợn cũng thân tình và gần gũi với người bình dân hơn bất cứ dòng tranh dân gian nào khác. Nét đặc sắc của Đông Hồ nằm trong ba yếu tố: chất liệu giấy dó được phết điệp khiến tranh sống động như các loại tranh hiện đại. Màu sắc được lấy từ cây cỏ thiên nhiên nhưng không bị giới hạn bởi tính cách đơn sắc khi in mộc bản. Tuy nhiên, chính nội dung của tranh mới làm nó nổi tiếng và người xem yêu quý. Tranh Đông Hồ kể lại những câu chuyện thường nhật về con người sống cùng thời đại của nó mà đôi khi trong thế giới ngày nay đã hoàn toàn biến mất.
Đông Hồ tuy được công nhận là di sản phi vật thể nhưng ngày càng ít người mua hơn, bởi điều dễ nhận thấy nhất là những câu chuyện trong tranh vốn là sức hút nay không còn ăn khách nữa.
Nguyễn Ngọc Tú, một người trẻ không chuyên về vẽ, đã vô tình tiếp nối dòng tranh này bằng những câu chuyện biếm của mình theo cung cách Đông Hồ. Tranh biếm của anh xoay quanh các đề tài mà ngày nay trở thành bình thường đến nỗi không còn ai để ý đó là vấn đề thức ăn thường nhật của người Việt không còn an toàn nữa. Nguyễn Ngọc Tú tuy chỉ là một người vẽ tài tử nhưng cách tiếp cận vấn đề của anh thật đáng chú ý.
                                                Tranh biếm lợn khát của Nguyễn Ngọc Tú.
Nguyễn Ngọc Tú sớm nhận ra những ưu tư của anh trước đời thường nếu ghi chép lại bằng kỹ thuật của tranh Đông Hồ sẽ thu hút được sự chú ý của người hôm nay và quan trọng hơn, nó sẽ lưu truyền trong những năm tháng sau này như Đông Hồ từng làm. Từ trăn trở này Nguyễn Ngọc Tú cho biết:
“Ban đầu do nỗi lo lắng khi mình đi ăn ngoài. Bây giờ việc người ta dùng thực phẩm bẩn đã tràn lan rồi thành ra mỗi lần đi ăn ngoài là một lần lo sợ. Nỗi lo sợ đó khi về nhà cháu muốn vẽ một cái gì đó thể hiện nỗi lo không những cho riêng mình mà cho người thân và con cháu mình sau này để cảnh giác. Ban đầu vẽ lên thì để thể hiện sự lo lắng của bản thân cũng như lo lắng cho những người chung quanh mình về vấn nạn người ta dùng thực phẩm bẩn. Nó đặt nặng nhiều vào sự hy vọng. Hy vọng những người buôn bán họ sẽ lấy cái tâm để làm kinh doanh, chứ nếu lấy sức khỏe người khác mang lợi cho mình thì rất là đáng sợ cho thế hệ này và những thế hệ sau nữa. Nó mang hy vọng rất lớn chứ không phải là thông điệp nhắn gửi bởi vì báo chí đã phản ảnh rất nhiều rồi cho nên bộ tranh này chỉ mong nó là niềm hy vọng, lớn hơn sự phản ảnh.”
Tranh Đông Hồ nhái
Để vẽ loạt tranh biếm này Nguyễn Ngọc Tú sáng tạo background thô nhám nghệ thuật của tranh Đông Hồ bằng cách áp dụng phần mềm Photoshop, sau đó vẽ trực tiếp trên Wacom tạo hình dạng của nhân vật cuối cùng là phần màu dựa vào nguyên mẫu Đông Hồ để tạo nên tổng thể từng họa phẩm.
Tuy rất giống tranh Đông Hồ khi mới lướt nhìn nhưng rất khác nếu ngừng lại ở bức tranh lâu hơn. Nguyễn Ngọc Tú cho biết cách mà anh sáng tác:
“Cháu không phải là họa sĩ cũng như không biết cách làm tranh Đông Hồ như thế nào nhưng khi nhìn những bức tranh Đông Hồ cháu dùng máy tính Digital Printing và cố gắng thể hiện chất liệu của nó càng giống càng tốt. Cũng may nó thể hiện được phần nào nên mọi người nhìn vào thì thấy ngay phong cách tranh Đông Hồ bởi vậy người ta hay gọi tranh Đông Hồ nhái chứ không phải tranh Đông Hồ được vẽ theo cách truyền thống. Cháu vẽ trên Wacom và dùng phần mềm Photoshop.”
Cháu không phải là họa sĩ cũng như không biết cách làm tranh Đông Hồ như thế nào nhưng khi nhìn những bức tranh Đông Hồ cháu dùng máy tính Digital Printing và cố gắng thể hiện chất liệu của nó càng giống càng tốt.
-Nguyễn Ngọc Tú
Tú dùng bố cục của Đông Hồ để miêu tả câu chuyện trong chủ đề duy nhất là thực phẩm bẩn. Bức tranh người đàn bà ngồi bơm hơi vào con gà cho to lên để bán, hay cả gia đình “hô biến” những quầy chuối còn non thành vàng ruộm đã thật sự làm cho người xem rúng động. Những con người hiền lành khi xưa trong thế giới của tranh Đông Hồ hôm nay thay đổi diện mạo một cách khó hiểu. Cũng chiếc áo tứ thân, cũng khuôn mặt bầu bĩnh của đứa trẻ Việt Nam, cũng thân cây quen thuộc trong Đông Hồ nay đã trở thành một nơi chốn khác, tàn bạo và lạnh lùng bởi lòng tham của con người.
Nếu bức đánh ghen của Đông Hồ làm cho người xem nhớ mãi trong cái ghen tuông của bà vợ vẫn còn chút gì hơi hướm chân quê thì nay chính vợ chồng hai anh chị nhà quê ấy lại cùng nhau mở cửa hàng bán thịt lợn nhưng lại ghi bảng là “thịt bò 100% thề!” Chữ “thề” phía sau như một dấu chấm than diễn tả thật sâu ý nghĩa mà bức biếm họa kéo người xem vào ngôn ngữ kẻ chợ hôm nay. “Thề” không còn là chữ người ta dùng một cách cẩn trọng nữa mà nó như một thứ “tán thán từ” được nói lên nhằm minh họa cho một thời kỳ gian dối đến từng câu chữ.
Con dao bầu sắc nhọn thay cho chiếc kéo đánh ghen hôm xưa vẽ ra hình ảnh một xã hội lừa đảo đến cùng cực. Người xem rùng mình khi nghĩ tới viễn cảnh mình và gia đình đang nằm dưới con dao tròn trĩnh ấy vì hóa chất biến heo thành bò của những thương buôn vô lương tâm.
Nếu con lợn trong tranh Đông Hồ tượng trưng cho sung túc thì trong loạt tranh biếm của Nguyễn Ngọc Tú chú lợn trở thành “lợn oan” vì đói khát phải ra đường tìm nước uống ở những phông tên công cộng. Tú rất tinh tế qua cách dùng màu sắc để biểu cảm trong từng chủ đề. Cũng là màu của Đông Hồ, cũng là hơi thở của Đông Hồ trên từng chiếc lá nhưng trong tranh biếm của Nguyễn Ngọc Tú người xem thấy không gian của thời đại mình đang sống hiện ra bằng ngôn ngữ Tú dùng trong tranh: lạnh lùng, vô cảm và đầy ắp mưu toan.
Trong bức biếm về giá cả, bên cạnh gian hàng thịt heo trưng bảng giá 100 ngàn một ký, thì gian hàng kế bên bán chà bông cũng từ thịt heo nhưng chỉ còn 80 ngàn một ký. Sự gian dối lộ liễu ấy cho thấy người bán xem thường người mua đến mức nào.
                                           Tranh biếm nhuộm chuối của Nguyễn Ngọc Tú.
Bức cuối của loạt tranh biếm Đông Hồ miêu tả một bệnh viện mang tên Ung bứu đang được xây dựng với lá cờ phướng ghi rõ dòng chữ “tưng bừng khởi công” làm cho người xem vừa tức cười vừa chua xót. Đâu đó trong không khí của năm 2016, hình ảnh từng đoàn người bấu víu nhau vào bệnh viện để chữa trị những chứng nội thương ung bứu do hóa chất trong thực phẩm gây ra làm cho “dòng tranh” biếm của Tú thấm đẫm thời gian tính hơn lúc nào hết.
Tranh biếm của Nguyễn Ngọc Tú không có tính cổ vũ cho sự bôi bẩn con người hay chế độ, nó chỉ đơn giản là kể chuyện. Những câu chuyện bằng tranh tuy gây cười nhưng lại tác dụng như những biên bản thời sự, minh họa lại những sinh hoạt gian lận trong công nghệ thực phẩm từ công ty lớn cho tới bà nhà quê mới học được kỹ thuật bơm hóa chất vào trái cây để nó chín mau hơn, bất kể sức khỏe người ăn nó.
Những bức tranh biếm Đông Hồ của thời đại Hồ Chí Minh không đơn độc trong không gian mạng, nó chậm rãi đi vào ý thức của người xem và nếu để ý, người ta sẽ thấy phần chìm phía sau nó là những tiếng thở dài của cả một thế hệ lơ láo trước những nguy hiểm chết người nhưng không có cách nào chống lại.
Khi được hỏi có suy tính tới việc phản ảnh những vấn nạn xã hội khác ngoài thực phẩm bẩn trong tranh biếm của mình hay không, Tú cho biết:
“Những vấn nạn ở xã hội bây giờ nó quá nhiều, nếu diễn tả hết thì thật sự cũng khó mà nói hết được cho nên trước mắt cháu tập trung vào đề tài này thôi còn sau này nếu có thời gian thì sẽ phát triển mở rộng thêm đề tài.”
Công việc của Tú tuy không nặng nề nhưng dù sao nó cũng là tài sản trí tuệ. Anh không thể hiểu nỗi vì sao nhiều tờ báo mạng thoải mái share những bức tranh này của anh mà lại quên ghi tên tác giả. Đây có lẽ là mối bận tâm nhất của anh.
“Chỉ có trên Facebook và có một tờ báo mạng xin phép đăng trên trang của họ. Riêng những người khác hay những trang khác thì họ share về hay lưu lại rồi họ tự post lên. Việc mà được tôn trọng, được credit tên của mình nó thể hiện phần tôn trọng đối với tác giả mà quyền tác giả tại Việt Nam thì dường như nó bị xem nhẹ quá. Cháu khá buồn khi thấy một số một vài trang lớn tự đăng lại mà không một lời xin phép nào thì cũng hơi buồn.”
Con đường còn rất dài trước mặt để khẳng định cách làm của Nguyễn Ngọc Tú có đi trước thời đại hay không. Thế nhưng nếu không chấp nhận cho mình sự thử thách như Tú đang làm, xã hội sẽ buồn và đơn điệu biết bao khi tiếng cười lành mạnh không còn vang lên trong bữa cơm gia đình.
Tú đã mang tiếng cười đến cho ai xem tranh của anh, mặc dù trong tiếng cười ấy là biết bao sinh mệnh đã bị trả giá về lòng tham của con người.
Tranh biếm Đông Hồ của Nguyễn Ngọc Tú dù có được nhắc tới sau này như sự mong đợi của tác giả hay không nhưng cách làm của anh đã cho thấy sự sáng tạo của một người trẻ đang góp phần tích cực kéo dài đời sống tinh thần của Đông Hồ trong ký ức người Việt.

Năm 72 Ở Quảng Trị



Năm 72 Ở Quảng Trị
Giao Chỉ San Jose

Ghi Chú: Bài này viết năm 1990 phổ biến khắp nơi. Bỗng có một cựu pháo thủ Bắc quân thuộc đoàn pháo Bông Lau gửi email cho tôi báo tin rằng không phải pháo Bông Lau bắn trên Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi hỏi lại, nếu Bông Lau không bắn thì pháo nào. Không thấy trả lời. Sách của Dương Phục và Thanh Thủy mới phát hành có đoạn tả về Đại Lộ Kinh Hoàng. Tôi gửi các bạn đọc lại chuyện cũ.

Đi tìm tài liệu Thời kỳ trước 1975, khi tôi có dịp phụ trách về binh thư tại bộ Tổng Tham Mưu, thường qua bên Phòng Nhì hoặc Trung ương tình báo tìm đọc các sách báo của miền Bắc. Đọc và ghi chép lại, thêm 1 chút nhận xét, nhưng không phê phán. Đôi khi phải tóm lược lại để trình lên hay phổ biến nội bộ nhưng tuyệt đối không viết thêm những lời tuyên truyền hay lên án.

Ngày nay trên đướng đi tìm tài liệu cho trận Quảng Trị, chúng tôi giữ các nguyên tắc đó.

Bây giờ xin quý vị cùng chúng tôi tìm hiểu về miền Bắc Việt Nam thời kỳ đầu thập niên 70.

Để chuẩn bị cho trận mùa hè 72, Hà Nội bắt lính từ năm 1970. Sau khi vét hết nông dân, qua năm 1971 tổng động viên toàn bộ nhân lực thành thị. Các học sinh và sinh viên trên 18 tuổi chuẩn bị nhập ngũ hết.

Cũng trong thời gian này, Nga và Tàu hoàn toàn đồng ý viện trợ cho Hà Nội đánh Mỹ. Trong lúc Hoa kỳ rút quân, bên ta Việt Nam hóa chiến tranh thì Nga Sô viện trợ tối đa cho miền Bắc qua Trung Cộng.

Ngay sau trận mùa hè 72, Phan nhật Nam viết cuốn “Mùa hè đỏ lửa” thì 33 năm sau Hà Nội mới cho ra đời 2 cuốn sách viết về Quảng Trị. Đại tá pháo binh quân đội nhân dân ra đời cuốn “Mùa Hè Cháy” ghi lại con đường nhận pháo Nga Sô từ biên giới Tàu đem về Hà Nội đưa vào đến Quảng Bình, rồi qua Quảng Trị trong trận mùa hè. Với số lượng pháo đủ loại và hỏa tiễn, 5 sư đoàn Bắc quân đã được yểm trợ tối đa để tấn công miền Nam trực tiếp qua Bến Hải.

Tất cả đều ghi rõ trong tác phẩm “Mùa Hè Cháy” và chính từ tác phẩm này tôi có thể đối chiếu với tài liệu còn lưu giữ để có được những trang sử gần chính xác về phía Việt Nam Cộng Hòa. Cũng vào năm 2005 một tác phẩm khác tựa đề “Một Thời Hoa Lửa” đã ra đời, cũng nói về đề tài Quảng Trị. Bài viết này sẽ ghi lại rất nhiều chi tiết từ Hoa Lửa do các tác giả miền Bắc sáng tác.

“Mãi mãi tuổi 20” Bên lề tài liệu chính kể trên, tập hồi ký được Hà Nội nhắc nhở đến nhiều nhất là: “Mãi mãi tuổi 20,” hồi ký của 1 thanh niên tên Nguyễn văn Thạc. Anh là Sinh Viên đại học Tổng hợp Hà Nội. Đi lính binh nhì truyền tin ngày 6-9-1971 và hy sinh tại chiến trường Quảng Trị ngày 30-7-1972, chưa đầy 20 tuổi và chưa đủ 1 năm lính.

Anh bị pháo cắt ngang đùi trái, mất máu nhiều quá nên đã chết. Chôn ngay tại mặt trận Quảng trị. Thạc để lại cuốn nhật ký 260 trang, viết trang cuối vào ngày 27-7-1972. Ba ngày sau tử trận. Tháng 5-1973 tức là gần 1 năm sau, gia đình chưa có tin tức của đơn vị, nhưng được đồng đội về báo tin. Sau tháng 4-1975 gia đình không có phương tiện đi tìm xác. Phải chờ đến cuối năm 1976 mới có điều kiện đi tìm. Cải táng từ quận Triệu Phong về huyện Từ Liêm, gần Hà nội vào dịp tết 1977.

Tôi đã đọc 2 lần 260 trang sách nhưng không tìm được những dữ kiện về trận Quảng Trị. Hồi ký ghi lại 10 tháng trong quân ngũ của 1 thanh niên miền Bắc, nhưng mới vào trận đã bị thương rồi chết.

Nội dung là lời lẽ chân thành đơn giản nhưng không có tình tiết hấp dẫn. Tác phẩm này được giới trẻ tìm đọc vì đã nhắc đi nhắc lại đến tình yêu tuổi học trò với cô bạn học Như Anh. Cô này hiện nay là di dân sống tại Đức quốc. Vì tác phẩm nặng về tình yêu và thiếu quyết tâm nên đã không được phổ biến suốt 33 năm. Phải chờ đợi đến thế kỷ thứ 20, nhạc vàng miền Nam chinh phục hoàn toàn nền văn hóa vô sản thì hồi ký tình yêu của Nguyễn văn Thạc mới được phổ biến và quảng bá mạnh mẽ.

“Một Thời Hoa Lửa” Đây là tên 1 tác phẩm, đồng thời cũng là tên 1 chương trình do đài truyền hình Việt Nam tại Hà Nội và công ty viễn thông quân đội nhân dân phối hợp tổ chức vào ngày 31 tháng 10 năm 2005. Ban tổ chức mời tất cả bộ đội đã tham dự trận Quảng Trị trên 1.000 người về lại Thành Cổ để dự 1 chương trình văn nghệ. Cùng 1 lúc họ tập hợp lối 5.000 sinh viên Hà Nội tại sân trường đại học Khoa học, Xã hội, Nhân văn cùng tham dự. Báo Nhân dân đã ghi lại là vào ngày 6 tháng 9 năm 1971 tại 30 sân trường đại học và cao đẳng, tổng cộng 10.000 sinh viên lên đường nhập ngũ.

Như vậy là 34 năm trước đảng cộng sản đã động viên hầu hết các sinh viên miền Bắc để tấn công miền Nam. Có nhiều trường đại học sau đó đóng cửa, các giáo sư cũng vô lính với học trò. Hầu hết có được 4 tháng huấn luyện và đầu năm 1972 tất cả lên đường vào Nam tham dự vào 3 mặt trận. An lộc, Kontum, và Quảng trị. 70% bộ đội hy sinh hoặc bị thương. Trận Mậu Thâm 68 Việt Cộng hy sinh toàn bộ các đơn vị thuộc Mặt trận giải phóng miền Nam và bộ đội tập kết.

Qua đến trận Mùa hè 72 đảng cộng sản Việt Nam hy sinh khối nhân lực trí thức tương lai của miền Bắc. Người có quyết định sắt máu đó là Lê Duẩn.

81 ngày lịch sử Lúc 10 giờ 30 sáng ngày 30/3/1972 trung đoàn pháo Bông Lau khai hỏa trận địa pháo vào căn cứ Carroll, Ái tử và Mai Lộc. Ngày 2/4/1972 căn cứ Carroll thất thủ. Sau đó Ái Tử, Mai Lộc rồi Quảng Trị đều rút quân. Một tháng sau, ngày 1 tháng 5-1972 Bắc quân chiếm đóng toàn thể tỉnh Quảng Trị từ sông Bến Hải đến sông Mỹ Chánh. Xác người và di sản chiến tranh vẫn còn trên quốc lộ số 1 đã trở thành đại lộ kinh hoàng.

Hội nghị hòa đàm Paris bước vào năm thứ 4. Hoa kỳ đơn phương rút quân. Khối cộng sản Nga Sô và Trung Cộng đổ chiến cụ và tiếp viện tối đa vào miền Bắc.

Mở đầu cho giai đoạn thử thách Việt Nam hóa chiến tranh, quân lực Việt Nam Cộng Hòa hành quân Lam Sơn 72, Nam quân vượt sông Mỹ Chánh ngày 28 tháng 6-1972 và kết thúc việc chiếm lại Cổ Thành Quảng Trị ngày 16 tháng 9-1972. Sau 81 ngày tại một chiến trường khốc liệt nhất trong chiến tranh Việt Nam.

Báo chí miền Bắc gọi là Cuộc đụng đầu của lịch sử. Hơn 30 năm qua và cho đến ngày nay, Hà Nội luôn luôn nhắc đến chiến tích đã cầm cự được 81 ngày.

Tại viện bảo tàng lịch sử Cổ Thành hiện nay có bảng tưởng niệm với 81 tờ lịch ghi dấu 81 ngày trong cuộc chiến mùa hè 72. Thêm vào đó có 11 tấm phù điêu tiểu sử 11 chiến binh đã có mặt trong Cổ Thành và còn sống đến ngày nay. Mỗi người đều ghi lại cuộc đời sinh viên, nhập ngũ, chiến đấu và trở về. Đó là phù điêu gọi là Dương bản. Còn Âm bản là mộ bia tưởng niệm chung trên 10.000 bộ đội đã hy sinh.

Trong đêm văn nghệ Hoa Lửa 31/10/2005 họ đã dùng 81 nhạc công trong ban hòa tấu để nhắc lại ý nghĩa của 81 ngày lịch sử.

Cổ Thành gian khổ

Cũng theo tài liệu của miền Bắc, tuyển tập Hoa Lửa ghi lại bút ký, bài viết và lời phát biểu của gần 100 nhân vật về trận mùa hè 72. Sách xuất bản năm 2005 ngôn ngữ Hà Nội đã khác biệt với tài liệu tuyên truyền phổ biến trước và sau 1975. Không còn những lời miệt thị miền Nam. Họ gọi quân lực Việt Nam Cộng Hòa, tổng thống Nguyễn văn Thiệu, trung tướng Ngô quang Trưởng. Đồng thời qua tài liệu với nội dung mở rộng đã có đề cập đến số tổn thất, thương vong khủng khiếp, nỗi sợ hãi, việc đào ngũ của chiến binh.

Đặc biệt có những chỗ ghi rõ tuổi tân binh có nhiều em dưới 18 tuổi. Các chú lính mới chưa được huấn luyện và cán bộ quân sự đã dạy bắn hay ném lựu đạn lúc còn ở dưới hầm trong Cổ Thành. Họ lùa tất cả đám lính mới qua sông rồi sẽ huấn luyện sau.

Cuộc sống của hàng ngàn bộ đội dưới hầm là một thế giới cực kỳ gian khổ. Các hầm đều ngập nước. Không đủ nước uống. Không đủ ăn. Điều kiện vệ sinh hết sức khốn nạn. Người sống ở chung với thương binh và người chết. Trên 20% thương vong khi vượt sông Thạch Hãn. Sau đây là 1 đoạn nguyên văn của cán bộ quân sự viết lại: “Trong 81 ngày đêm đó, trung bình hàng đêm có 1 đại đội tăng cường hơn 100 người vượt sông và cũng từng đó con người đã ra đi không trở về. Máu thịt hòa vào nước sông trôi ra cửa Việt.”

Một chiến binh khác viết về những ngày sau cùng: Đêm 13/9/1972 Hồ Tú Bảo là sinh viên đại học toán, làm trinh sát cho sư đoàn 325 được lệnh qua sông vào tiếp viện. Suốt 2 ngày 13 và 14 tháng 9 không vượt được sông Thạch Hãn, Ngày 15 tháng 9-72 chuẩn bị vượt sông nhưng bến đáp cả 2 bờ Bắc Nam không còn nửa. Trong thành vẫn có súng nổ. Đến ngày 16/9/72 thì Cổ Thành Quảng Trị đã hoàn toàn im tiếng. Chỉ còn những ngọn khói bốc lên.

Đơn vị được lệnh rút về và hiện nay anh lính trinh sát sư đoàn 325 trở thành giáo sư tin học tại đại học Hà nội.

Cờ bay trên Thành Cổ Phía Việt Nam Cộng Hòa rất hiểu rõ ý nghĩa của việc tái chiếm Cổ Thành để dành thắng lợi trên bàn hội nghị. Phía Hà nội cũng ghi nhận đây là điểm quan trọng nhất. Hòa đàm Paris dự trù tái nhóm ngày 13 tháng 7-1972. Tài liệu của miền Bắc ghi lại rằng: “Tướng Ngô quang Trưởng đôn đốc nhẩy dù phải chiếm bằng được nhà thờ Tri Bưu ngày 12 và sau đó chỉ còn 500 thước đến Cổ Thành thì phải cắm cờ vào ngày 13/7/72. Kết quả quân Dù của VNCH chiếm được Tri Bưu nhưng quân ủy trung ương Hà Nội ra lệnh trung đoàn 48 và 2 tiểu đoàn địa phương, trung đoàn 95 của sư đoàn 325 phải sẵn sàng để chống vụ cắm cờ bằng mọi giá.

Một trang báo dài của đại tá Nguyễn hải Như, tham mưu trưởng trung đòan Thạch Hãn đã mô tả về trận quân Dù đánh xong Tri Bưu nhưng thất bại trong việc treo cờ Cổ Thành ngày 13/7/72. Sau trận đánh đẫm máu mà lính mũ đỏ hy sinh rất nhiều.

Tài liệu của cộng sản cũng ghi rõ cách đánh rất dũng mãnh của cả 2 binh đoàn nhẩy dù và thủy quân lục chiến trong trận Cổ Thành.

Bên Việt Nam Cộng Hòa có lợi thế thay quân. Đánh rồi ra nghỉ. Đưa thương binh tử sĩ ra khỏi trận địa. Trong khi phía miền Bắc không có điều kiện thuận tiện vì thay quân là phải qua sông và thương vong trên sông Thạch Hãn rất cao.

Sau cuộc chiến. Cũng từ tài liệu của miền Bắc ghi lại, trên toàn thể Việt Nam, Quảng Trị là nơi có 2 nghĩa trang liệt sĩ lớn nhất. Nghĩa trang Trường Sơn và nghĩa trang Quảng Trị. Phần lớn chiến binh cộng sản tử trận được gom lại chôn tại Quảng Trị. Một số lớn còn thất lạc.

Các cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa khi qua Mỹ được hỏi về di hài lính Mỹ cũng đã tiết lộ thêm về các mộ phần của bộ đội tại miền Nam do bên ta chôn cất. Phía Hoa Kỳ có chuyển tin tức này cho Hà nội. Tuy nhiên về việc tìm kiếm mộ phần của phía Việt Nam Cộng Hòa trước 75 bao gồm thêm di hài tù tập trung “cải tạo“ hiện vẫn chưa được chính quyền Hà Nội lưu tâm.

Gần 35 năm sau tháng 4-1975 dân Việt tỵ nạn đã có cả triệu lần trở về cùng với hàng tỷ mỹ kim gửi quà hàng năm, nhưng vết thương chính trị vẫn còn là gánh nặng nên chưa giải tỏa được con đường vào chốn tâm linh.

Ông Nguyễn đặc Thành, một HO can đảm đang đặt vấn đề cải táng di hài tù chính trị. Hồ sơ qua tòa đại sứ Hoa Kỳ gửi cho Hà Nội vẫn chưa được chính phủ cộng sản cứu xét.

Thuần túy trên lãnh vực tâm linh, nghĩa tử nghĩa tận, chỉ có chính quyền Hà Nội mới có thẩm quyền và trách nhiệm tối thiểu đối với di hài chiến sĩ miền Nam.

Với danh nghĩa người Mỹ gốc Việt, với sự cộng tác mạnh mẽ của tòa đại sứ Mỹ tại Việt Nam, việc tìm kiếm tảo mộ di hài chiến binh miền Nam đưa về nguyên quán hay chôn tại Nghĩa trang Biên Hòa với sự bảo quản tối thiểu, không có gì khó khăn.

Hà Nội đã bước vào kỷ nguyên mới, phải ý thức được những điều phải làm trong trách nhiệm với lịch sử dân tộc, theo trào lưu tiến hóa của nền văn minh nhân loại.

Để kết luận câu chuyện về Quảng Trị, chúng tôi xin kể hầu quý vị 1 câu chuyện.

Năm 1992, hai mươi năm sau mùa hè 72, Hội VMA (Vietnam Memorial Association) gồm các cựu chiến binh Hoa Kỳ muốn hàn gắn thương đau của Việt Nam hậu chiến. VMA dự trù xây trường học tại các nơi hẻo lánh cả 2 miền Nam Bắc. Ban quản trị họp để tìm 1 địa điểm đầu tiên. 8 ông bà Hoa Kỳ bàn về các địa điểm. Ý kiến khác biệt, Cô Kiều Chinh là người Việt duy nhất, đồng sáng lập viên của VMA đã đề nghị ngôi trường đầu tiên sẽ xây tại Quảng Trị. Nơi mang vết thương lớn nhất của chiến tranh Việt Nam. Nơi chia cắt 2 miền suốt 21 năm. Toàn thể VMA đều đồng ý chọn đất cho ngôi trường tại Đông Hà coi như món quà của người phụ nữ Việt Nam tỵ nạn cộng sản gửi lại quê hương.

Bức thông điệp đẹp đẽ biết dường nào. Năm 1954, cha của cô bị Việt cộng bỏ tù không bản án và chết trong tù. Thêm một ngôi trường được xây cất tại làng Mọc, quê hương của ông Nguyễn Cửu, thân phụ của cô Nguyễn thị Chinh, tên thật của tài tử Kiều Chinh. Cô ra đi lúc còn nhỏ 1954 và từ đó không bao giờ thấy được mặt cha.

Trong phim “Người tình không chân dung” có đoạn Kiều Chinh quay tại nghĩa trang Biên Hòa cũng vào năm 1972. Một ngày nào đó, cô sẽ lên thăm lại nghĩa trang quân đội miền Nam, nơi có rất nhiều chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh tại chiến trường Quảng Trị mùa hè 72. Không thiếu bất cứ 1 quân binh chủng nào, không thiếu bất cứ màu cờ sắc áo nào. Kể cả lính Dù chết dưới chiến hào với cờ vàng pha máu và lính thủy quân lục chiến hy sinh trong thành nội 10 ngày sau cùng, chưa thấy được lá cờ bay trên trời xanh của Cổ Thành Quảng Trị.

Phía bên kia Bến Hải một thời, có câu chuyện của họ. Bây giờ đến lượt chúng ta phải kể lại câu chuyện của mình. Nếu anh không nói, ai nói. Bây giờ không nói, bao giờ.

Vì vậy sau khi nghe chuyện bên kia, chúng ta hãy nói chuyện bên này.

Rồi mai đây, vào năm 2025, nửa thế kỷ sau cuộc chiến, sử Việt sẽ ghi rằng chiến tranh Việt Nam đã làm chết 2 triệu dân trên khắp các miền đất nước. Riêng tại Quảng Trị, mùa hè năm 1972 cuộc chiến dằng xé điên cuồng đã giết chết 50 ngàn thanh niên của cả hai miền Nam Bắc. Lịch sử sẽ không cần ghi phần tổn thất hay thắng bại của các đơn vị.

Sau này những đóa hoa tưởng niệm thả xuống dòng Thạch Hãn hay con sông Bến Hải sẽ cùng trôi ra biển Đông. Thể hiện tấm lòng của thế hệ tương lai gửi chung cho tất cả linh hồn các chiến binh đã hy sinh cho cuộc chiến tương tàn cuối thế kỷ thứ 20 tại Việt Nam.

NGƯỜI NHÂN CHỨNG QUA ĐÊM

TRÊN ĐẠI LỘ KINH HOÀNG

Khi đi tìm nhân chứng của 1 chiến trường hết sức oan nghiệt và thê lương, hết sức dũng mãnh và hào hùng, tôi vẫn không quên đoạn đường đầy xác người trên quốc lộ số 1. Ngay khi chiến trường còn vương khói súng, cây bút nhẩy dù, đại úy Phan nhật Nam đã viết “Mùa hè đỏ lửa.” Tác phẩm đem vinh quang cho tác giả đồng thời cũng làm khổ ông sau 1975. Nhưng trước sau “Mùa hè đỏ lửa” đã gắn liền vào tên tuổi Phan nhật Nam.

Phải chờ đến 32 năm sau, Hà Nội mới xuất bản cuốn “Mùa hè cháy“ của đại tá pháo binh “Quân đội Nhân dân” viết về trận pháo kích của trung đoàn pháo Bông Lau, trận pháo dã man trên đường di tản của dân Quảng Trị, giết chết hàng ngàn người và làm đoạn đường trên 2 cây số giữa con sông Thạch Hãn và Mỹ Chánh trở thành Đại lộ Kinh Hoàng.

Chúng tôi vẩn đi tìm xem ai là người đặt tên cho đoạn đường của trận thảm sát mùa hè năm 72. Có lẽ chỉ trong chiến tranh Việt Nam mới có cái đại lộ mang tước hiệu kinh hoàng.

Anh phóng viên của bộ Thông Tin có mặt tại Quảng Trị nói rằng bác đi hỏi ông Lê Thiệp trên DC. Khi quân ta phản công ở Mỹ Chánh, ông nhà báo Lê Thiệp có đi theo trên quốc lộ 1 qua lối này. Năm 2005 nhân dịp gặp ông Thiệp tại DC, ông nói rằng không biết tay nào đặt cái tên Đại lộ Kinh Hoàng thật hay. Câu chuyện dừng tại đó.

Một lần khác, chúng tôi rao lên là muốn tìm gặp những ai đã chạy trên con đường ác độc vào đúng lúc địch pháo kích. Tôi biết có trung tá Lê huy Linh Vũ của Tổng cục Chiến tranh Chính trị là người đã trải qua và đã viết lại thành cuốn sách. Con gái của trung tá Vũ là họa sĩ Hương Alaska có cho phép chúng tôi in lại cuốn này để tặng các bạn.

Nhưng ông Vũ nay không còn nữa. Đại tá Hà Mai Việt, tỉnh trưởng Quảng trị thời kỳ 72 đã nói rằng: “Tại ông không lưu tâm đọc sách của tôi. Mở trang này ra mà xem, nhân chứng sống là ông Phan văn Châu. Tôi đã viết rõ từng trường hợp của trận Quảng Trị trong tác phẩm Thép và Máu.

Ông nhân chứng này không những chịu đựng trực tiếp trận pháo trên quốc lộ mà còn nằm lại 1 đêm giữa các xác chết.”

Sau cùng nhờ ông Hà mai Việt, chúng tôi đã gặp nhân chứng sống. Trung sĩ Phan văn Châu năm nay 68 tuổi quả thực là 1 người dân tiêu biểu của miền đất Quảng. Qua máy điện thoại, dường như cả một trời tâm sự tuôn tràn. Những hình ảnh quê hương, chiến tranh, loạn lạc, pháo kích, khói lửa, lẫn lộn giữa trận 72 và trận 75.

Nói đến chuyện đất nước biết bao nhiêu địa danh nào là Nhan Biều, Cầu Ga, Ái Tử, Mai Lĩnh, Cầu Dài. Rồi đến biết bao nhiêu con sông, bao nhiêu rạch nước. Âm thanh đất Quảng của người dân chân chỉ hạt bột, vòng qua quay lại để sau cùng trở về với cái ngày cả gia đình bỏ Nhan Biều mà đi.

Ông Châu nói rằng, lúc đó dường như mọi người đã chạy hết. Phan văn Châu là trung sĩ thông dịch viên cho ngành tình báo tại Đà Nẵng đang đi công tác về Ái tử.

Đến khi thiên hạ bỏ chạy hết, thầy thông ngôn trẻ tuổi mặc đồ dân sự cùng 1 đứa cháu, dẫn vợ có bầu với 3 đứa con nhỏ, năm một, sáu, bẩy, tám tuổi. Tất cả vội vàng ra đi bỏ lại phía sau căn nhà mới cất tại Nhan Biều bên bờ Bac của sông Thạch Hãn.

Vợ con đi trước 1 đoạn với gia đình bà chị. Thằng cháu và ông Châu đi xe gắn máy kéo theo 1 chiếc xe gỗ 2 bánh. Hành trang chất đầy, người kéo, người đẩy chiếc xe qua khỏi cầu Ga, đi được một đoạn dài đến 9 giờ sáng thì pháo nổ ngay trên đường. Con đường đầy người chạy loạn. Cả dân cả lính với đủ mọi thứ xe. Đa số đi bộ vì đường tắc nghẽn nên không thể đi nhanh. Đạn rơi chỗ nào cũng có người chết. Xác bắn tung lên trời. Khói lửa mù mịt. Mạnh ai nấy chạy. Vợ con thất lạc ngay từ lúc đó. Ông Châu nghĩ rằng vợ con có thể đang ở phía trước. Nhưng phía trước hay phía sau thì cũng bị pháo. Khi pháo tạm ngưng thì có người lại tràn ra đi tới. Nhưng phần lớn nằm yên chịu trận. Có nhiều người không chết ở đợt pháo đầu nhưng rồi bị chết ở các đợt pháo sau. Nhiều xác chết trên đường bị pháo đi pháo lại nhiều lần. Bị thương rồi lại bị pháo rồi cũng chết. Biết bao nhiều người cố chạy cho thoát bỏ lại cả gia đình vợ con. Những đứa nhỏ nằm khóc bên xác mẹ. Những em bé sơ sinh bú vú mẹ đã lạnh khô. Có người còn sống thấy đó mà phải bỏ đi. Ông Châu và đứa cháu chạy về phía đông quốc lộ, vùi thây xuống cát mà chịu đựng 1 ngày pháo kích. Đủ loại pháo của cộng sản thay phiên bắn phá suốt một ngày dài. Pháo 122, pháo 130 và pháo 155. Chỉ khi nào có B52 đến thả bom mới thấy địch im tiếng súng được 1 lúc.Toàn thân ông tê liệt dưới trời nắng gắt. Phải bò đến các vũng nước có cả phân trâu và máu người để uống.

Khi trời tối dần, tất cả đều im lặng và ghê sợ. Ông Châu và đứa cháu bắt đầu bò quanh lật các xác chết đàn bà và trẻ em lên xem có phải vợ con. Lật một xác phụ nữ mà ông nghĩ rằng người vợ, đầu óc ông mê muội. Thằng cháu còn tỉnh táo nói rằng không phải mợ. Mợ có bụng mà cậu. Mấy người khác còn sống cũng làm như vậy. Tất cả đi tìm xác thân nhân. Nhưng rồi trời tối hẳn, bộ đội Việt Cộng bắt đầu xuất hiện. Chúng tìm đến các xe nhà binh và tìm các quân nhân mặc quân phục bắt đi hết. Cậu cháu ông Châu khai là dân thường nên được lệnh phải nằm yên tại chỗ. Đêm hôm đó, ông Châu thức trắng trên bãi cát đẫm máu của Đại lộ Kinh Hoàng. Hình như có đôi lúc ông cũng thiếp đi. Cũng chẳng còn nhớ rõ. Chung quanh toàn xác chết. Người chết nhiều hơn người sống. Những xác chết cháy như than củi. Ông nghĩ rằng chắc xác vợ con cũng quanh đây. Sáng hôm sau, từ sớm mai những người còn sống đành phải bỏ lại 1 cánh đồng xác ở đằng sau để chạy về miền Nam. Đi đến cầu Dài gần sông Mỹ Chánh thì gặp toán tiền sát của thủy quân lục chiến Việt nam chận lại. Khi biết chắc là không phải quân địch, ông trung úy thủy quân lục chiến phất tay cho qua. Vừa đi khỏi một đoạn đường thì thấy ông sĩ quan bị du kích phía sau bắn sẻ chết ngay tại chổ. Đó là cái chết cuối cùng ông chứng kiến tại Quảng Trị. Tìm xe quá giang về Huế với tâm trạng hết sức não nề. Nhưng rồi phép lạ đầu tiên đến với cuộc đời ông. Ngay tại khu vực tạm cư Phú văn Lâu, thuộc thành phố Huế, ông gặp lại đầy đủ vợ con. Bà vợ bầu đã dẫn 3 đứa con nhỏ đi xuống đường ven biển theo dân địa phương. Đoàn người đi xa quốc lộ nên tránh được pháo kích.

Vợ con dắt díu nhau đi suốt 1 ngày 1 đêm về đến Mỹ Chánh rồi được xe cho bà bầu quá giang về Huế. Hai năm sau người vợ đầu tiên của ông Châu qua đời, sau khi sinh cho ông thêm 3 ngưới con nữa. Cô gái còn nằm trong bụng mẹ trên đại lộ kinh hoàng năm nay đúng 37 tuổi, tốt nghiệp đại học và có gia đình cư ngụ tại miền đông Hoa kỳ.

Những bước chân trần ai trên bãi cát Quảng Trị mùa hè năm 72 của bà mẹ mang bầu không biết có còn vương vấn chút nào trong lòng cô bé nghe pháo kích từ lúc chưa ra đời. Ông Châu nói rằng: Tụi nhỏ chẳng biết gì đâu. Chỉ có đứa lớn nhất năm nay ngoài 40 tuổi là còn nhớ đôi chút. Hỏi rằng thế ông có được bao nhiêu con tất cả. Ông tính nhẩm rồi nói rằng tất cả 10 con. Bà đầu tiên 6 con. Bà thứ hai 3 con. Bà này bỏ tôi đi lấy chồng nên bây giờ vẫn còn ở Việt Nam. Tôi đưa cả 3 cháu đoàn tụ bên này. Bà hiện nay ở với tôi có 1 cháu. Năm nay cháu cũng 24 tuổi rồi. Bà sau này có 1 con riêng. Như vậy là chúng tôi có 11 con. Thế bác có hạnh phúc không. Hạnh phúc chứ. Tất cả là số trời. Ông Châu nói rằng, cái đêm nằm ở đại lộ kinh hoàng, uống nước máu người và phân trâu tôi không bao giờ giờ nghĩ đến có ngày đi Mỹ như bây giờ. Tôi nghĩ rằng bây giờ vợ con chết hết thì mình sẽ ra sao. Làm sao tìm xác. Rồi chôn ở đâu. Hàng trăm xác người chung quanh, biết bao nhiêu xác trẻ con, vợ con tôi đều trong số đó. Không hiểu nó bắn pháo đạn gì quá ác. Tất cả xác chết như than củi chẳng làm sao biết được người nào là người nào.

“Năm 1973 tôi có trở lại, đi qua con đường thấy có đài tưởng niệm, rồi có các mồ chôn tập thể, có mồ chôn riêng rẽ. Lòng tôi hết sức xúc động. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn xúc động. Con cháu tôi thì nhiều nhưng mà làm sao các con hiểu được những gì tôi đã trải qua. Trận 72 quân ta mới lấy lại một nửa Quảng Trị. Đứng bên này dòng Thạch Hãn, bên kia là Nhan Biều, nơi tôi ra đời còn cả ngôi nhà thân yêu. Bên ta đã bị địch chiếm bờ Bắc, chỉ giữ được bờ Nam, đến 75 thì bờ Nam cũng chẳng còn.”

“Vâng thưa bác, năm nay em 67 tuổi,” ông Châu nói tiếp, “quê ở Nhan Biều, bờ Bắc sông Thạch Hãn, ngay dưới cầu Ga. Nhà em thi vào làm trung sĩ thông dịch viên năm 1966 khóa 11 tại quân đoàn I. Sau 75 em trốn được. Nếu khai thật chắc là bị buộc tội CIA.

Bờ sông Mỹ Chánh và cây cầu mới năm 2009. Mùa hè năm 1972, Nam quân và thường dân đã chạy qua "Đại lộ Kinh hoàng" để rút về phía Nam sông này.

Sau đó em vượt biên rồi đoàn tụ. Trước sau 3 vợ, 11 người con. Bà sau này là bà bền chặt nhất đã sống với nhau 25 năm. Vâng, thưa bác đây chắc chắn là bà sau cùng. Gia đình em rất hạnh phúc. Phần em, dù có bị kinh hoàng nhưng cũng chỉ có 1 ngày 1 đêm. So với người ta có người cả đời kinh hoàng thì nỗi khổ của chúng em có thấm vào đâu.”

Đó là câu chuyện của ông Châu, nhân chứng số 1 của chúng tôi. Tôi hỏi ông Châu câu cuối cùng. “Ông có biết ai đặt tên Đại lộ kinh hoàng.” “Không đâu,” bây giờ ông gọi tôi là cụ. “Cụ với cụ Hà Mai Việt không biết thì ai mà biết. Nhưng quả thực là kinh hoàng thực đấy các cụ ạ.”

Tuy hỏi vậy, nhưng tôi đã tìm ra. Số là vào mùa hè năm 72 đó, có anh phóng viên trẻ tuổi bút hiệu Ngy Thanh cũng ra chiến trường Quảng Trị. Anh đã bỏ ra cả 1 ngày dài trên đoạn đường oan nghiệt. Chụp hình các xe cháy, các xác chết và có được 1 bộ hình hết sức đặc biệt. Khi về lại Saigon viết loạt bài phóng sự, anh có đặt tên là Đại lộ Kinh Hoàng. Câu chuyện làm xúc động độc giả tại thủ đô. Chủ nhiệm là chị Trùng Dương bèn cùng anh chị em quyên góp tiền bạc ra Trung tổ chức nhặt xác và chôn cất. Câu chuyên ngày đó có lẽ ai cũng biết, nhưng ngày nay ai cũng quên hết cả rồi. Hành động của báo chí và đồng bào tự nguyện đứng lên lo việc chung sự cho nạn nhân của đại lộ kinh hoàng là 1 câu chuyện ý nghĩa nhất trong phần nhân bản của trận Quảng Trị mùa hè 72.

Hai tháng sau đêm kinh hoàng của ông Phan văn Châu, quân miền Nam vượt sông Mỹ Chánh, phản công tái chiếm Quảng Trị. Người phóng viên chiến trường trở lại quốc lộ số 1. Sau đây là phần trích lại bài phóng sự đăng báo Sóng Thần năm 1972 của Ngy Thanh.

“Khoảng 10 giờ sáng, đầu cầu Bến Đá vắng lặng, không có lính trấn thủ khi chúng tôi đến. Những mũi dùi tấn công của Nhảy dù và TQLC đã được trực thăng vận vượt sông đánh lên qua sông Trường Phước. Bến Đá bấy giờ có 2 cầu. Cầu xe hơi trên QL 1 bị phá. Chiếc cầu sắt xe lửa nằm ở phía núi gãy gục, đoạn giữa cắm xuống sông thành hình chữ V. Khu đất đầu cầu do QLVNCH trấn giữ trước đó đã được đặt nhiều mìn chống chiến xa. Thấy yên lặng và không có người, cả ta lẫn địch, hai chúng tôi bò theo khung cầu sắt gãy qua bên bờ Bắc, lách giữa đám mìn chống chiến xa để quay lại QL 1. Trước mặt chúng tôi, ngay trên bề mặt quốc lộ là xác xe. Chiếc ngược, chiếc ngang, phần lớn giở mui, không biết vì lý do gì. Nhiều xe cứu thương đã bị bắn cháy, nhưng còn đọc được phù hiệu Hồng Thập Tự hai bên hông. Chúng tôi nhìn vào cánh cửa xe hé mở, và thấy xác thương binh chết nằm, chết ngồi trong đó. Mùi tử khí đã thành mùi thối, thay vì mùi nồng của xác người như khi mới chết ít hơn 2 tuần. Chúng tôi tiếp tục lội xuống bãi cát 2 bên đường, bãi phía biển có nhiều xác chết hơn bãi phía núi, có lẽ vì khi bị tàn sát, người ta có khuynh hướng chạy ra phía Đông, là khu vực có người tiếp cứu trong khi phía núi chỉ là vùng hoang vu, không có ai sinh sống. Trên bãi cát này, chúng tôi thấy xác người lớn và xác trẻ em, xác quân nhân, cảnh sát và thường dân. Nhiều xác úp mặt chồng lên nhau, có lẽ bắn chết khi đang chạy tới để thoát hiểm”. (Ngy Thanh)

Cuộc chiến nào mà không có thảm sát, chiến tranh nào mà chẳng có nạn nhân. Nhưng hình ảnh của 1 đứa bé ngồi khóc bên xác mẹ giữa 1 chiến trường thảm khốc đầy xác thường dân như ở đại lộ kinh hoàng vẫn là 1 hình ảnh đau thương nhất mà chúng ta không thể nào quên được.

Vì vậy tôi cố tìm cho được câu chuyện của 1 nhân chứng đích thực, còn sống để kể lại hầu quý vị và riêng tặng cho đại tá Nguyễn Việt Hải chỉ huy trung đoàn pháo Bông Lau của quân đội Nhân dân, nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tác phẩm “Mùa hè cháy” xuất bản năm 2005 tác giả đã viết thật rõ ràng là đơn vị của ông khai hỏa tập trung pháo 122 pháo 130, pháo 155 mà ông gọi là trận địa pháo cường tập trên quốc lộ số 1 vào đám ngụy quân trên đường bỏ chạy.

Ông đại tá pháo binh tác giả của tác phẩm “Mùa hè cháy” đã đích thân quan sát trong vai trò tiền sát viên để trực tiếp chỉ huy bắn.

Bài báo ngắn ngủi và khiêm nhường hôm nay hy vọng sẽ đến tay các pháo thủ miền Bắc ngày xưa để họ nhớ lại thành quả vào ngày 1 tháng 5 trong chiến dịch Nguyễn Huệ 1972.

Định mệnh nào đã dành cho ông Phan văn Châu còn sống để định cư tại Hoa Kỳ với 11 người con thành đạt, hàng năm vẫn gửi tiền về giúp cho miền quê nghèo khổ xứ Nhan Biều. Bây giờ, những mộ phần tập thể của dân oan chết vì trận mưa pháo Bông Lau năm 72 đã chẳng còn dấu vết. Những đứa bé đói sữa nằm bên xác mẹ rồi cũng đã chết hết trên đại lộ kinh hoàng 37 năm về trước.

Nhưng mà sao tiếng khóc của em vẫn còn nghe văng vẳng đâu đây…

Giao Chỉ, San Jose

Nguồn:vietbao.com/p112a255132/nam-72-o-quang-tri

Nguyễn Tất Nhiên: ‘Thà như giọt mưa’



Nguyễn Tất Nhiên: ‘Thà như giọt mưa’
Cát Linh, phóng viên RFA
2016-07-31

1971, tạp chí Sáng Tạo của nhà văn Mai Thảo bắt đầu xuất hiện những vần thơ của một người tự cho mình là “kẻ hoang đàng”, “tên vô đạo” bất tính đồ trong tình yêu, Nguyễn Tất Nhiên. Ngay sau đó, lời thơ với ý tưởng và những hình ảnh kỳ lạ, hư hư thật thật, những thú nhận ngông cuồng nhưng cũng rất nồng nhiệt, đã đi vào nhạc của Phạm Duy, Nguyễn Đức Quang, Anh Bằng, trở thành một hiện tượng trong làng thơ và nhạc Việt Nam thời kỳ bấy giờ.
Chúng ta cùng đến với những câu chuyện kể về cuộc đời Nguyễn Tất Nhiên từ những người bạn gần gũi trong cuộc đời ông, những bài tình ca được phổ từ thơ của ông đã đi vào trái tim người nghe qua nhiều thập kỷ.
“Tay ta từng ngón tay
Vuốt lưng em tóc dài
Những trưa ngồi quán vắng
Chia nhau tình phôi thai
Xa nhau mà không hay
Hỡi em cười vô tội
Ðeo thánh giá huy hoàng
Hỡi ta nhiều sám hối
Tính nết vẫn hoang đàng!” (trích bài thơ Em hiền như Ma soeur)
Nguyễn Tất Nhiên rất trong sáng. Chưa bao giờ thấy Nguyễn Tất Nhiên có 1 điều gì tính toán trong cuộc đời này hết.
- Nhà báo Đinh Quang Anh Thái
Những năm 70, Sài Gòn xuất hiện và truyền cho nhau những vần thơ tình của một người ký tên Nguyễn Tất Nhiên. Ngay sau đó thì những vần thơ ấy được thổi vào thêm những giai điệu slowrock nhẹ nhàng, trở thành những bản tình ca nổi tiếng.
“Những bài đó được viết vào khoảng thập niên 1971, 1972. Sài Gòn lúc đó ai cũng biết những bài thơ đó. Có lẽ nhờ Phạm Duy phổ nhạc nên những bài thơ đó được phổ biến một cách rộng rãi hơn.”
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái, nhớ về người bạn mà ông gọi rằng “bạn từ thưở hàn vi ở Sài Gòn trước 1975”.
Có thể nói cho đến bây giờ, hiếm có ai dành cho người yêu của mình những tên gọi đẹp, thánh thiện như Nguyễn Tất Nhiên đã từng. Đặc biệt cái đẹp và sự thánh thiện ấy càng được tôn vinh hơn gấp vạn lần hình ảnh ông dùng khi ông so sánh với chính mình là một “người bệnh hoạn”, một “kẻ nhiều sám hối”, một “tên vô đạo”.
Nguyễn Tất Nhiên là ai?
Nếu nói theo ngôn ngữ thi ca, thì Nguyễn Tất Nhiên sinh ra là để làm thơ. Mà phàm là nhà thơ thì cuộc sống không như cuộc sống của những người bình thường, huống chi, đó lại là Nguyễn Tất Nhiên, một người đến với cuộc đời này là một nhà thơ và đi ra khỏi cuộc đời này cũng là một nhà thơ.
“Nguyễn Tất Nhiên rất trong sáng. Chưa bao giờ thấy Nguyễn Tất Nhiên có 1 điều gì tính toán trong cuộc đời này hết. Chơi với bạn bè 1 cách chân tình.”
Vì sự hồn nhiên đó mà âm thanh và màu sắc trong thơ của Nguyễn Tất Nhiên cũng rất trong sáng. Ông thà là một giọt mưa để được rơi chạm vào mặt người thương, cho dù ông biết giọt mưa ấy rồi sẽ vỡ loang.
“Thà như giọt mưa vỡ trên tượng đá
Thà như giọt mưa khô trên tượng đá
Thà như mưa gió đến ôm tượng đá
Có còn hơn không, có còn hơn không
Có còn hơn không, có còn hơn không…” (Thà như giọt mưa)
Cũng vì sự hồn nhiên đó mà chúng ta sẽ thấy một lần ông đã từng “chia nhau tình phôi thai” với “em hiền như ma soeur” thì một linh mục trong tâm hồn ông cũng sẵn sàng biến người tình thành ác quỷ khi người tình bỏ ông đi.
Bìa trước và bìa sau tập thơ Thiên tai của Nguyễn Tất Nhiên. Courtesy of ngo-quyen.org
“Mất vì tin tín đồ là người tình
Có ngờ đâu người tình là ác quỷ
Ác quỷ đầy quyền năng
Giam tôi trong tín đồ
Tín đồ là người tình
Người tình bỏ tôi đi
Thiêu hủy lòng tin si
Người tình bỏ tôi đi
Thiêu hủy lời kinh xưa
Người tình bỏ tôi đi
Giáo đường buồn lê thê
Lời chia xa...” (Vì tôi là linh mục)
Những hình ảnh trong thơ Nguyễn Tất Nhiên giản dị, đôi khi giản dị đến cay nghiệt, không màu mè. Những vần thơ thể hiện một tâm hồn với suy nghĩ không có gì quan trọng trong cuộc sống này, một người sống rất tự nhiên như cây cỏ.
Thánh thiện cũng là Nguyễn Tất Nhiên. Cay nghiệt cũng là Nguyễn Tất Nhiên. Hồn nhiên cũng là Nguyễn Tất Nhiên. Và thất chí cũng là Nguyễn Tất Nhiên.
Kẻ sĩ hồn nhiên
“Anh biết tất cả mọi chuyện, anh cũng biết anh thất chí, anh biết hết. Anh biết, anh chấp nhận và anh chịu đựng. Thành ra trong sự chấp nhận ấy dĩ nhiên có cái cay đắng và cái bất ưng.”
Nữ ca sĩ Lê Uyên, một trong những người trong giới văn nghệ sĩ đã ở bên cạnh, giúp đỡ Nguyễn Tất Nhiên vào năm 1991, lúc ông khó khăn nhất, một năm trước khi Nguyễn Tất Nhiên xếp bút giã từ thơ nghiệp, nhớ về một tài năng mà bà quí mến:
“Cách sống của Nguyễn Tất Nhiên tôi thấy khá giống Bùi Giáng, tinh thần không bao giờ thực tế, lúc nào cũng ở trên mây, mà ý nghĩ trong đầu thì lúc nào cũng đẹp. Có lẽ là đời sống thực không được đẹp như thế nên đã sáng tác những điều đó để phản ánh phần nào ước mơ của mình.”
Cái đẹp trong suy nghĩ của Nguyễn Tất Nhiên là những niềm vui của giây phút thực tại, không toan tính không cần biết trước ngày mai sẽ ra sao.
“Khi ông cụ thân sinh ra Nguyễn Tất Nhiên may cho anh một cái quần mới, vì hình ảnh của Nguyễn Tất Nhiên là một cái quần ống cao ống thấp. Anh để cái quần đó trên cái baga xe đạp cột lại đi xe lửa từ Biên Hòa lên Sài Gòn kiếm bạn bè, và bảo thôi đi bán cái quần này rồi đi kiếm món nào ăn cho vui.”
Cái thất chí, bất ưng trong cuộc sống của Nguyễn Tất Nhiên được ông che lấp bằng chính sự hồn nhiên của mình. Có thể hiểu đó là sự hồn nhiên của một tâm hồn luôn trong trạng thái đi mưu cầu cái đẹp và sự hoàn hảo trong cõi đời của chính họ.
Tiếc thay, Nguyễn Tất Nhiên không tìm thấy những gì ông mong muốn. Những lúc cuối đời, ông muốn tất cả mọi nỗi khổ đau của mình biến mất, nhưng không thể, để rồi phải có những vần thơ:
Tôi hô biến cái tôi buồn
Tôi hô biến nỗi thuồng luồng đời tôi
Tôi hô biến vợ
Tôi hô biến con
Tôi hô biến nỗi đói
Tôi hô biến nỗi buồn
Và câu cuối cùng là
Tôi hô cái nào, biến cái nào thì nó hiện lên cái đó.
Phạm Duy từng viết trong tuỳ bút của ông rằng:
Cách sống của Nguyễn Tất Nhiên tôi thấy khá giống Bùi Giáng, tinh thần không bao giờ thực tế, lúc nào cũng ở trên mây, mà ý nghĩ trong đầu thì lúc nào cũng đẹp.
- Nữ ca sĩ Lê Uyên
“Đi qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi, đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam, có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý, Bùi Giáng, và Nguyễn Tất Nhiên… Cả  ba vị đều đã  từng là thượng khách của Dưỡng trí Viện Biên Hòa, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó.”
Nguyễn Tất Nhiên có điên không? Có điên không mà một người sống giữa bè bạn đó, giữa lòng xã hội đó, nhưng đầu óc luôn bị ám ảnh bởi thơ ca và những tiếng gọi từ muôn trùng kiếp nào khác.
“Người từ trăm năm
Về qua sông rộng
Ta ngoắc mòn tay
Trùng trùng gió lộng…” (Thà như giọt mưa)
“Tôi đã gặp Nguyễn Tất Nhiên nhiều vào những ngày cuối đời của ảnh, thì có những lúc hai tên ngồi với nhau, Nguyết Tất Nhiên bảo tôi đuổi bà bán hàng đi chỗ khác đi vì bà cứ rao hàng hoài khó chịu quá. Nhưng lúc đó chúng tôi ngồi ở 1 căn nhà rất yên tĩnh. Tôi biết lúc đó trong đầu Nguyễn Tất Nhiên đã có những âm thanh hình ảnh cho thấy là tâm trí ảnh không bình thường.”
Cái chết đã hiện diện trong tâm tưởng của Nguyễn Tất Nhiên từ những năm tháng tuổi trẻ, khi ông 16, 17 tuổi. Để cuối cùng chính những câu thơ của Nguyễn Tất Nhiên đã vận vào cuộc đời ông:
“Ta phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải đau theo từng hớp rượu tàn
Phải khép mắt sớm hơn giờ thiên định…”
“Tôi nhớ Nguyễn Tất Nhiên đã nói nhiều lần ý định muốn tự tử. Bạn bè thân thì cứ nghĩ Nguyễn Tất Nhiên nói đùa. Một tuần lễ trước khi Nguyễn Tất Nhiên chọn con đường ra đi từ một ngôi chùa ở Quận Cam California thì tôi có ngồi với Nguyễn Tất Nhiên trước cửa toà báo Người Việt. Tôi nhớ đó là bữa cơm đón nhà báo Ngô Nhân Dụng, tôi có nói Nguyễn Tất Nhiên thôi đi vô kiếm cái gì ăn đi. Anh nói rằng 1 thằng sắp chết thì không có ăn. Tôi nghe câu đó hoài nên cứ nghĩ đó là câu nói đùa. Tôi nói thôi không ăn thì hút với nhau điếu thuốc lá. Anh nói 1 thằng sắp chết thì không hút thuốc lá. Như thế, một tuần lễ sau thì được tin anh tự tử chết.”
Nguyễn Tất Nhiên đã chọn một nơi chốn khác để tiếp tục thả rong sự hồn nhiên của mình. Có thể nơi đó ông không cần phải hô biến đi cái buồn đã từng ngự trị trong ông, không phải nghe những tiếng ồn ào vọng về từ một tâm thức nào đó. Nơi ấy, ông sẽ được hồn nhiên làm tên vô đạo, hay hoá thành giọt mưa rơi phủ trên cây thánh giá huy hoàng.