Sunday, September 25, 2016

Trung Quốc bỏ của chạy lấy người khỏi Venezuela



Trung Quốc bỏ của chạy lấy người khỏi Venezuela
Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2016-09-14


Tình hình kinh tế bế tắc và xã hội bất trắc tại xứ Venezuela khiến lãnh đạo Bắc Kinh lúng túng không ít. Họ vừa lo mất tiền cho vay lên tới 60 tỷ đô la, lại sợ kiều dân của họ bị sát hại trong một xứ mà tỷ lệ tội ác và lạm phát đang dẫn đầu thế giới. Diễn đàn Kinh tế tìm hiểu về cuộc phiêu lưu thất bại của Trung Quốc tại một quốc gia thuộc loại giàu nhất lục địa Nam Mỹ nay sắp vỡ nợ vì chủ trương xã hội chủ nghĩa với màu sắc cộng sản….
Vì đâu nên nỗi?
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, nền Cộng hòa Bolivar Venezuela đang bị khủng hoảng muôn mặt mà chưa thấy lối ra sau 16 năm theo đuổi con đường xã hội chủ nghĩa do cố Tổng thống Hugo Chávez đề xướng từ năm 1999. Là quốc gia giàu tài nguyên nhất lục địa Nam Mỹ, ngày nay Venezuela lại dẫn đầu thế giới về suy thoái kinh tế với đà tăng trưởng có thể sụt 10%, về mức lạm phát lên tới 100%, về nạn khan hiếm lương thực khiến người ta cướp thức ăn trong trường học, và nhất là về tỷ lệ tội ác tính theo đầu người. Trong khung cảnh đó, thế giới mới nói tới sự lúng túng của lãnh đạo Bắc Kinh vì họ đã đầu tư nhiều nhất vào xứ này, nay kiều dân của họ có thể bị sát hại nên đã lánh nạn qua hai nước lân bang là Colombia và Panama. Thưa ông , thính giả của chúng ta có thể tò mò tự hỏi là “vì đâu mà nên nỗi như vậy?”
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ rằng câu trả lời sẽ gồm có hai phần. Thứ nhất, vì đâu mà một quốc gia giàu có lại đến nỗi phá sản và tan hoang như vậy? Thứ hai, vì sao Trung Quốc trút tiền và người vào xứ này và nay chưa biết làm sao thu hồi lại vốn và bảo vệ mạng sống cho kiều dân của họ?
Về phần nhất, trên diễn đàn này từ hơn ba năm trước, khi ông Hugo Chávez tạ thế, chúng ta cũng đã đề cập và tiên báo các vấn đề ngày nay của Venezuela. Tôi xin được cập nhật lại các chi tiết mới. Số là sau khi giành được nền độc lập từ Đế quốc Tây Ban Nha vào đầu thế kỷ 19 nhờ ông Simon Bolivar, thì Venezuela có hai đặc sản là nạn độc tài và tài vỡ nợ. Trong phạm vi của chương trình kinh tế, ta hãy nói đến nạn vỡ nợ. Tính bình quân thì từ năm 1825 đến 1900, cứ 12 năm rưỡi lại vỡ nợ một lần. Trong ba chục năm gần đây thì bốn lần vỡ nợ, bình quân là bảy năm một lần, mới nhất là vào năm 2004 và nay sắp là lần thứ năm với 100 tỷ đô la trái phiếu sẽ đáo hạn.
Nguyên Lam: Nhưng thưa ông, vì sao trước đây người ta vẫn tin rằng xứ này giàu tài nguyên và thuộc loại trù phú của lục địa Nam Mỹ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Câu trả lời ngắn gọn là sự hồ hởi sảng vì tài nguyên quan trọng là bộ não trên đầu, không là quặng mỏ dưới đất! Tìm hiểu kỹ thì ta thấy nạn lạc quan tếu vì tài nguyên phong phú khiến giới đầu tư vay tiền và thổi bong bóng chả khác gì hiện tượng bể bọt trên sóng tại vùng biển Nam Mỹ nổi tiếng của Đế quốc Anh vào thế kỷ 18, gọi là "South Sea Bubble". Qua thế kỷ 20, người ta lại hồ hởi nữa khi tìm ra dầu mỏ tại Venezuela từ năm 1922. Xứ này có trữ lượng khoảng 300 tỷ thùng dầu thô, hàng thứ nhì thế giới, và thành cột trụ của Tổ chức các nước xuất khẩu dầu lửa OPEC mà cũng bị hoạn nạn chính là vì nguồn tài nguyên đó.
Hơn 30 năm trước, Venezuela đã có dân chủ và tương đối thịnh vượng nhờ kho dầu. Nhưng bất ổn kinh tế vì dầu thô sụt giá và nạn tham ô đã gây bất mãn. Sau khi đảo chánh không thành, Hugo Chavez bèn bơi trên làn sóng phẫn nộ của quần chúng mà tham gia bầu cử và thắng lớn. Ông lập ra một chế độ quyến rũ là "độc tài mị dân". Mị dân nghèo để tập trung quyền lực vào phe đảng của mình, trên cùng là bản thân, tới khi gần chết mới buông. Có tài hùng biện và khẩu hiệu cách mạng của anh hùng Bolívar, tinh thần độc lập chống Hoa Kỳ và chủ trương xây dựng xã hội chủ nghĩa cho dân nghèo, v.v... Chavez đã thắng và cầm quyền trong 14 năm nhờ đảng Xã hội Chủ nghĩa Thống nhất Venezuela và lực lượng dân quân có 125 ngàn tay súng, nằm ngoài quân đội mà trong hệ thống quyền lực của mình. Ông Chavez cũng lập ra mạng lưới liên hội cộng đồng có cái vỏ của "dân chủ từ cơ sở" mà thực chất là thu vén quyền hành và quyền lợi của các địa phương vào tay những kẻ thân tín của lãnh tụ.
Nguyên Lam: Còn về chính sách kinh tế thì người sáng lập ra chế độ xã hội chủ nghĩa này đã làm những gì, thưa ông?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vì ỷ vào dầu khí là nguồn thu chính, chế độ Chávez quốc hữu hóa khu vực năng lượng mà không phát triển các khu vực sản xuất khác cho nên kinh tế bị mất cân đối, phải nhập khẩu lương thực, bị lạm phát mà công nghiệp dầu khí lại tụt hậu và mắc nợ vì nạn bao cấp nên mới càng lệ thuộc vào Trung Quốc. Nói chung, Venezuela nay đã cạn tiền và thành phần nghèo khổ bắt đầu thất vọng nhưng chế độ dân chủ nửa vời của Hugo Chavez đã tiêu diệt mọi lực lượng và giải pháp khác nên giờ này các đảng phái đối lập mới chật vật đối phó.
Vì sao Trung Quốc sa lầy?
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin bước qua phần hai là vì đâu mà Trung Quốc lại lâm vào tình trạng khó khăn ngày nay tại Venezuela? Thưa ông, chẳng lẽ Bắc Kinh không học được bài học về nạn bể bọt đầu tư đã từng xảy ra tại Venezuela và nhiều xứ Nam Mỹ khác hay sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thật ra họ đã tiếp thu kinh nghiệm quốc tế và có bản lĩnh chứ không mơ hồ. Chuyện này có đầy khúc mắc nên tôi xin từng bước giải thích.
Về đại thể, Trung Quốc là xứ đói ăn khát dầu nên cần bảo đảm nguồn cung cấp nguyên nhiên vật liệu và lương thực về lâu dài, nếu không thì bị loạn. Ưu tiên thứ hai là khi tiến hành việc đó, lãnh đạo Bắc Kinh quan tâm đến yêu cầu phát triển thế lực ngoại giao với các nước, bất kể bản chất của chế độ sở tại. Sở dĩ họ thi hành được là nhờ hệ thống tư bản nhà nước với sức huy động và phối hợp phương tiện mà các nền kinh tế tự do khó cạnh tranh nổi. Từ đó, Bắc Kinh bành trướng ảnh hưởng đến Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ qua hai mũi công là Ngân hàng Phát triển Quốc gia, được gọi tắt theo Anh ngữ là CDB, và các tập đòan nghiệp nhà nước. Ngắn gọn thì ngân hàng CDB cho các nước có tài nguyên vay tiền để thực hiện  dự án do doanh nghiệp nhà nước Trung Quốc tiến hành hầu bảo đảm nguồn tiếp vận tài nguyên và qua đó củng cố thế lực ngoại giao của Bắc Kinh với các nước đang phát triển, kể cả các nước độc tài, và nhất là các nước độc tài.
Bắc Kinh đã xây dựng quan hệ với chế độ Chávez tại Caracas từ lâu nhưng bàn trướng mạnh là từ sau năm 2008. Một phần ba các khoản tín dụng của ngân hàng CDB ra hải ngoại là trút vào Venezuela, nay lên tới hơn 60 tỷ đô la. Song song, doanh nghiệp nhà nước Bắc Kinh cũng được ngân hàng này cho vay để thực hiện các dự án gọi là "thuộc diện chính sách", trong đó nhiều dự án được hoàn thành tại xứ Venezuela. Nhờ tín dụng của ngân hàng CDB, tập đoàn quốc doanh Venezuela còn đầu tư ngược vào Trung Quốc làm người dân càng tin vào uy thế của Chávez trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa gọi là Chavismo của ông ta.
Năm 2007, sau khi quốc hữu hóa khu vực năng lượng và đuổi doanh nghiệp Âu Mỹ ra ngoài, ông Chavez tuyên bố rằng tài nguyên của Venezuela là tài sản của toàn dân. Thật ra tài nguyên ấy vẫn do nhà nước Trung Quốc thống nhất quản lý nhờ vai trò của ngân hàng CDB và doanh nghiệp Bắc Kinh. Đây là điều mỉa mai mà truyền thông Venezuela hay quốc tế khó phanh phui vì ngần ấy nghiệp vụ là bí mật về an ninh của Trung Quốc! Tới khi Venezuela lâm khủng hoảng thì Bắc Kinh sợ mất cả chì lẫn chài nên đang cố mồi chài giải pháp khác!
Nguyên Lam: Có lẽ vì vậy mà quốc tế mới loan tin Bắc Kinh đã tiếp xúc với các nhân vật đối lập và doanh gia Venezuela để chuẩn bị giải pháp thay thế chế độ hiện hành của Tổng thống Nicolás Maduro và nhất quyết không cho chế độ này vay thêm một đồng nào nữa. Thưa ông, liệu Bắc Kinh có hy vọng thành công hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Ta không quên là sinh thời, Hugo Chávez rất phục Mao Trạch Đông và sau khi ông mất ngày năm Tháng Ba năm 2013, chính quyền kế nhiệm của Phó Tổng thống Nicolás Maduro quyết định cho ướp xác Hugo Chavez để toàn dân chiêm bái ông ta. Đâm ra ngày nay có năm lãnh tụ độc tài là những xác chết chưa chôn, là Lenin bên Nga, Mao bên Tầu, hai cha con Kim Nhật Thành và Kim Chính Nhật tại Bắc Hàn và ông Hồ tại Việt Nam. Tôi còn nhớ khi ấy tuần báo The Economist tại Anh có một chữ rất ác, là “Dân Mỹ Châu La Tinh đi vào mùa tử dâm” dịch từ "necrophiliac streak". Tôi xin lỗi quý thính giả, khoa thần kinh tâm lý học nói đến một bệnh lạ là "necrophilia", ham muốn tình dục với xác chết. Có thể dịch là "ái tử thi", "lạc thi bệnh" hoặc đơn giản mà cũng hiểu được là "thi dâm" hay "tử dâm".
Nghĩ vậy thì lời phê của tờ báo là quá nặng, mà chưa đủ vì ngày nay thế giới bên ngoài còn nhiều người mắc bệnh sùng bái Chavez khi ca tụng di sản của ông ta là chế độ cho dân nghèo. Chỉ vì thiếu am hiểu kinh tế nhập môn họ không hiểu dân nghèo mới là nạn nhân và hậu qủa là đầu tháng này, ông Maduro bị cư dân trong khu vực được coi như thành lũy của chủ nghĩa Chavismo rượt đuổi. Cho nên chưa chắc là họ đã ưa thích gì chủ nợ của Venezuela là chính quyền Bắc Kinh. Vì vậy mà Hoa kiều tại Venezuela mới bị bắt cóc và sát hại hàng loạt.
Nguyên Lam: Thưa ông, nếu có thay đổi chính trị tại Venezuela thì liệu Bắc Kinh có thu lại được các món nợ của mình không? Tính ra thì 60 tỷ đô la cũng là nhiều lắm!
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin giải thích thêm vài chi tiết chuyên môn để ta hiểu ra tương lai.
Thứ nhất, khi cho vay, Bắc Kinh vẫn có thể nắm dao đằng chuôi. Trong quan hệ với các nước giàu tài nguyên, họ nhấn mạnh đến khẩu hiệu họ gọi là "song doanh" theo lối nói "win-win" của giới kinh tế, tức là đôi bên cùng có lợi. Thật ra, Bắc Kinh lời gấp đôi vì vừa nắm nguồn cung cấp vừa tìm ra nhiều hợp đồng cho doanh nghiệp của mình. Venezuela đi vay mà trả bằng dầu, mỗi ngày trả 430 ngàn thùng thì mới đủ. Nguồn dầu ấy lại do các tập đoàn dầu khí Trung Quốc như Sinopec hay CNPC khai thác để xuất khẩu ra ngoài. Chi tiết ly kỳ là sự sai biệt giữa lượng dầu chở từ Venezuela để trả nợ so với số dầu nhập khẩu vào Trung Quốc, vốn là những số liệu được đôi bên giữ kín. Các chuyên gia quốc tế tìm mãi mới hiểu khúc mắc bên trong.
Do đặc tính địa chất, dầu Venezuela thuộc loại "nặng" và "chua" chứ không "nhẹ" và "ngọt" như dầu của Á Rập Saudi, nên khó lọc thành xăng vì cần loại kỹ thuật Trung Quốc chưa có. Thứ hai, dù mua với giá rẻ thì việc chuyển vận từ Venezuela về Trung Quốc cũng tốn kém. Vì vậy, doanh nghiệp Trung Quốc lặng lẽ đem dầu Venezuela bán cho các xưởng lọc dầu Châu Mỹ để kiếm lời ở giữa. Điều ấy mới giải thích vì sao thống kê Hải quan về số dầu nhập vào Trung Quốc lại thấp hơn số dầu xuất khẩu từ Venezuela. Tức là nhờ Chávez, Trung Quốc trở thành tay buôn dầu đáng kể trên các thị trường Bắc Mỹ khi giá dầu còn cao! Nay họ than là đã cho Venezuela vay 60 tỷ đô la thì ta nên tính lại. Và chế độ Venezuela sau này sẽ đòi tính lại.
Nguyên Lam: Tức là ông cho rằng Bắc Kinh cũng có thể bị rủi ro mất nợ tại Venezuela?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Venezuela có truyền thống bốc đồng vì dầu và nhờ dầu mà xây dựng hệ thống chia chác quyền lợi nên mới gặp bất ổn chính trị. Đấy là một rủi ro cho Trung Quốc ở bên ngoài. Trường hợp ấy từng xảy ra tại các nước được Bắc Kinh viện trợ mà bị động loạn và nội chiến nên càng dễ xảy ra tại Venezuela. Vả lại, dân bản xứ không tin vào thiện chí của Bắc Kinh và lề lối giao tế trịch thượng của các doanh nghiệp Trung Quốc. Nếu Venezuela thay đổi thì sẽ có ngày dân chúng xứ này nêu vấn đề về các "món nợ đáng tởm", là điều mà dân Việt Nam chúng ta nên biết. Số là trên thế giới có nhiều trường hợp mà quần chúng, phe đối lập hay chế độ mới đòi điều tra và hủy bỏ các món nợ do chế độ cũ cam kết với xứ khác. Người ta gọi đó là "món nợ đáng tởm" hay "odious debts" vì chế độ cũ nhân danh quốc gia đi vay nước khác để trục lợi riêng cho tay chân hay thân tộc rồi lại bắt người dân phải trả. Chúng ta còn theo dõi chuyện ấy trong nhiều năm tới.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.

Văn hóa khinh bỉ là gì?



Văn hóa khinh bỉ là gì?
Mặc Lâm, Biên tập viên RFA
2016-09-17

“Phải xây dựng văn hóa khinh bỉ” là câu nói đang nhận được rất nhiều cười cợt từ người dân trên trang mạng xã hội lẫn bên ngoài đời sống. Câu nói có khả năng trở thành một slogan chế nhạo cho cả người phát ngôn ra nó lẫn nội dung mà nó chuyển tải đến người nghe.
Câu phát biểu này từ ông Đinh Thế Huynh hiện là một Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, nguyên Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam.
Vai vế và vị trí trong Đảng của ông Huynh chính là nguyên nhân làm cho người dân bức xúc bởi sự khinh bỉ mà phải xây dựng cho thành một “văn hóa” thì xem ra mọi giá trị đạo đức đã bị đảo lộn. Tham nhũng là một thói xấu nếu nhỏ, lớn hơn một chút là vi phạm pháp luật, lớn hơn nữa là phản dân hại nước, chẳng những bị khinh bỉ mà kẻ tham nhũng không thoát được sự phán xét của lịch sử trong hàng chục năm về sau.
Khởi đầu câu chuyện này dính dấp tới chủ trương chống tham nhũng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đặc biệt là vụ Trịnh Xuân Thanh một đảng viên trung cấp đang làm cho Đảng bối rối vì không xử lý được một con sâu trong nội bộ đảng.
Qua phát biểu tuy mang tính chất chính trị nhưng lại dẫm lên hai chữ văn hóa vốn đang được khai thác một cách vô tội vạ, tràn lan trên báo chí lẫn phát ngôn của chính phủ. Người ta nói văn hóa lưu thông, văn hóa từ chức, văn hóa xếp hàng rồi bây giờ tới văn hóa khinh bỉ. Những cái được khoác áo văn hóa ấy có thật là văn hóa hay không khi người ta muốn nó phải như thế này phải như thế khác?
Bản thân anh tham nhũng thì bị khinh bỉ là đúng rồi nhưng có gì mới? Bây giờ khinh bỉ là khinh bỉ cái cơ chế nào cái nguồn gốc nào nó đẻ ra tham nhũng.
- Giáo sư Tương Lai
Chúng tôi có cuộc trao đổi ngắn với Giáo sư Tương Lai, ông nguyên là Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam kiêm nhiệm Tông biên tập Tạp chí Xã hội học. Ông cũng là thành viên nhóm tư vấn các thủ tướng Việt Nam là Võ Văn Kiệt và Phan Văn Khải.
Là một đảng viên, một nhà văn hóa xã hội cái nhìn của ông về phát biểu của ông Đinh Thế Huynh trước tiên như sau:
Giáo sư Tương Lai: Kể ra “văn hóa khinh bỉ” cũng hay đấy nhỉ? Nhưng mà đâu có mới! Cần gì phải chủ nghĩa Mác Lê nin, cần gì phải định hướng xã hội chủ nghĩa thì mới khinh bỉ tham nhũng?
Từ thời xa xưa cha ông chúng ta vấn đề tham nhũng là một cái bệnh của con người vì vậy trong cái quan chế của những triều đại phong kiến thì nó đã có chính sách “dưỡng liêm” và kèm theo đó là những quy định rất ngặt nghèo để muốn tham nhũng cũng không tham nhũng được. Đã làm quan thì “nén bạc đâm toạc tờ giấy” từ ngàn xưa đã có rất lâu rồi và trong văn hóa Việt Nam nói chung thì cái chuyện tham nhũng thì người ta đã khinh bỉ từ lâu. Những câu chuyện tiếu lâm ông quan tuổi tí hay tuổi sửu đã trở thành phổ biến, từ trong xa xưa nó đã trở thành vấn đề không phải chỉ là đạo lý mà nó đã trở thành ứng xử văn hóa chứ đâu có cái gì mới?
Vậy bây giờ muốn tạo nên một văn hóa khinh bỉ đối với tham nhũng thì tốt quá, rất tốt. Nhưng cái văn hóa khinh bỉ tham nhũng thì phải nói như thế này: Không ai khác chính hồi gần đây trong bài viết của ông nguyên Chủ tịch nước thừa nhận sau 5 cái đại hội, từ đại hội thứ 7 cho đến đại hội 11 thì tham nhũng càng ngày càng trầm trọng hơn. Ông ấy viết như thế này “Qua các kỳ đại hội tiếp theo tình trạng không những không suy giảm, chẳng những ít tìm ra được ai trong bộ phận không nhỏ mà tham nhũng suy thoái còn diễn ra dưới nhiều hình thức tinh vi hơn trắng trợn hơn, như vậy là gì? Bản thân tham nhũng này bị sáu kỳ đại hội tính từ đại hội 12 nữa nhưng ông đã trừ ra. Tình từ đại hội 12 này thì vấn đề tham nhũng nó còn tồi tệ hơn nữa.
Bây giờ kêu gọi văn hóa khinh bỉ thì khinh bỉ cái gì chứ? Bản thân anh tham nhũng thì bị khinh bỉ là đúng rồi nhưng có gì mới? Bây giờ khinh bỉ là khinh bỉ cái cơ chế nào cái nguồn gốc nào nó đẻ ra tham nhũng.
Một thể chế phản dân chủ toàn trị vừa đá bóng vừa thổi còi, ngồi xổm trên luật pháp, cai trị đất nước chỉ bằng một nhóm người, không thượng tôn pháp luật mà chỉ có nghị quyết. Chính vì không có pháp quyền cho nên mới có tham nhũng và không trị được tham nhũng. Tham nhũng càng trị thì nó càng phát triển. Khinh bỉ là phải khinh bỉ cái cội nguồn đẻ ra tham nhũng chứ không phải khinh bỉ hiện tượng tham nhũng. Khinh bỉ hiện tượng tham nhũng thì người ta nói từ lâu rồi chứ có phải mới bây giờ đâu?
Có quyền mới tham nhũng?
Mặc Lâm: Theo nhận xét của chúng tôi thì có lẽ ông Đinh Thế Huynh phát biểu “Phải xây dựng văn hóa khinh bỉ” nhắm vào hơn bốn triệu đảng viên dưới quyền của ông ấy, vì mọi người đều biết Đảng đang lâm vào tình thế khá nan giải vì không thể đối phó với tham nhũng từ nội thân của Đảng. GS có ghi nhận gì khác hay không?
hoi_lo.jpg
Ảnh minh họa. Youtube screenshot.

Giáo sư Tương Lai: Bây giờ ông Đinh Thế Huynh nói rằng phải dấy lên văn hóa khinh bỉ đối với tham nhũng thì tôi không cho rằng ông chỉ nói riêng cho đảng viên đâu mà chắc là ông dùng chung. Có một sự thật là người có quyền thì mới tham nhũng được. Họ không có quyền thì lấy đâu ra tham nhũng? Quyền đây là quyền gì? Quyền nằm trong bộ máy cai trị, quyền nằm trong cấp ủy, và trong bộ máy nhà nước. Cấp ủy là tôi nói hệ thống đảng, bộ máy nhà nước tức là các chủ tịch Ủy ban nhân dân… từ dưới lên trên.
Vừa qua đài VTV1 hàng ngày họ đưa ra chuyện của một ông trưởng thôn ỉm đi tiền thủy lợi phí của dân, hay là dìm sổ đỏ của dân trong mười mấy năm… nó trắng trợn từ một cái thôn là cấp mạt hạng ở dưới. Nhưng mà thượng bất chính nên hạ mới tắc loạn.
Từ ông thôn ông ấy bảo thằng xã nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng xã bảo thằng huyện nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng huyện bảo thằng tỉnh nó ăn được thì tại sao tao không ăn được? Thằng tỉnh bảo Bộ chính trị nó còn ăn, thằng Tổng bí thư nó còn ăn tại sao tao không ăn… cái đó nó trở thành một nỗi nhục nhã, đó là một sự thật nhưng mà khinh bỉ tham nhũng không thì đấy là đánh chuột nhưng đánh vuốt đuôi và là lời nói mị dân.
Khinh bỉ cơ chế đẻ ra tham nhũng. Khinh bỉ cái sự giả dối lừa bịp. Thực chất của việc chống tham nhũng là gì? Thực chất anh nào cũng tham nhũng, thằng nào cũng tham nhũng thằng ít thằng nhiều. Thằng này tham nhũng chùi mép sạch còn thằng kia chùi mép chưa sạch. Không có thằng nào thanh toán tham nhũng cả. Thực chất bây giờ là cuộc thanh toán chính trị giống hệt như Tập Cận Bình làm với Giang Trạch Dân và cả hệ thống bộ sậu. Ngay bây giờ giữa hai thằng đầu sỏ bên cạnh nhau là thằng Tập Cận Bình và thằng Lý Khắc Cường đâu phải nó bắt tay nhau mà chỉ cần sơ hở là nó thọc tiết nhau lập tức.
Cả một cơ chế như thế thì văn hóa khinh bỉ phải khinh bỉ cội nguồn nào đẻ ra tham nhũng.
Khi nó đã vô liêm sỉ rồi, dây thần kinh xấu hổ đã đứt rồi thì nó màng gì tới chuyện văn hóa khinh bỉ? Đây chẳng qua là một lời nói mị dân.
- Giáo sư Tương Lai
Mặc Lâm: Người dân thì rõ ràng là nạn nhân tuy có ý kiến nói là không đưa thì làm sao có tham nhũng. Thế nhưng nhìn vào những sự việc xảy ra hàng ngày ngay trước mắt mọi người trên đường phố thì hình như đâu đâu cũng thể hiện sự khinh bỉ đến tận cùng ý thức của dân chúng. Chẳng hạn như cảnh sát giao thông thổi phạt thì người dân chỉ biết móc tiền ra là xong mặc dù họ không vi phạm điều gì. Bài học khinh bỉ chắc đâu cần phải học cho thành cái văn hóa mà ông Đinh Thế Huynh phát động phải không thưa Giáo sư?
Giáo sư Tương Lai: Tôi cho đó là câu nói ngu xuẩn, bởi vì sao? Thực ra việc gì mà phải kêu gọi nền văn hóa khinh bỉ. Bản thân người ta đã khinh bỉ lắm rồi. Cái người phải móc tiền ra khi đi trên đường để dúi cho công an thì người ta đã coi cái đối tượng mà mình ném đồng tiền vào mặt hắn hay dúi vào tay hắn với một thái độ cung kính hay sợ sệt chăng nữa nhưng thằng nhận cũng như người ném ra đều biết rằng “khinh nhau như mẻ”.
Trong câu chuyện đó người ta bảo, thôi tọng cho nó ăn, nó nuốt đi để mình được việc mình. Lúc ấy thì đã khinh bỉ rồi việc gì phải kêu gọi là văn hóa khinh bỉ.
Nếu thằng có liêm sỉ thì thằng ấy làm sao thò tay ra lấy đồng tiền tham nhũng được? Khi nó đã vô liêm sỉ rồi, dây thần kinh xấu hổ đã đứt rồi thì nó màng gì tới chuyện văn hóa khinh bỉ? Đây chẳng qua là một lời nói mị dân.
Mặc Lâm: Xin cám ơn GS Tương Lai.
Nói đến văn hóa, các nhà nghiên cứu văn hóa xã hội nghĩ ngay đến một quá trình dài hàng trăm năm để hình thành từ những đóng góp của cả xã hội. Văn hóa không thể kêu gọi hay ép buộc người dân hay bất cứ tổ chức nào. Sinh hoạt cộng đồng trở thành văn hóa sau khi tích lũy kinh nghiệm, thích hợp với đời sống cư dân, thời điểm lịch sử và kể cả khí hậu, môi trường cũng góp phần vào một nền văn hóa. Vì vậy khi kêu gọi xây dựng một thái độ đã có sẵn trong mỗi con người bình thường khó thể gọi đó là văn hóa cho dù tên gọi của nó hoa mỹ đến thế nào chăng nữa.



Những chỉ dấu khủng hoảng trước mắt



Những chỉ dấu khủng hoảng trước mắt
Nguyên Lam & Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2016-09-21

Thế giới đang có quá nhiều chỉ dất bất ổn, trong đó là nguy cơ khủng hoảng tài chính sắp tới tại Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế sẽ cùng chuyên gia Nguyễn-Xuân Nghĩa tìm hiểu xem người ta đã thấy những gì mà có kết luận u ám này…
Kinh tế Trung Quốc và Âu Châu đáng ngại nhất
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do cùng Nguyên Lam xin kính chào kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, trong mấy ngày qua, các thị trường tài chính đều chờ đợi xem Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ quyết định thế nào về lãi suất trong hai ngày họp định kỳ vào Thứ Ba và Thứ Tư của một ủy ban chuyên môn về chính sách tiền tệ và tín dụng. Nhưng trong khi đó, thế giới bên ngoài lại có nhiều dấu hiệu đáng ngại hơn là một vụ tăng lãi suất tại Mỹ. Nguyên Lam xin đề nghị ông trình bày cho bức tranh toàn cảnh về các dấu hiệu đáng ngại này.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nhìn riêng trường hợp Hoa Kỳ, bản thân tôi thì mong là Ngân hàng Trung ương Mỹ sớm ra khỏi tình trạng quá bất thường và bất lợi khi duy trì lãi suất mấp mé ở số không. Nhưng định chế này phải đắn do cân nhắc nhiều khía cạnh khác nhau nên chắc là chưa tăng lãi suất ngắn hạn kỳ này, và người ta còn phải nghe ngóng tình hình và quyết định về lãi suất vào kỳ sau, trong sáu tuần nữa. Nhưng như cô vừa nêu ra, thế giới bên ngoài có nhiều dấu hiệu kinh tế đáng ngại và tôi cho rằng đáng ngại nhất là tình hình kinh tế Trung Quốc và Âu Châu ở hai đầu Đông Tây của cả đại lục Âu-Á. Kỳ này ta sẽ tập trung vào hai nơi đó.
Nguyên Lam: Như vậy, xin nhờ ông mở đầu và nói về những dấu hiệu này.
Thế giới bên ngoài có nhiều dấu hiệu kinh tế đáng ngại và tôi cho rằng đáng ngại nhất là tình hình kinh tế Trung Quốc và Âu Châu ở hai đầu Đông Tây của cả đại lục Âu-Á.
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tại Hoa Kỳ, người ta tưởng niệm vụ khủng bố 9-11 ngày 11 Tháng Chín năm 2001 với hậu quả là 15 năm sau vẫn còn lan rộng ra toàn cầu nhưng đa số lại đã quên vụ khủng hoảng tài chính năm 2008 với sự sụp đổ của tập đoàn đầu tư Leman Brothers vào ngày 15 Tháng Chín. Về kinh tế, ta không nên quên biến cố đó vì hậu quả vẫn kéo dài cho đến nay chưa dứt. Hôm 15 vừa qua, một thống kê u ám từ Âu Châu cho thấy hậu quả đó, qua ngày 18, vụ bầu cử tại thành phố Berlin của Đức càng xác nhận chuyện này. Sau đó thì ta mới nhìn vào Trung Quốc, là nơi sẽ xảy ra một biến cố còn nguy ngập hơn vụ Lehman Bros. tại Mỹ.
Nguyên Lam: Nguyên Lam hiểu là ông nhìn trên toàn cảnh và chấm vào hai nơi có thể có nhiều biến động kinh tế nhất trong thời gian tới. Xin đề nghị ông giải thích cho chuyện đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất, thống kê ngoại thương tại Âu Châu cho thấy xuất khẩu của Đức bị giảm 10% trong Tháng Bảy so với năm ngoái. Với sản lượng kinh tế đứng hạng thứ tư thế giới, Đức là một trụ cột của khối Âu Châu vì có nến kinh tế mạnh nhất, nhưng nhược điểm sinh tử của Đức là quá lệ thuộc vào xuất khẩu, với xuất khẩu chiếm 46% tức là gần 50% của Tổng sản lượng. Nếu hàng hóa dịch vụ bán ra ngoài mà sụt thì sản lượng kinh tế Đức có thể giảm 5% và nạn suy trầm tại Đức sẽ gây khó khăn cho Âu Châu. Thật ra Âu Châu đã bị nguy ngập từ năm 2008 và khối Euro bị khủng hoảng từ năm 2010 tới nay chưa dứt.
Vì vậy, Đức mới tìm cách bán hàng nhiều hơn qua Mỹ và qua Tầu. Khi ấy, và nhìn vào quan hệ tay ba Mỹ, Tầu, Đức, nếu Hoa Kỳ mua của Trung Quốc ít hơn thì xuất khẩu của Đức qua Tầu để bán cho Mỹ cũng sụt. Nếu Hoa Kỳ lại mua của Đức ít hơn thì hậu quả còn tai hại gấp bội. Kinh tế Mỹ lệ thuộc rất ít vào xuất khẩu trong khi khả năng nhập cảng của một thị trường tiêu thụ quá lớn lại là nguồn sống cho các nước xuất khẩu như Đức và Tầu. Mà từ vài năm nay, cơ cấu kinh tế Hoa Kỳ đang chuyển theo hướng tự sản xuất nhiều hơn, nếu Hoa Kỳ mua hàng ngoại ít hơn thì hai nước kia sẽ bị tai họa lớn. Bây giờ ta mới nói qua chính trị và bầu cử.
Nguyên Lam: Nghe chuyên gia kinh tế trình bày quan hệ mua bán giữa các nước thì thính giả của chúng ta mới hiểu vì sao khi kinh tế toàn cầu còn suy yếu sau vụ khủng hoảng tài chính năm 2008, xứ nào càng lệ thuộc vào xuất khẩu thì càng bị rủi ro suy thoái kinh tế, đứng đầu có lẽ là nước Đức và Trung Quốc ở hai đầu của đại lục. Bây giờ ta mới nói tới chuyện chính trị của nước Đức trước khi ngó qua Trung Quốc. Thưa ông, chuyện ấy là gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Người ta thấy là qua các cuộc bầu cử hội đồng hàng tỉnh tại Đức từ mấy tuần qua, gần đây nhất là hôm 18 tại Berlin, đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo theo xu hướng trung hữu của Thủ tướng Angela Merkel bị thua nặng. Bên cạnh đó, đảng Dân Chủ Xã Hội theo xu hướng trung tả cũng mất phiếu. Hai đảng truyền thống này mà gom lại cũng chưa đạt 30%. Trong khi đó, các đảng nhỏ ở ngoài lề, từ cực tả đến cực hữu đều thắng lớn. Năm tới, Đức lại có tổng tuyển cử, và nếu chiều hướng phân rã tiếp tục, với sáu đảng mỗi đảng chỉ có chừng 15% số phiếu thì bất ổn chính trị tại Đức ở trung tâm Âu Châu sẽ là bất ổn lớn cho cả khối. Kinh tế suy trầm và chính trị tanh bành là một rủi ro lớn cho Liên Âu, giữa vụ khủng hoảng về di dân và nạn khủng bố. Đấy là lúc ta quan tâm đến báo cáo mới nhất của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế BIS cũng vừa công bố hôm 18. Đây mới là chuyện đáng lo nhất.
Nạn vay mượn quá nhiều
Nguyên Lam: Dường như ông trình bày bối cảnh chung rồi mới đi vào báo cáo đáng lo ngại này. Thưa ông, Ngân hàng BIS là gì và vừa báo cáo những gì mà ông cho là đáng lo nhất?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thế giới có Ngân hàng Thanh toán Quốc tế gọi tắt là BIS (Bank of International Settlement), là “ngân hàng trung ương của các ngân hàng trung ương”, do các ngân hàng trung ương Âu-Mỹ thành lập từ năm 1930 với chức năng yểm trợ luồng trao đổi tư bản cho thông thoáng và ổn định. Nhưng BIS còn có trách nhiệm quan trọng hơn nữa, là theo dõi tình hình tài chánh toàn cầu để gióng chuông cảnh báo. Các phúc trình kinh tế của họ cho từng quý có giá trị chuyên môn rất cao nên được người ta đặc biệt chú ý.
Báo cáo mới nhất của họ nêu ra một rủi ro tài chánh lớn cho hệ thống ngân hàng trên thế giới. Dựa trên một số tiêu chuẩn chuyên môn khi so sánh lãi suất với hối suất tức là tỷ giá ngoại tệ, Ngân hàng BIS cho rằng các thị trường tài chính đã có sự lệch lạc tiên báo một vụ khủng hoảng và lần này có thể còn nghiêm trọng hơn vụ Lehman Brothers năm 2008.
Khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF dự báo một rủi ro suy trầm toàn cầu, với đà tăng trưởng bình quân chỉ ở khoảng 2-3%, thì một vụ khủng hoảng tài chính sẽ là tai họa đáng sợ cho năm tới. Đáng chú ý hơn vậy là việc Ngân hàng BIS cảnh báo rằng chính Trung Quốc lại có thể bị khủng hoảng tài chính trong vòng ba năm tới đây vì nạn vay mượn quá nhiều.
Nguyên Lam: Bây giờ ta mới đi vào trọng tâm của vấn đề là khủng hoảng tài chính bên Trung Quốc. Thưa ông, Ngân hàng BIS nhận định thế nào về Trung Quốc?
Vụ khủng hoảng do Ngân hàng BIS cảnh báo càng dễ xảy ra nay mai. Và triệu chứng tiên báo sẽ là hàng loạt doanh nghiệp vỡ nợ. Vụ khủng hoảng sắp tới tại Trung Quốc sẽ là một chấn động toàn cầu, còn kinh hãi hơn vụ tập đoàn Lehman Bros. sụp đổ…
-Nguyễn-Xuân Nghĩa
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin vắn tắt thế này: các chuyên gia kinh tế tài chính thường theo dõi tình hình từng nước và so sánh đà tăng trưởng của tín dụng với đà tăng trưởng của sản lượng kinh tế. Họ đề ra một cái ngưỡng đáng quan tâm là khi tín dụng cao gấp 10 sản lượng thì đấy là chỉ dấu tiên báo quốc gia này có thể bị khủng hoảng tài chánh, là trường hợp xảy ra cho Hoa Kỳ năm 2007 khi thị trường gia cư bị bể và dẫn tới vụ khủng hoảng năm 2008. Khi hệ số này lại có chiều hướng tăng tốc thì tình hình dễ thành nguy ngập.
Ngân hàng BIS theo dõi tình hình Trung Quốc từ nhiều năm và thấy đà gia tăng ngày càng mạnh. Từ hệ số 6,7 vào năm 2011 đã vọt lên 22,1 vào năm 2014. Năm ngoái thì hệ số này lên tới 24,5 và vừa qua thì đã là 30,1! Nói cho gọn thì mức rủi ro này đã vượt các nước Đông Á trong vụ khủng hoảng tài chánh bùng nổ ngày hai Tháng Bảy năm 1997 và bỏ xa hệ số 10,6 của Mỹ trước vụ Lehman Bros. Tôi xin nhắc lại là Tháng Sáu vừa qua, Quỹ Tiền tệ Quốc tế định chế IMF đã khuyến cáo Bắc Kinh là phải giải quyết chuyện này càng sớm càng hay, nhưng mãi tới nay, chưa thấy ai nhúc nhích vì họ không thể làm khác được là cứ phải theo lao.
Nguyên Lam: Vì chuyện này hơi chuyên môn nên Nguyên Lam xin đề nghị ông giải thích thêm cho thính giả của chúng ta hiểu vì sao mà sự cách biệt gia tăng giữa tín dụng và sản lượng lại là dấu hiệu của khủng hoảng.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thông thường, người ta đi vay với hy vọng dùng tiền đó tạo thêm tài sản cho tương lai và tài sản ấy phải cao hơn số tiền đi vay gồm cả vốn lẫn lời thì mới có lợi. Đấy là chức năng của tín dụng, đối chiếu với kết quả đo lường ở sản lượng. Nếu nghĩ rằng tài sản trong tương lai còn tăng giá mạnh thì người ta càng có khuynh hướng đi vay nhiều hơn và lấy rủi ro lớn hơn. Khi ấy, người ta có tinh thần đầu cơ, tức là đầu tư để kiếm lời nhiều và nhanh, nhưng cũng gặp nhiều rủi ro hơn nữa. Đây là trường hợp mà người ta gọi là bong bóng đầu cơ. Bước thứ ba còn nguy hơn vậy, là người ta vẫn có thể đi vay rất nhiều mà chưa chắc đã có khả năng thanh toán trong tương lai. Thực chất thì đấy là sự lường gạt, rất dễ xảy ra trong một hệ thống tài chính lỏng lẻo về kiểm soát và lệch lạc về chính sách. Trung Quốc đã bị nạn bong bóng đầu cơ và đang bị thêm nạn lường gạt tín dụng hay vỡ nợ vì chính sách.
Nguyên Lam: Ông vừa trình bày ba cấp tín dụng đo lường ở ba cấp rủi ro và giải thích ở chính sách của Trung Quốc. Tức là ông cho là vụ khủng hoảng tài chính sắp tới tại Trung Quốc lại xuất phát từ chính sách của nhà cầm quyền, thưa ông tại sao như vậy?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Xưa nay, Trung Quốc dùng đầu tư làm đòn bẩy, là sức bật cho sản xuất và sản xuất thừa thì xuất khẩu. Từ vụ khủng hoảng tài chính rồi Tổng suy trầm 2008-2009, số nhập khẩu của các nước có giảm và xuất khẩu của Trung Quốc cũng vậy như chúng ta vừa nói. Nhưng vì chưa thể cải cách cơ chế để lấy tiêu thụ nội địa làm đầu máy tăng trưởng, lãnh đạo Bắc Kinh vẫn thúc đẩy đầu tư, chủ yếu là để tạo ra việc làm hầu tránh nạn thất nghiệp và họ tài trợ đầu tư bằng tín dụng. Vì tín dụng là từ các ngân hàng của nhà nước, và tài trợ cho các cơ sở sản xuất chủ yếu cũng của nhà nước, các khách nợ thuộc loại quốc doanh này bất kể tới rủi ro và thấy nhà nước bơm tiền thì dùng đồng tiền đó vào việc đầu cơ. Đây là lý do khiến cho lượng tín dụng tăng vọt từ mấy năm nay vì các doanh nghiệp đi vay còn nhiều hơn trước. Và mặc dù sản xuất ra hàng không bán được, hoặc trút tiền vào các dự án xây dựng có tính chất đầu cơ, tức là thổi lên bong bóng, người ta vẫn cứ đi vay, trong tinh thần lường gạt chủ nợ là nhà nước. Vì vậy, vụ khủng hoảng do Ngân hàng BIS cảnh báo càng dễ xảy ra nay mai. Và triệu chứng tiên báo sẽ là hàng loạt doanh nghiệp vỡ nợ. Vụ khủng hoảng sắp tới tại Trung Quốc sẽ là một chấn động toàn cầu, còn kinh hãi hơn vụ tập đoàn Lehman Bros. sụp đổ…
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ và Nguyên Lam xin cảm tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.