Tuesday, December 4, 2018

Từ Dung & Từ Công Phụng


Từ Dung & Từ Công Phụng

Từ Dung là con gái út của nhà văn Nguyễn Tường Long Hoàng Đạo, và là em gái cô Lan Phương dạy Gia Long. Trong số "thập tứ nữ anh hào" của CVA 5461, chỉ phần nhỏ chuyển sang Trưng Vương, còn phần lớn sang Gia Long, có thể có người biết tới cô giáo sư mà học trò mê như điếu đổ này! 
Từ Dung sinh năm 1945, tốt nghiệp Cử nhân văn chương năm 1969. Trong thời gian học Đại học Văn Khoa, cô gặp Từ Công Phụng, yêu và cưới anh! Cô cưới anh theo đúng nghĩa là có sính lễ và rước rể về nhà vợ theo đúng truyền thống mẫu hệ của người Chàm. Từ Dung học hát từ Châu Hà, vợ nhạc sĩ Văn Phụng. Hồi đó trong các bảng quảng cáo tên Từ Dung và Từ Công Phụng lúc nào cũng đứng cùng nhau: Từ Dung_Từ Công Phụng, hệt như cặp Lê Uyên_Phương cũng đang nổi, cùng thời! 
Từ Dung và Từ Công Phụng hát với nhau từ sớm những sáng tác của Từ Công Phụng, đã thu một Cuốn băng (Tơ Vàng 3) vào năm 1971. 

"Người trong nghề" nhận xét về Từ Dung thế này: Ca sĩ tài tử Từ Dung là "cố nhân" của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Cô là một giai nhân sắc nước hương trời, một thời là Á Hậu trong một cuộc thi Hoa Hậu ở Sài Gòn vào thập niên 60.
Từ Dung trắng trẻo, mảnh mai, khuôn mặt rạng rỡ và thông minh, dáng dấp cao sang và thanh thoát. Cô thường mặc váy maxi hoa màu sặc sỡ, trên mặc áo sơ mi trắng nên có sức thu hút cực kỳ vũ bão. 
Từ Dung có giọng hát từa tựa như giọng Châu Hà, tuy cô ngân và dàn trải làn hơi không được điêu luyện bằng Châu Hà. Lý do: Từ Dung được Châu Hà truyền nghề và luyện giọng". (Nhạc Vàng). "Năm sau, 1964, cô đậu Tú tài I, xong đậu Tú tài II năm 1965. Lên đại học cô vô học ở Văn Khoa và gặp Từ Công Phụng trong thời gian này. Cô tốt nghiệp Cử Nhân Văn Khoa năm 1969 và thành hôn với nhạc sĩ Từ Công Phụng cùng năm đó. Về sinh hoạt âm nhạc thì Từ Dung bắt đầu lên sân khấu hát cặp với Từ Công Phụng từ năm 1967. Nam Lộc có nghi nhận cô và Từ Công Phụng thường sinh hoạt ở Quán Văn trong khuôn viên Văn Khoa từ 1968, cùng thời với Khánh Ly và Trịnh Công Sơn [4]. Sau khi Quán Văn đóng cửa cả đám kéo về Quán Gió của Nam Lộc trên đường Võ Tánh [4].
Năm 1971 Từ Dung bắt đầu xuất hiện trên TV, và có mặt trong cuộn băng Tơ Vàng 3. Cô song ca với Từ Công Phụng hai bài: Vùng Trời Kỷ Niệm, Mùa Thu Mây Ngàn, và đơn ca ba bài: Đêm Không Cùng, Lời Cuối và Đêm Độc Thoại. (Nguyễn Sĩ Hạnh) Không rõ sau 30.4.1975 thì hai người sống ra sao. Theo lời ông Đinh Quang Anh Thái [6] thì tới năm 1976 Từ Dung và Từ Công Phụng vẫn còn là vợ chồng. Trên một diễn đàn, có người kể lại là sau tháng 4/1975 “Từ Công Phụng có mở 1 quán cafe ở Trần Quang Khải là Cafe Từ Dung, với cái đàn piano trắng. Quán thu hút nhiều khắch mê nhạc thính phòng và khi nào cảm thấy “an toàn” thì được chủ nhân hát và chơi piano” [7]. (Nguyễn Sĩ Hạnh) 
Cái quán cà phê này tôi có qua mấy lần, ngó qua nhưng không vào, thật tiếc! Sau giai đoạn này 2 người chia tay! Năm 1980, Từ Công Phụng vượt biên qua Mỹ cùng gia đình (mới). Sau khi hai người chia tay,Từ Công Phụng tỏ ra chán ghét Từ Dung một cách kì lạ. "Cũng lâu quá còn gì. Chúng tôi chia tay vì một lỗi rất nặng của cô ấy, mà tôi bây giờ không muốn nhắc đến chuyện đó nữa…" Sau khi Từ Công Phụng và Từ Dung chia tay, bài Vùng Trời Kỷ Niệm đã không còn được ai hát gần 40 năm rồi.
Ngay cả những album mà Từ Công Phụng phát hành sau này, ông cũng không hát lại bài hát đã từng hát chung với Từ Dung trong băng Tơ Vàng 3. (DĐ Hạt Nắng/Ann Tran) 
Về phần Từ Dung: "Người mướn phần nửa trước tầng trệt là cô Từ Dung, hay ít ra là theo lời bà chủ nhà và mấy cô con gái. Tôi đoán quãng này là lúc nhạc sĩ Từ Công Phụng đã vượt biên rồi. Tôi không có thì giờ để ý tới những “người hàng xóm” của mình sống ra sao. Ban ngày vật lộn với cơm áo, buôn bán ngoài chợ Tân Định cứ phải canh chừng công an dẹp chợ, tối về phòng trọ ngủ thì phập phồng không dám ngủ say, để lỡ công an xét nhà thì còn nghe tiếng gõ cửa của mấy cô con gái bà chủ nhà báo động mà dọt lên trần nhà cho lẹ. Đại khái chuyện mình mình lo, cứ vậy mà cứ ngày qua ngày. Buổi tối khi đạp xe đạp cọc cạch từ một quán cà phê nào đó về nhà trọ, mở cổng vô tôi thường thấy cô Từ Dung ngồi một mình trước thềm nhà, im lặng trong bóng tối, khỏa thân. Mấy cô con gái của bà chủ nhà nói là cô không được bình thường cho lắm. Khi biết cô là Từ Dung đôi khi tôi cũng muốn hỏi thăm nhưng nghe nói vậy và nhứt là lần nào cô cũng ăn mặc kiểu bà Eva, thành ra tôi chỉ lẳng lặng nhìn thẳng và đi thẳng ra nhà sau.(Nguyễn Sĩ Hạnh: Nhớ Từ Dung và Những đêm độc thoại).
Tôi cũng như ông Hạnh:
"... thấy thương cô Từ Dung. Không biết cô nghĩ gì những khi khỏa thân ngồi một mình im lặng trong bóng đêm trước thềm nhà trọ. Về người cha cô không nhớ mặt… về những tháng ngày đẹp đẽ ở Văn Khoa… về ánh đèn sân khấu muôn màu muôn sắc từ khi cô ra trường cho tới tháng 4/1975… hay là về những truân chuyên và dâu bể sau đó… và cô có hát thầm trong đầu:
Ôi! tiếng hát em đêm nào mọc cánh bay đi lạc vào vùng trời mưa lạnh giá. Ôi! những cánh tay đem buồn ghì lên vùng tuổi vắng rót sầu trên tiếng hát đi hoang …
(Đêm Độc Thoại – Từ Công Phụng)"

Xin mượn lời của ông:
"Có bạn thắc mắc là tôi chắc vô công rỗi nghề nên kiếm chuyện viết về một cô ca sĩ cũ lúc còn phong độ đã không nổi tiếng cho lắm mà gia tài âm nhạc để lại cho hậu thế không có gì, dù rằng là cô là hậu duệ của nhóm Tự Lực Văn Đoàn và có một thời là vợ của nhạc sĩ Từ Công Phụng. Tôi thích nhạc của Từ Công Phụng, thích nhất hai bài Trên Ngọn Tình Sầu và Mắt Lệ Cho Người. Thêm vào đó thì tôi luôn “mê” những cặp nhạc sĩ / ca sĩ – dù có romance hay không gì đi nữa (miễn là đừng giống như hai cha con!) – như Trịnh Công Sơn và Khánh Ly, Lê Uyên và Phương, Từ Dung và Từ Công Phụng… Không có may mắn được coi Từ Dung và Từ Công Phụng hát live nhưng không hiểu tại sao hồi trước khi nhắc đến Từ Dung và Từ Công Phụng thì tôi thường liên tưởng tới hình ảnh ông đàn cho cô hát bài Bây Giờ Tháng Mấy . Có lúc tôi nghĩ là mình chắc đã từng coi hai người hát trên TV, hay là nghe qua băng nhạc. Nay kiểm lại thì chắc là không phải. Có thể chỉ vì bài Bây Giờ Tháng Mấy chăng."
Đây chỉ là chuyện phiếm, nhưng không phải là đem chuyện người ra để cợt đùa! Người Tây phương khi xa nhau rồi ít khi để hận cho nhau, đôi khi còn coi nhau và bạn, và đặc biệt có trường hợp như Liz Taylor làm đám cưới lại với Richard Burton. Từ Dung không xuất hiện trong dư luận, không phân trần, không tuyên bố! Nhưng một khi ông Từ Công Phụng hết lòng ngợi ca bà vợ mới, thì cũng nên tỏ ra đại lượng với người đã sống cùng mình gần mười năm trời. Có khó lắm không? Dầu gì thì cũng có lúc 2 người sẽ gặp lại nhau mà! vì như Từ Công Phụng nói, đời người ta rồi sẽ "như chiếc que diêm" thôi!

Lê Ngọc Phượng
Tháng 7/2012


Chuyện tình hợp tan của Từ Dung và Từ Công Phụng
Trên ngọn tình sầu

Cùng thời với Lê Uyên và Phương, một đôi song ca nổi tiếng khác cũng đã đi vào lòng người yêu nhạc những dấu ấn đặc biệt. Đó là: Từ Dung – Từ Công Phụng.

Từ Công Phụng sinh năm 1942 tại Ninh Thuận. Là một nhạc sĩ sáng tác khá nổi tiếng giai đoạn 1950 – 1975 tại miền Nam. Ông có thể hình to lớn, nhưng dáng dấp lại rất nghệ sĩ, ăn nói nhẹ nhàng, lịch sự, dễ gây thiện cảm với mọi người. Là người dân tộc Chăm, được chính quyền Sài Gòn ưu đãi theo chính sách đối với các dân tộc thiểu số. Vì thế, chưa tốt nghiệp tú tài, Từ Công Phụng đã được ưu tiên vào học trường đại học quốc gia Hành chánh. Tuy nhiên, chỉ học được hơn 1 năm thì ông bỏ học, đi làm biên tập viên cho một đài phát thanh. Không như nhiều bài báo trong và ngoài nước cho rằng Từ Công Phụng đã tốt nghiệp cử nhân Luật tại Sài Gòn.
Không qua một trường lớp âm nhạc nào cả, nhưng với năng khiếu bẩm sinh và một tâm hồn nhạy cảm, Từ Công Phụng đã tự học để trở thành một tên tuổi lớn trong lãnh vực sáng tác. Năm 1960, ông ra mắt ca khúc đầu tay Bây giờ tháng mấy khi vừa tròn 18 tuổi và ngay lập tức đã trở thành nổi tiếng. Có thời gian Từ Công Phụng sống tại Đà Lạt và đã cùng với Lê Uyên Phương, thành lập nhóm nhạc Ngàn Thông, biểu diễn hàng tuần trên đài phát thanh Đà Lạt. Và chính trên làn sóng của đài này Bây giờ tháng mấy đã được công chúng đón nhận một cách nồng nhiệt. Không dữ dội như Lê Uyên Phương, nhạc của Từ Công Phụng đầy chất trữ tình, êm ái với ca từ trau chuốt thật sang trọng. Ông còn có biệt tài phổ thơ vào các ca khúc rất thành công. Đặc biệt là thơ của nhà thơ Du Tử Lê. Tiêu biểu như những bài Trên Ngọn tình sầu, Ơn em…
Năm 1968, Từ Công Phụng gặp Từ Dung, một cô gái có làn da trắng, đẹp lộng lẫy, từng đoạt danh hiệu Á hậu trong một cuộc thi sắc đẹp tại miền Nam. Đôi trai tài gái sắc này sau đó đã nên duyên chồng vợ.

Sinh năm 1945, Từ Dung là con gái của nhà văn Hoàng Đạo (Nguyễn Tường Long) trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và là cháu ruột của hai nhà văn Nhất Linh (Nguyễn Tường Tam) và Thạch Lam (Nguyễn Tường Lân). Năm 1965, Từ Dung tốt nghiệp Tú tài toàn phần và đến năm 1969 lấy bằng cử nhân văn chương. Vốn con nhà danh gia vọng tộc lại được học hành đến nơi đến chốn, nhưng Từ Dung rất say mê ca hát và cũng được trời ban cho một chất giọng khá hay. Lúc bấy giờ, Từ Dung đang theo học thanh nhạc với ca sĩ Châu Hà, vợ của nhạc sĩ Văn Phụng. Chính môi trường này đã đưa đẩy Từ Dung gặp gỡ rồi quen biết với Từ Công Phụng. Tài và sắc đã trói buộc họ vào với nhau, để thành vợ chồng cho cuộc đời có thêm một đôi song ca ăn khách. Lần đầu họ xuất hiện bên nhau trên sân khấu quán Văn ở đại học Văn Khoa với ca khúc Bây giờ tháng mấy.
Vào thời điểm này, có 3 cặp đôi nổi đình nổi đám là thần tượng của thanh niên, sinh viên, học sinh: Khánh Ly – Trịnh Công Sơn, Lê Uyên – Phương, Từ Dung - Từ Công Phụng. Mỗi cặp một tính chất riêng, nhưng đều giống nhau ở chỗ giọng nam kiêm luôn sáng tác. Trong 3 cặp này, thì Từ Dung - Từ Công Phụng ít nổi tiếng hơn, nhưng cũng là một hiện tượng trong đời sống âm nhạc dạo đó.
Sống với nhau có một con gái thì Từ Dung - Từ Công Phụng chia tay, một cuộc chia tay khá buồn! Chẳng ai biết được nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ này. Nhưng theo một người quen thân của cặp đôi này, thì vào một chiều 30 tết, ông ta tình cờ gặp Từ Công Phụng trên đường và họ đã rủ nhau đi bộ về nhà. Dọc đường, Từ Công Phụng đã tâm sự hết nỗi niềm của mình với những lời trách móc Từ Dung. Nhưng đó cũng chỉ là những lời từ phía của Từ Công Phụng, còn Từ Dung thì chẳng nghe nói một lời nào.
Năm 1980, Từ Công Phụng sang Hoa Kỳ, định cư tại Portland, tiểu bang Oregan và lập gia đình mới với một người phụ nữ tên là Kim Ái. Thời gian này, Từ Dung còn ở lại Việt Nam, bà mướn một căn phòng trong cư xá Ngân Hàng, quận 3, và có biểu hiện tâm thần. Bà ít khi mở miệng nói với ai một lời nào. Đêm đêm, thường khỏa thân ngồi lặng lẽ trong bóng tối trước hiên thềm như một pho tượng. Một thời gian sau, Từ Dung qua cơn trầm cảm và cũng sang định cư tại Hoa Kỳ và sinh sống tại tiểu bang Hawaii. Từ Dung cũng đã lập gia đình khác với một người đàn ông Mỹ.

Ở Hoa Kỳ, Từ Công Phụng vẫn tiếp tục cuộc đời sáng tác và ca hát, ông đã nhiều lần về thăm quê nhà và ít nhất đã có 2 lần biểu diễn tại một phòng trà nổi tiếng ở Sài Gòn, cuối năm 2012 ông đã có đêm nhạc riêng tại Nhà hát TP. Còn Từ Dung thì im hơi lặng tiếng luôn, chẳng còn nghe ai nhắc đến tên của bà nữa. Ngay cả Từ Công Phụng trong các bài phỏng vấn ông cũng chỉ nói đến Kim Ái và các con sau này. Cứ như Từ Dung chưa bao giờ xuất hiện trong sự nghiệp và cuộc đời của ông. Mọi chuyện dường như đã chìm hẳn vào quên lãng. Âu đó cũng là nỗi đau “hồng nhan bạc phận” của Từ Dung.

Đoàn Thạch Hãn

BỔ TÚC VỀ TỪ CÔNG PHỤNG & LÊ UYÊN PHƯƠNG
(Qua sự quen biết cá nhân của Vương Đằng với Từ Công Phụng & Lê Uyên Phương và qua bài viết về TCP của Nguyễn Sĩ Hạnh và Lê Ngọc Phượng 07/2012)

Vương Đằng nhỏ hơn Lê Uyên Phương 3 tuổi và cũng nhỏ hơn Từ Công Phụng non 2 tuổi. Vương Đằng cũng mê nhạc, sáng tác nhạc và có lập ban nhạc; nhưng không dám hy sinh đời mình cho âm nhạc mà lo học hành, dạy học và cùng các bạn lập Đoàn Thanh Niên Công Tác Xã Hội (ĐTNCTXH) đầu năm 1964. 
Khoảng hè 1965, dưới danh nghĩa của ĐTNCTXH, Vương Đằng tổ chức một buổi trình diễn nhạc miễn phí gồm dăm ca sĩ có tiếng và Ban Văn Nghệ Nguồn Sống do Nghiêm Phú Phát làm trưởng ban) ở giảng đường lớn trong khuôn viên Trường Đại Học Dược Khoa. VĐ mướn dương cầm và mời nhạc sĩ Nghiêm Phú Phát đệm. VĐ có mời TCP và Thanh Lan trình diễn vì lúc đó TCP chưa có gặp Từ Dung và thường đi trình diễn song ca với Thanh Lan thường gọi đôi song ca Thanh Lan-Từ Công Phụng.
Đầu năm 1966, Vương Đằng có lập "quán nhỏ Vương Đằng" ở cửa sau Lăng Ông Bà Chiểu và bắt đầu quen thân hơn với TCP khi anh đến gởi tập nhạc "Vùng Tuổi Mây - Tình khúc Từ Công Phụng" (mà bây giờ VĐ còn giữ bản có chữ ký tặng của TCP). Khoảng năm 1972 hay 1973, vợ chồng TCP có mua nhà ở gần nhà bên vợ của VĐ (hẻm 2) ở dưới dốc Cầu Bông, được coi là hẻm 2B (nhỏ xíu!), trong khi hẻm có Thầy Ba Cầu Bông là hẻm 1. Và thỉnh thoảng VĐ đến nhà TCP chơi và gặp Từ Dung. 
Theo quen biết và nhận định, VĐ đồng ý với tác giả Đoàn Thạch Hãn (ở bài bên dưới) mà tin chắc rằng TCP không có đậu bằng cử nhân luật như báo chí hay trên mạng nói.
Chuyện bất hòa hay đổ vỡ của cặp vợ chồng song ca TCP chắc chắn xảy ra sau 30/04/75 bởi vì chính VĐ gặp TCP vào buổi sáng 29/04/75 ở khuôn viên phía sau thuộc Tòa đại sứ Hoa Kỳ và anh nhăn nhó nói đại ý như sau: Vợ con tao còn bị kẹt ở nhà. Chắc tao phải về!... Và TCP đã bỏ Tòa đại sứ Hoa Kỳ để về gặp vợ con trong thời gian VĐ lên máy bay trực thăng ra hàng không mẫu hạm Hancock... Khoảng thời gian 1999-2000, ở Sài Gòn Nhỏ (Little Saigon) bên California, có một hội cao niên nằm trên đường Bolsa mà người hội trưởng lại có tên là Từ Dung. VĐ có đến hỏi hai lần, nhưng không gặp chính Từ Dung mà chỉ gặp nhân viên thì họ đều trả lời Từ Dung nầy không phải là vợ cũ của TCP. VĐ rất thắc mắc bởi vì cái tên hay tên hiệu Từ Dung RẤT HIẾM CÓ. Cho đến bây giờ VĐ vẫn chưa biết thực hư như thế nào. VĐ hy vọng Từ Dung hay quý độc giả giải đáp thắc mắc giùm VĐ. Xin cám ơn trước!
Về cặp vợ chồng song ca Lê Uyên Phương, VĐ quen thân hơn từ ở Sài Gòn, Chợ Lớn (nhà của họ ở hẻm gần kế tửu lầu Á Đông và đã có cháu Uyên Uyên) và ở California và có nhiều kỷ niệm và các tập nhạc được ký tặng (ngay cả tập "Vũng Lầy Của Chúng Ta" được ký tặng năm 1973!). VĐ có gặp vợ chồng LUP khi họ ra mắt tập "Tình Như Mây Cõi Lạ" ở nhà hàng Seafood Paracel (khu Sài Gòn Nhỏ). Khi VĐ được tin nhạc sĩ LUP mất khoảng 10:30 tối, VĐ thao thức gần suốt đêm và đặt được bài thơ "Khóc Thương Anh Phương". Bài thơ được vẽ và in, bỏ vào khung kính và đem đến nhà quàn. Sau đám tang, VĐ có đến viếng Lê Uyên ở tư gia và ngạc nhiên thấy bài thơ và khung của VĐ được để trên bàn thờ của Lê Uyên Phương (VĐ chỉ sống ở khu Sài Gòn Nhỏ có 5 năm từ 1999-2004 để lo việc xuất bản sách của mình!).
Có một điểm VĐ cần thấy phải thông báo sự sơ sót của tác giả bài viết (Đoàn Thạch Hãn) về tuổi "thọ" (theo phong tục Việt Nam chết trước 60 tuổi thì không được cho là "thọ"!) của Lê Uyên Phương: Năm 1999, Phương qua đời ở tuổi 51, thế là cũng đã quá "thọ". Tính theo toán trừ: Chết năm 1999 mà sinh năm 1941 thì tuổi sống được là 58 (theo tuổi tây) hay 59 (theo tuổi ta) chứ không phải 51. (VĐ nhớ chắc LUP chết đầu tháng 6 trong khoảng ngày 5-8 tháng 6, 1999 dương lịch).

Source http://ngotinhyen.com/D_1-2_2-199_4-2443_5-10_6-1_17-49_14-2_15-2/

SàiGòn và Tuổi Thơ Tôi - Trần Mộng Tú


SàiGòn và Tuổi Thơ Tôi 
Trần Mộng Tú

Tôi xa quê hương ở vào tuổi không quá trẻ dại để dễ quên và cũng không quá già để chỉ dành toàn thời giờ cho một điều mất mát, rồi đau đớn. Tôi ở vào tuổi mà khi bước đến vùng đất mới, đời sống đã như lôi tôi đi trong một cơn lốc trên những con đường khác nhau trước mặt, hầu như không ngưng nghỉ. Tôi chóng mặt, nhưng tôi vẫn biết tôi là ai và tôi ở đâu trên quê người, nên những lúc tôi phải ngưng lại để thở là những lúc hồn quê nôn nao thức dậy trong tôi.
Mỗi lần nhớ đến quê nhà là nhớ đến Sài Gòn trước tiên. Sài Gòn không phải là phần đất dành riêng cho người miền Nam nữa, đối với người miền Bắc di cư vào Nam năm 1954, người Trung chạy giặc Cộng năm 1968 thì Sài Gòn chính là phần đất quê nhà đáng nhớ nhất.
Tôi lớn lên, sống cả một thời niên thiếu ở Sài Gòn. Đi học, dậy thì, yêu đương, mơ mộng,làm việc, lấy chồng, khóc, cười rồi chia ly với Sài Gòn.
Tôi nhớ lại hồi bé theo bố mẹ di cư vào Sài Gòn. Ba tôi làm việc ở Nha Địa Chánh, nên từ những căn lều bạt trong trại tiếp cư Tân Sơn Nhất, gia đình tôi được dọn vào ở tạm một khu nhà ngang trong sở của Ba ở số 68 đường Paul Blancy( Hai Bà Trưng,) sau lưng Bưu Điện. Tôi đi học, đi bộ băng qua hai con đường là tới trường Hòa Bình, bên hông nhà thờ Đức Bà. Tôi vào lớp Ba. Ngày đầu tiên cắp sách đến lớp, ma sơ dĩ nhiên là người Nam , hồi đó còn mặc áo dòng trắng, đội lúp đen. Sơ đọc chính (chánh) tả:
Hoa hường phết (phết là dấu phẩy)
Cái tai của con bé con Bắc kỳ không quen với phát âm miền Nam nên “hoa hường” thành “qua tường” và phết thành một chữ nữa. tôi viết: Qua tường phết..
Bài chính tả dài một trang của tôi chắc chắn là ăn một con số 0 mầu đỏ to tướng vì nguyên bài bị gạch xóa bằng mực đỏ lè. Tôi như một người ngoại quốc nghe tiếng Việt. Nhưng tôi học thuộc lòng trong sách thì giỏi và thuộc nhanh lắm. Khi khảo bài tôi được điểm tốt, mặc dù bạn học chung lớp khó hiểu con nhỏ Bắc kỳ đọc cái gì. Ma sơ cứ nhìn sách, nghe tôi đọc làu làu, biết là tôi có thuộc bài. Tôi nhớ một bài học thuộc lòng về thành phố Sài Gòn như thế này:

Sài Gòn vòi nước bùng binh
Này bảng báo hiệu này vòng chỉ tên
Trụ đèn, giây thép, tượng hình
Lính canh, cảnh sát giữ gìn công an
Mặc dầu đường rộng thênh thang
Ngựa xe đi lại luật hành phải thông
Mặc dầu đường rộng mênh mông
Mũi tên chỉ rõ bảng trông dễ tìm
Trần Hưng, Lê Lợi, Chu Trinh…
Trần Hưng là đường Trần Hưng Đạo, Chu Trinh là đường Phan Chu Trinh, viết tắt trong bài học thuộc lòng. Từ bài học đó, tôi hiểu được hai chữ “bùng binh” là gì.
Ngôi trường đó tôi chỉ học hết lớp ba, sau đó Ba Mẹ tôi tìm được nhà ở bên Thị Nghè, tôi được đi học lớp nhì, lớp nhất ở trường Thạnh Mỹ Tây, có rất nhiều bạn cũng Bắc kỳ di cư như tôi.
Kỷ niệm về Sài Gòn tôi nhớ nhất là lần đầu tiên con bé Bắc kỳ tròn xoe mắt, nhìn thấy đồng bạc xé làm hai, nếu chỉ muốn tiêu một nửa. Mua cái bánh, gói kẹo nào cũng chỉ xé hai đồng bạc. Xé rất tự nhiên, tiền mới hay tiền cũ gì cũng xé. Người mua xé, mua; người bán xé để trả (thối) lại. Tôi đã biết bao lần, vào những buổi tối mùa hè, mẹ cho một đồng, hai chị em mua ngô (bắp) nướng của người đàn bà, ngồi dưới chân cột đèn điện trước cửa sở Địa Chánh với cái lò than nhỏ xíu, bán bắp nướng quẹt hành mỡ. Dưới ánh sáng hắt lờ mờ của bóng đèn từ trên cao xuống, cái lò than nhỏ xíu, thơm lừng mùi bắp non. Gọi là lò, thực sự chỉ có mấy cục than hồng để trong một miếng sắt cong cong, bên trên có cái vỉ bằng giây thép, rối tung, những cái bắp được xếp lên đó, bà bán hàng trở qua, lật lại. Đôi khi cũng là một cái lò gạch nhỏ đã vỡ, mẻ mất mấy miếng rồi, không thể kê nồi trên đó, bà hàng mang ra để nướng bắp. Hai chị em đứng líu ríu vào nhau (anh và chị lớn không có tham dự vào những sinh hoạt của hai đứa em nhỏ này), cầm tờ giấy bạc một đồng, đưa ra. Tôi luôn luôn ngần ngừ không dám xé, đưa cho bà bán hàng; bà cầm lấy, xé toạc làm hai, khi tôi chỉ mua một cái bắp. Bà đưa phần nửa tiền còn lại để chúng tôi có thể cất đi, tối mai lại ra mua bắp nữa. Mỗi lần thấy đồng bạc bị xé, tuy không phát ra tiếng động, tôi cũng giật mình đánh thót một cái như nghe thấy đồng bạc của mình bị bể hay bị gẫy. Cảm tưởng như mất luôn cả phần tiền đưa ra và phần giữ lại. Phải mất bao nhiêu lần nhìn đồng tiền bị xé mới quen mắt cái hình ảnh “Đồng bạc xé hai” này và tin là nửa kia vẫn dùng mua bán được.
Bẻ cái bắp làm đôi, tôi với em tôi chia nhau. Ngon ơi là ngon! Bắp dẻo, thơm mùi lửa than, thơm mùi hành mỡ. Chị em tôi ăn dè xẻn từng hạt bắp một. Ăn xong chúng tôi dắt nhau đi tìm ve sầu ở những thân cây me trong bóng tối. Buổi tối ve sầu mùa hạ, chui ở đất lên, bò lên các thân me, lột xác. Chúng tôi bắt những con chưa kịp lột cho vào cái hộp (không) bánh bích quy đã mang theo sẵn, đó là những con ve mới ngơ ngác bò lên khỏi mặt đất, mang về nhà. Thuở thơ dại những trò chơi này là cả một thế giới thơ mộng và đầy hấp dẫn. Chị em tôi mang hộp ve sầu vào giường ngủ, ban đêm những con ve này sẽ chui ra bò lên màn, lột xác. Đêm chúng tôi đi vào giấc ngủ, thì ve chui ra, lột xác xong bỏ lại những vệt dài nhựa thâm đen trên những cánh màn tuyn trắng toát. Khi chúng tôi thức dậy nhìn thấy, chưa kịp dụi mắt tìm mấy con ve, đã thấy mẹ đứng ở ngoài màn với cái chổi phất trần trên tay. Chúng tôi chưa bị roi nào thì đã có bố đứng bên, gỡ cái chổi ở tay mẹ mang đi, trong lúc những cái lông gà trên chổi còn đang ngơ ngác.
Sài Gòn còn cho tuổi thơ của chúng tôi biết thế nào là cái ngọt ngào, thơm, mát của nước đá nhận. Trong sân trường tiểu học của trường Thạnh Mỹ Tây, tôi được ăn cái đá nhận đầy mầu sắc đầu tiên. Một khối nước đá nhỏ, đặt trên một lưỡi dao bào, bào vào cái ly bên dưới, khi đầy ly, ông bán hàng ấn (nhận) nước đá ép xuống, đổ ngược ly lại, lấy cái khối nước đá xôm xốp, có hình dáng cái ly ra. Rắc si-rô xanh đỏ, có khi còn có mầu vàng và mầu xanh lá cây với vị bạc hà nữa. Gọi là nước đá nhận. Học trò trẻ con, bạn thân, sung sướng chia nhau ở sân trường, mỗi đứa mút một cái, chuyền tay nhau. Nước đá nhận, bánh kẹo ở sân trường trong những giờ ra chơi đều được mua bằng đồng bạc xé hai này.
Ba tôi bảo cầm đồng tiền xé hai một cách tự nhiên như thế quả là một điều rất dung dị, xuề xòa, dễ dãi mà chỉ người miền Nam mới có được. Xé tiền mà như xé một tờ giấy gói hàng, giấy gói bánh, như xé một tờ báo. Mảnh xé ra có giá trị lúc đó, mảnh còn lại cũng vẫn còn giá trị sau này. Người Hà Nội cầm tờ giấy bạc rách, thì vuốt cho thẳng thắn lại, có khi lấy hạt cơm dẻo miết lên chỗ rách cho dính vào nhau, rồi cẩn thận gấp lại trước khi cho vào túi. Một thời gian sau, tiền không xé nữa, được thay bằng đồng bạc 50 su bằng nhôm, hình tròn, một mặt có hình tổng thống Ngô Đình 
Diệm, mặt sau là hình khóm trúc. (Biểu hiệu cho:Tiết Trực Tâm Hư)

Cuộc di cư 1954 đó giúp cho người Việt hai miền Nam , Bắc hiểu nhau hơn. Người Bắc sống và lớn lên ở Sài Gòn ở thế hệ chúng tôi học được cái đơn sơ, chân phương của người miền Nam và ngược lại những bạn học người Nam của tôi cũng học được cách ý tứ, lễ phép (đôi khi đến cầu kỳ) của người miền Bắc. Tôi đã được nghe một người miền Nam nói: Sau 1975 thì chỉ có những người Bắc di cư 54 là đồng bào của người miền Nam mà thôi. Hóa ra những người Bắc sau này ở ngoài cái bọc (đồng bào) của bà Âu Cơ hay sao? Nếu thật sự như thế thì thật đáng buồn!

Sài Gòn đầu thập niên sáu mươi vẫn còn có xe ngựa, đưa những bà mẹ đi chợ. Người xà ích lúc đó chưa biết sợ hãi trên những con đường còn mù sương buổi sáng. Tiếng lóc cóc của móng ngựa chạm xuống mặt đường như đánh thức một bình minh. Tôi nhớ có chỗ gọi là Bến Tắm Ngựa, mỗi lần đi qua, hôi lắm. Sau vài mươi năm xe thổ mộ ở Sài Gòn không còn nữa, chỉ còn ở lục tỉnh.
Sài Gòn với xích lô đạp, xích lô máy, taxi, vespa, lambreta, velo, mobilette là những phương tiện di chuyển mang theo đầy nỗi nhớ. Kỷ niệm thơ mộng của một thời trẻ dại, hương hoa và nước mắt. Sài gòn với những cơn mưa ập xuống thình lình vào tháng năm tháng sáu, tiếng mưa khua vang trên những mái tôn, tắm đẫm những hàng me già, ướt sũng những lối đi vào ngõ nhà ai, Sài Gòn với mùa hè đỏ rực hoa phượng vĩ in xuống vạt áo học trò, với những hoa nắng loang loang trên vai áo bà ba của những bà mẹ là những mảng ký ức ngọt ngào trong tâm của chúng tôi.
Mỗi tuổi đời của tôi đi qua như những hạt nắng vàng rắc xuống trên những hàng me bên đường, như mưa đầu mùa rụng xuống trên những chùm hoa bông giấy. Những tên đường quen thuộc, mỗi con phố đều nhắc nhở một kỷ niệm với người thân, với bạn bè. Chỉ cần cái tên phố gọi lên ta đã thấy ngay một hình ảnh đi cùng với nó, thấy một khuôn mặt, nghe được tiếng cười, hay một mẩu chuyện rất cũ, kể lại đã nhiều lần vẫn mới. Ngay cả vệ đường, chỉ một cái bước hụt cũng nhắc ta nhớ đến một bàn tay đã đưa ra cho ta níu lại.

Âm thanh của những tiếng động hàng ngày, như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… Làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ.

Sài Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ. Những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai,với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh, như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.

Sài Gòn như một người tình đầu đời, để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống.
Sài Gòn khi đổi chủ chẳng khác nào như một bức tranh bị lật ngược, muốn xem cứ phải cong người, uốn cổ ngược với thân, nên không còn đoán ra được hình ảnh trung thực nguyên thủy của bức tranh.

Sài Gòn bây giờ trở lại, thấy mình trở thành một du khách trên một xứ sở hoàn toàn lạ lẫm. Tôi thương Sài Gòn và thương cho chính mình, đã hư hao một chốn để về.


Trần Mộng Tú


Chiếc Mũ Năm Xưa - Võ Quách Thị Tường Vi


Chiếc Mũ Năm Xưa
Võ Quách Thị Tường Vi
Võ Quách Thị Tường Vi là một Y sĩ nội khoa và là Giáo Sư Đại Học tại Texas
Nhìn qua khung cửa sổ của phòng cấp cứu, bên ngoài trời đã bắt đầu xế chiều. Cơn nóng của mùa Hè vẫn còn gay gắt khi tôi chạm tay vào cửa kiếng. Sắp tới giờ đi thăm bệnh nhân trong khu nội trú rồi. Từ khi vào bệnh viện hồi sáng sớm đến giờ, tôi chưa có dịp để đi ra ngoài. 

Phòng cấp cứu hôm nay quá bận với nhiều bệnh nhân bị bệnh rất hiểm nghèo cần chữa trị kịp thời. Có 3 bệnh nhân không thở được nên phải đặt ống thở nội khí quản và đã được chuyển lên phòng ICU hay Phòng Hồi Sinh để theo dõi điều trị. Năm bệnh nhân khác đã nhập viện để cho thuốc kháng sinh theo đường nước biển, và cho thuốc hoá trị khẩn cấp, vì bệnh ung thư đã lan tràn nhiều nơi. 

Có những bệnh nhân đã được trị bệnh bằng hoá chất, sau một thời gian khoảng chừng 7 tới 10 ngày thì tiểu cầu, hồng huyết cầu, và bạch huyết cầu đã bị xuống thấp, bị sốt cao, không ăn uống gì được, rất nguy hiểm đến tính mệnh. Còn những bệnh nhân khác đi vào phòng cấp cứu vì bị tăng độ đau đớn trong người, hay đang chờ kết quả xác nghiệm của máu, nước tiểu, hình chụp quang tuyến, hay CAT Scan và MRI. 

Không khí trong phòng cấp cứu bây giờ thì cũng không ồn ào lắm. Phần lớn ai cũng ăn nói nhỏ nhẹ và ít gây tiếng động. Nhưng một khi có bệnh nhân bị tắt thở, tim ngừng đập, các nhân viên của phòng cấp cứu phải gọi “code blue” để được cấp cứu lập tức. 

Khi code blue này được gọi, có những bác sĩ ngoại khoa hay chuyên về gây mê cũng túc trực một bên, để trong những trường hợp khó tìm mạch máu hay cần bỏ ống thở vào nội khí quản thì họ sẽ sẵn sàng mà giúp một tay. Không khí trong phòng cấp cứu sẽ sống động hẳn lên, với tiếng người đối đáp, máy móc lao xao, điện thoại hay máy Fax rung tiếng liên hồi, và những âm thanh lanh lãnh qua hệ thống truyền tin trên trần nhà.

Đôi khi, cũng có những tiếng nấc nghẹn ngào của những gia đình thân nhân vì đang lo lắng không biết người thân yêu của mình có qua khỏi lúc ngặt nghèo này hay không. Ban đầu, mới nhìn vào thì thấy rất hỗn loạn, nhưng thật ra thì nó cũng có cái thứ tự riêng của nó. Mọi người ai cùng có một vài nhiệm vụ để làm, như một bộ máy liên kết cùng ăn khớp với nhau. 

Tôi về làm cho bệnh viện này từ hồi mới ra trường. Tưởng chừng sẽ làm tạm ở đây vài năm rồi chuyển qua ngành tim mạch mà tôi rất có cảm tình từ khi còn đi học. Nhưng dần dà tôi lại thích tiếp xúc với những bệnh nhân bị những chứng bệnh nan giải này. Tôi thông cảm và thấy thật gần gũi với họ. Và “vài năm” của tôi lại trở thành “vài chục năm” nay rồi. 

Bệnh viện này chuyên chữa trị bệnh ung thư và là một bệnh viện lớn nhất trên nước Mỹ với những chương trình nghiên cứu và điều trị ung thư rất tân kỳ. Bệnh nhân của nhà thương này đến từ khắp nơi trên thế giới. Từ những người nói tiếng Tây Ban Nha đến tiếng Thố Nhỉ Kỳ, tiếng Trung Đông, Châu Phi, Phi Luật Tân, hay tiếng Tàu…Như vậy tôi cũng được học hỏi thêm nhiều và thích nhất là những người đồng nghiệp của tôi cũng rất dễ thương và thân thiện.

Mấy năm đầu, vì là một trong những người Việt Nam đầu tiên làm việc ở nhà thương này, nên mỗi khi có bệnh nhân người Việt đến, tôi thường hay được gọi để thông dịch giùm. Nhiều khi quá bận, không đến được lúc ấy thì tôi lại tìm dịp ghé thăm sau, để hỗ trợ tinh thần cho những người bệnh nhân này và gia đình của họ. Và từ đó tôi đã trở thành “Cô V Y Sĩ” mà những bệnh nhân thường hay gọi một cách rất thân tình. Tôi đã trở thành một phần tử trong gia đình của họ một cách “bất đắc dĩ”, từ những bữa tiệc mừng sinh nhật thôi nôi, đến cả những ma chay cưới hỏi, họ đều muốn tôi tham dự. 

Sau này, khi số bệnh nhân người Việt tăng nhiều, ban điều hành của bệnh viện có mướn thêm thông dịch viên nên tôi cũng đỡ...khổ. Và cũng như đã hiểu ngầm với nhau, mỗi khi có bệnh nhân người Việt vào phòng cứu cấp, các vị y sĩ khác đều “nhường” cho tôi. Họ thường nói là tôi sẽ hiểu ý bệnh nhân hơn và như vậy việc chữa trị cho bệnh nhân cũng sẽ được hiệu quả hơn. Tôi thì chỉ cười và nói sao cũng đuợc, nhưng trong lòng rất vui vì có dịp đế tiếp xúc và hàn huyên với đồng hương người Việt của mình. Tôi luôn thầm nhủ rằng mọi việc trên đời đều có số mệnh cả. Nếu mình có thể chia sẻ những buồn vui, tạo niềm tin yêu và giữ nguồn hy vọng cho những người bạn đồng hương kém may mắn này thì việc gì rồi cũng có thể qua đi.

***

Có bàn tay ai đang đặt nhẹ trên vai tôi. Tiếng của Ted nói:

- Tới giờ đi khu nội trú rồi. Mình đi thôi.

Ted là một bác sĩ chuyên về nội thương và làm chung nhóm của tôi. Anh trẻ hơn tôi khoảng 5 tuổi, rất tận tâm với bệnh nhân. Anh hay tâm sự với tôi về việc gia đình cùng hai đứa con và người vợ Ý Đại Lợi của anh. Chúng tôi rất thân thiết trong tình đồng nghiệp làm chung với nhau.

Cầm cái ống nghe bỏ vào túi áo lab, tôi đứng lên đi với Ted. Bỗng cô Jenny, điều dưỡng trưởng của phòng cấp cứu, lật đật chạy vào:

- Dr. V, có một người bệnh nhân đang đến bằng xe cứu thương trong vòng vài phút. Rất nguy kịch không thở đươc. Ông ấy chỉ nói tiếng Việt thôi, nhờ Dr. V ở lại một tí để giúp chúng em nhé. Cô Jenny năn nỉ.

Bác sĩ Ted nói:

- Thôi V cứ ở lại một chút đi, tôi đi trước cũng được. Khi nào xong thì gặp nhau ở khu Tim Phổi lầu 7 đó nha.

- Ok, cảm ơn Dr. Ted nhiều nhe.

Quay qua cô Jenny tôi hỏi:

- Bệnh nhân này là ai vậy Jenny?

- Dạ đây là ông Thanh, 60 tuổi, bệnh nhân mới của bệnh viện, tuần trước có vào phòng khám để gặp bác sĩ Morris vì bệnh ho kinh niên. Họ đang tình nghi bệnh nhân bị bệnh lao phổi đó. Như vậy thì mình phải đeo mask (khăn vuông nhỏ có giây thung choàng đầu đeo vào để bảo vệ mũi miệng ngăn ngừa khỏi bị lây bệnh - khẩu trang).

- Ok, thôi mình qua phòng code blue đi. 

Phòng code blue là phòng dành cho những bệnh nhân bị nguy hiểm đến tính mệnh, sắp chết hay hấp hối. Phòng này có đầy đủ dụng cụ cứu cấp, Oxygen, máy đo hay shock tim, phòng mổ tiểu khoa, thuốc mạnh cấp cứu. Khi bệnh nhân không may phải vào phòng này thì sống chết như chỉ mành treo chuông, hy vọng chỉ đặt vào trong tay của những bác sĩ cùng điều dưỡng chuyên nghề. 

Có tiếng còi xe cứu thương hụ lên từ ngoài đường lớn và ngừng lại ở trước cửa vào của phòng cấp cứu. Hai người trong xe cứu thương nhảy ra, hai người hai bên, đẩy một băng-ca đi ở chính giữa. Trên băng-ca này có một bệnh nhân người Á Châu, thở rất khó khăn và đang được tiếp hơi Oxygen chuyền qua ống dây nhỏ gắng vào trong lỗ mũi. Bệnh nhân độ chừng khoảng 57 tới 60 tuổi, mái tóc đã điểm muối tiêu trên một vầng trán rộng với đôi chân mày đen rậm đẫm giọt mồ hôi. Khi chuyển từ băng-ca qua giường, anh cố giương mắt lên nhìn nhưng sau vài giây là nhắm mắt lại. Hai bàn tay để trên bụng và đang nắm chặt một túi xách của hãng hàng không Pan Am đã ngã màu, các góc cạnh thì sờn và bị nứt nẻ rất nhiều. 

Các y tá điều dưỡng và nhân viên phòng cấp cứu đổ ập lại. Người thì lấy áp xuất máu, người thì lấy máu, người hỏi hồ sơ lý lịch của bệnh nhân qua người bạn cùng đi theo đến bệnh viện. Không khí phòng cấp cứu sống động hẳn lên. Nhân viên nào cũng đeo mask (khẩu trang) màu vàng và mang găng tay khi tiếp xúc với bệnh nhân. Khi một cô y tá giở tay anh để lấy cái túi xách Pan Am đi thì anh bấu chặt lại, không cho gỡ ra. Người y tá phải dỗ dành hứa là sẽ trả lại cho anh, một lát sau anh mới chịu nhẹ lơi tay ra. 

Có tiếng của Jenny báo cáo:

- Dr. V, áp xuất của ông Thanh là 76/48, mạch máu là 120 nhịp một phút, hơi thở là 28 trong một phút, độ Ốc-xi trong máu là 86 với lượng Ốc-xi non rebreather mask.

- Em cho 1 lít dung dịch nước biển vào mạch máu mau đi. Mở cho nước biển chảy thật nhanh nhé. Gọi ban gây mê và chuẩn bị cho đặt ống vào nội khí quản. Tôi nói.

Jenny báo cáo tiếp:

- Dr. V, kết quả thử nghiệm về rồi với hồng huyết cầu là 2000, tiểu cầu 45000, bạch huyết cầu 15000. Mấy thử nghiệm khác cũng bình thường. 

Bệnh nhân này thiếu máu? Tại sao? Tôi đặt câu hỏi trong đầu mình. Khi tôi khám bệnh nhân dù tim đập rất nhanh nhưng nhịp độ thì bình thường, phổi thì khò khè và khó thở, người không bị phù thủng. Bệnh nhân chỉ hé mắt nhìn tôi rồi khép lại. Tôi nói với Jenny.

- Em cho bắt đầu kháng sinh bằng đường vein đi nhé. 

Lúc này thì một bác sĩ gây mê đã đến đặt ống thở vào khí quản của bệnh nhân. Bỗng Jenny hớt hãi chạy đến báo cáo với tôi:

- Dr.V, áp xuất của ông Thanh giờ bị tuột xuống còn 60/30 thôi và mạch rất yếu.

Tôi ra lệnh:

- Bắt đầu Dopamine drip đi em và bolus 1 lít dung dịch nước biển đi. Khi áp xuất huyết ổn định một chút, em cho bệnh nhân đi chụp CT scan của phần ngực nhe.

Dopamine là một loại thuốc có thể làm mạch máu co lại và áp xuất tăng lên. 

Khoảng chừng 30 phút sau thì Jenny cho biết là áp xuất của ông Thanh đã ổn định và hơi thở cũng bình thường với máy trợ hơi thở-respirator và đang được chuyển lên phòng cấp cứu đặc biệt (ICU). Phong, người bạn của Thanh, vẫn đứng lẫn quẫn trong phòng cấp cứu. Tôi đến nói chuyện với Phong một chút. 

Phong kể rằng ngày xưa Thanh học bên Đại Học Khoa Học đến năm thứ Hai thì bị động viên đi khóa sĩ quan trừ bị Thủ Đức. Sau 75 thì ở lại Việt Nam. Thanh qua định cư ở Mỹ hơn 15 năm nay rồi, đã ly dị và có một đứa con gái, nhưng ngưng liên lạc với gia đình gần 10 năm nay. Anh hút thuốc lá rất nhiều và thường có những cơn ho liên tục từ 5 năm về trước. Lần gặp bác sĩ Morris tuần rồi, anh bị nghi là vướng bệnh lao và đang chờ kết quả của cuộc thử nghiệm của đàm. Cuộc đời Thanh có những thăng trầm mà Phong đã tâm sự sơ qua cho tôi nghe một cách rất nhẹ nhàng và vắn tắc.

Khi nghe Phong kể lại những chuyện này làm tôi nhớ về những năm học ở Đại Học Khoa Học ở Sài Gòn.

***

Sau khi học xong bậc trung học ở trường công lập Ngô Quyền Biên Hoà, tôi lên Sài Gòn học tiếp. Tôi ở chung với năm người bạn gái khác, trong một căn nhà nhỏ có gác ở trên từng hai, đường Hồng Thập Tự Sài Gòn. Chúng tôi chia ra để làm những việc như nấu cơm, đi chợ cho cả nhóm. Có những tối, cả nhóm họp lại, tôi đánh đàn guitar, các bạn quay quần hát những bài hát như Như Cánh Vạc Bay, Phố Núi Cao Phố Núi Đầy Sương, Căn Nhà Ngoại Ô.. .Cả đám cười vui trên căn gác trọ nhỏ hẹp.

Từ căn nhà trọ này đến trường thì rất gần, tôi đi bộ được. Nhớ hồi ấy có hai hàng cây phượng tây rợp bóng mát hai bên đường, đi bộ rất là thú vị. Tôi nhớ lại những buổi sáng thứ Bảy có giờ thực tập tại phòng lab cho môn động vật, mổ con tôm càng bị đầu tôm chích vào tay đau điếng và có những lần tôi đi học trễ, bị khoá cửa không được vào, đi lang thang trong khuôn viên trường đại học.

Trường đông sinh viên, không đủ chỗ ngồi nên chúng tôi thường chen chúc nhau ngồi trên sân khấu của giảng đường gần thầy cô, vừa dễ nghe, nhưng phải tội là sau mấy tiếng đồng hồ ngồi một chỗ, lưng và chân thiếu điều muốn co lại, đi không nổi.

Tôi cũng nhớ có những lần lên Thủ Đức đi tìm những lá cây cho môn thực vật. Khi đi về nắng cháy da, nằm la liệt mấy ngày. 

Tôi thường hay đội cái mũ nhựa trắng, phủ che mặt và phía sau đầu, nhưng vẫn không đủ mát cho những ngày nắng cháy Sài Gòn hay Biên Hoà. Chiếc mũ này có rất nhiều kỷ niệm đối với tôi. Tôi đã dùng tiền lương đầu tiên ít ỏi mà tôi đã kiếm được bằng đi dạy kèm để mua cái mũ này. Dù không trị giá bao nhiêu, nhưng đối với tôi nó thật là to lớn vì nó tượng trưng cho sự trưởng thành và tự lập của mình. 

Và từ đó chiếc mũ này đã theo tôi đi nhiều nơi như khi tôi tham gia vào đám văn nghệ “Thằng Bờm”, cùng các bạn bè đi lang thang trong các câu lạc bộ, hát nhạc dân ca, đi học hay đi lên Bình Dương, dọn dẹp lại những căn nhà bị phá vỡ vì bom đạn.


Và có những buổi sáng sớm thứ Hai, tôi đạp xe từ Phúc Hải-Dưỡng Trí Viện lên nhà Ga Biên Hoà để đi Sài Gòn học, hai bên đường rất vắng vẻ vào lúc năm giờ sáng, đầu vẫn đội cái mũ này làm tôi cũng bớt sợ. Sau đó một dạo thì tôi làm mất cái mũ này, tìm hoài không thấy. Tôi lại thay nó bằng một cái nón lá nhưng ít đội hơn vì nón lá, khi chạy xe đạp xuống dốc, hay bị gió cản lại, rất là bất tiện.

Mới đây mà đã mấy chục năm rồi, vật đổi sao dời, cảnh cũ người xưa không bao giờ tìm lại được.

***

Ngày hôm sau, tôi có ghé qua phòng ICU thì thấy Thanh có vẻ bớt nhiều, tỉnh táo hơn một chút nhưng vẫn còn dùng ống hô hấp nhân tạo. Anh nhìn tôi một cách chăm chú và chúng tôi dùng tay làm dấu để nói chuyện với nhau.

Nhân viên điều dưỡng cho biết anh sẽ không cần ống hô hấp nhân tạo nữa vào chiều nay nếu mọi việc không có gì thay đổi. Thanh làm dấu cho tôi biết là anh đang thèm thuốc lá. Trời ơi! Bệnh gần chết mà cũng còn ghiền thuốc!!! Tôi lắc đầu và mỉm cười mà thôi. Kết quả về vi trùng lao -Koch- được thử nghiệm nhưng chưa có. Nhân viên nhà thương vẫn còn đeo mask khi đến chăm sóc anh. 

Buổi chiều ngày hôm sau, tôi đến thăm, thì Thanh được di chuyển xuống khu bệnh lao phổi. Thanh có vẻ khoẻ hơn nhiều, hơi thở bình thường và ống thở đã được rút ra, chỉ còn thở Ốc-xi qua mũi thôi. Thấy tôi thì Thanh mỉm cười và lên tiếng chào. Thanh hỏi.

- Dạ đây có phải là Dr. V mà hôm tôi mới vào đã gặp rồi phải không?

- Đúng vậy đó anh Thanh. Hôm ấy anh bị bệnh rất nặng. Tôi rất là ngạc nhiên khi anh còn nhớ. Anh thấy người ra sao? Thở còn khó khăn không? Tôi hỏi.

- Dạ tôi đã bớt nhiều, thở có vẻ dễ dàng hơn nhiều. A, Dr. V, xin lỗi không hiểu Dr. V sinh ở đâu vậy? Thanh hỏi.

- Dạ tôi sinh ra ở Bình Định và lớn lên ở Biên Hoà. Mà anh hỏi để làm gì vậy ? Tôi hỏi lại.

- Dạ tôi thấy đôi mắt của Dr. V mang máng giống một người nên hỏi vậy thôi. Xin lỗi nha.

Thanh trả lời giọng nói của anh lộ vẻ buồn bả, âm thanh trầm như có chút buồn phiền và trách móc. Tôi hỏi.

- Nghe bạn anh nói ngày xưa anh học ở Đại Học Khoa Học. Tôi cũng học ở đó mấy năm. Anh học năm nào vậy?

- Dạ tôi học năm 72-73. Cuối năm 73 thì tôi bị động viên nên đi Thủ Đức. Thanh trả lời.

- A, thì ra vậy. Lớp đông quá nên không nhớ ai là ai cả. Tôi nói.

- Vâng, đúng vậy. Thanh nói xong rồi im lặng. Đôi mắt nhìn xa xăm và biểu lộ sự mệt mỏi. 

Tôi về phòng làm việc, coi lại hồ sơ của Thanh. Khi liếc qua kết quả của CT phổi thì tôi khựng lại, tim như muốn ngừng đập một giây phút. Kết quả ghi rõ ràng là có một cục bứu rất lớn, khoảng chừng 4.5 cm ở phổi phía trên bên trái với những đặc điểm tiêu biểu cho ung thư phổi loại tế bào Oat Cell hay tế bào ung thư phổi loại nhỏ.

Những tế bào ung thư này đã lan tràn qua những hạch chung quanh và đến gan. Oat Cell hay những tế bào ung thư ung loại nhỏ rất là khó trị, lan tràn rất mau và tỷ lệ sống sót trong vòng 5 năm rất thấp. Loại ung thư này, nếu dùng hoá trị (thuốc trị những tế bào ung thư, thông thường phải chuyền qua mạch máu qua nhiều chu kỳ), thường mang đến kết quả hữu hiệu hơn so với những cách trị khác.

Tôi gọi bác sĩ Ted, bây giờ bác sĩ nội khoa cho Thanh. Ted hẹn sẽ gặp tôi ở phòng của Thanh để chúng tôi cùng thông báo kết quả cho bệnh nhân biết. Khi chúng tôi đến phòng Thanh thì Phong cũng có mặt. Ted báo hung tin này cho Thanh, còn tôi thì thông dịch lại. Thanh im lặng không nói gì cả. Còn Phong thì hỏi những câu hỏi như cách chữa trị, có thể sống bao lâu nữa…

Tôi trả lời những câu hỏi này cho Phong, còn Thanh thì vẫn tiếp tục yên lặng. Khi Ted đi rồi thì Thanh hỏi tôi.

- Ung thư phổi thì từ đâu mà ra vậy, Dr. V?

- Cũng có nhiều nguyên do. Có thể do môi trường mình sống, gia truyền, miễn nhiễm, chất hoá học. Phần lớn là do thuốc lá mà ra.

- Như vậy cai thuốc lá có khó lắm không? Tôi cũng muốn bỏ cái thói quen này nhưng thấy khó quá.

- Cũng không khó lắm. Nếu anh muốn thì chúng tôi sẽ chỉ cách cho anh nhe.

- Phải chi hồi đó tôi cai thuốc lá sớm thì có thể tôi không bị ung thư phổi phải không Dr. V? Thanh nói.

- Cũng có thể lắm. Nhưng bây giờ anh đã bị rồi, thì cũng nên chú trọng với thực tế để tìm cách chữa trị nhe.

- Như bệnh ung thư của tôi thì Dr. V nghĩ là tôi sẽ sống được bao lâu nữa? Xin hãy thành thật mà trả lời.

- Thật ra thì khó nói lắm. Ung thư loại tế bào này rất là nguy hiểm và khó trị. Tôi trả lời một cách thành thật.

Thanh im lặng. Tôi thấy có những giọt nước mắt ứa ra ở khoé mắt của anh. Anh khóc âm thầm. 

Tôi đi ra bên ngoài để tránh cho anh nhìn thấy mình cũng đang khóc. Tôi khóc thương cho số phận một con người với những chuỗi đời thăng trầm theo vận nước nổi trôi. Tôi khóc thương cho Thanh và cũng hình như khóc thương cho chính mình. 

Khi tôi trở lại thì Phong đã đi về, chỉ còn một mình bệnh nhân nằm, cái hình bóng nhỏ nhoi trông thật tội nghiệp nằm im trên tấm khăn trải giường trắng mướt. Nghe tiếng động, Thanh quay lại và ánh mắt sáng lên khi nhận ra tôi. Tôi bây giờ không đeo chiếc mask nữa vì biết rằng sau cuộc thử nghiệm anh không bị lao phổi mà bị những tế bào gây ung thư phổi. 

- Dr. V đó à, tôi cũng muốn nói chuyện với Dr. V một chút. Dr. V có thì giờ để tôi nói chuyện không?

- Tôi có nhiều giờ lắm. Anh Thanh cứ nói đi. Tôi đáp lời.

- Cuộc đời tôi bây giờ có 2 nguyện vọng. Thứ nhất là gặp được con gái tôi sau mười mấy năm xa cách. Còn nguyện vọng thứ hai thì mong manh lắm, tôi chắc sẽ không thành đâu. Thanh ngập ngừng.

- Lần cuối anh gặp con gái ở đâu và bao lâu rồi? Tôi hỏi.

- Khoảng chừng 10 năm. Tôi lập gia đình khi gặp vợ tôi 15 năm về trước. Nàng lúc ấy có một vẻ đẹp u buồn, giống như người con gái mà ngày xưa tôi đã gặp. Sau 5 năm thì tình cảm giữa chúng tôi phôi pha. Cũng không hiểu tại sao. Chúng tôi lúc đó ở San Jose, nàng theo đạo Công Giáo và có gia đình thân quyến ở đây. Hơn mười mấy năm không liên lạc, tôi nghĩ là họ không còn ở đó nữa đâu. Thanh nói.

- Còn nguyện vọng thứ hai của anh là gì? Tôi hỏi. 

Thanh ngập ngừng không nói. Tôi cũng không ép Thanh làm gì.

***

Tối đó, khi về nhà tôi liên lạc với ông anh tinh thần tên Peter đang làm việc ở Los Angeles. Nói là anh chứ thật ra ông ấy là linh mục của một giáo phận Công Giáo ở vùng Riverside. Sau khi nghe chuyện xong, linh mục Peter bảo tôi hãy yên tâm để ảnh liên lạc giúp tìm vợ con anh Thanh. Hai ngày sau, cha Peter gọi lại báo tin đã tìm được họ rồi. Số là, cha Peter có điện thoại về địa phận Công Giáo vùng San Jose và nói chuyện cùng cha xứ ở đó. May mắn thay vợ của Thanh còn một bà mẹ ở xứ đạo này và cha xứ đã nói chuyện cùng bà ấy về việc Thanh muốn gặp lại vợ con mình. 

Hằng ngày tôi vẫn đến thăm Thanh.Thời kỳ này anh đang được chữa trị bằng hoá trị. Anh cũng bị những phản ứng phụ như ói mữa, buồn nôn, đi tiêu chảy và tiểu cầu cùng hồng huyết cầu bị xuống thấp nên phải tiếp huyết cùng chuyển tiểu cầu. Thanh vẫn buồn bả và thỉnh thoảng tôi thấy Thanh khóc. Còn người thì hốc hác đi nhiều. Tôi không nói cho Thanh biết về vụ vợ con Thanh, để tránh cho Thanh khỏi thất vọng, nếu không gặp được vợ con mình. Thanh cũng không nói nguyện vọng thứ hai của anh là như thế nào. 

Sau đó một tuần, một buổi chiều tôi ghé thăm Thanh. Qua cửa sổ kiếng của phòng, tôi thấy có hai người đang quây quần kế bên anh. Một người đàn bà hình như là vợ của anh và một cô bé chừng 15-16 tuổi. Tôi đoán chắc là vợ con của anh. Thanh ngó ra và tôi đã thấy ánh mắt của anh. Ánh mắt vừa tỏ vẻ biết ơn nhưng lại đượm buồn thêm một chút gì u uẩn nào khác nữa. Tôi mỉm cười và giơ tay lên chào. Anh gật đầu và cũng mỉm cười lại. Tối hôm ấy, tôi không ghé thăm Thanh như thường lệ, nhưng trong lòng tôi rất vui mừng, vì biết rằng Thanh đã tìm được vợ con của mình. Tình cảnh đã thay đổi vào lúc cuối đời rồi, Thanh cũng nên hoà giải để tâm hồn được an vui và thanh thản một chút. Tôi thầm nghĩ như vậy.

***

Chiều hôm sau, tôi ghé qua thăm Thanh thì phòng nay đã trống. Cô trưởng toán điều dưỡng ở khu này đến gặp tôi báo là Thanh đã đi về San Jose với vợ con mình và nhờ trao cho tôi một cái túi xách bằng nhựa. Bên trong túi xách này có một cái túi xách Pan Am mà tôi đã thấy khi Thanh mới vào nhà thương nơi phòng cứu cấp. Mở cái túi xách Pan Am ra thì trong đó có một túi đồ. Tôi vội mở túi đồ ra thì có một lá thơ và một cái mũ màu ngà đã sờn mòn nứt nẻ nhiều nơi. Tay run run tôi cầm mở rộng cái mũ cũ này ra. Vành mũ bên trong có 5 chữ viết bằng mực xanh mà nay tuy nét mực đã mờ loang lổ nhiều nơi, nhưng tôi vẫn nhận ra là nét chữ và tên của mình. Chuyện gì đây? Sao cái mũ này lại ở đây?

Trời ơi thật khó hiểu quá. Tôi không tự chủ nổi, vội ngồi bệt xuống cạnh cầu thang máy và mở lá thư của Thanh ra đọc. 

Vi thân mến,

Rất ngạc nhiên lắm phải không Vi khi nhận lá thư này. Xin lỗi Vi cho Thanh được gọi tên Dr. V một cách thân mật nhe. Mình đã học chung với nhau ở Đại Học Khoa Học mà Vi vô tình không còn nhớ Thanh nữa đó Vi. Thanh là người hay ngồi đàng sau lưng của Vi khi mình học môn Sinh Lý Sinh Hoá của bà Phiêu (vợ Bác Sĩ Trần Nguơn Phiêu) dạy.

Có nhiều lần Thanh định làm quen với Vi nhưng không có cơ hội. Một hôm tình cờ thấy Vi bỏ quên cái nón của mình ở trong trường Thanh đã lấy về. Rồi mấy lần định trao lại cho Vi nhưng không đành lòng. Thôi thì cứ giữ một chút gì của Vi để mình thương nhớ.

Cả đời Thanh đã mang cái nón của Vi theo mình hơn 40 năm. Vi ơi, chiếc nón này đã vào sinh ra tử với Thanh khắp bốn vùng chiến thuật, đã trải qua những thăng trầm dâu bể cuộc đời. Thật ra thì Thanh cũng rất hạnh phúc vì lúc nào cũng có cảm tưởng là Vi đang ở cạnh mình.

Hôm Thanh từ giã trường lớp để đi Thủ Đức, có viết thư giã từ với Vi và xin gặp Vi một lần. Thanh đợi suốt cả buổi sáng nhưng không thấy V đến. Khi có dịp thì Thanh cũng cố tìm Vi nhưng Vi đã biệt tích rồi. Nghe phong phanh bạn bè nói là Vi đã chết rồi. Thanh thì không bao giờ tin như vậy.

Ngày đầu vào nhà thương, Thanh đã nhận ra V liền dù thời gian có làm Vi thay đổi, nhưng ánh mắt và nụ cười của Vi không khác xưa. Định nói ra cho Vi rõ nhưng lại thôi. Mọi sự đã muộn màng rồi. Nói ra chi làm bận lòng người bạn của mình.

Bây giờ Thanh xin trao lại chiếc nón này cho chủ cũ của nó. Lòng của Thanh cũng rất thanh thản vì cuối đời được gặp lại Vi. Lại được Vi chăm sóc mấy tuần lễ nay rất chu đáo và có dịp nói chuyện với nhau như hai người bạn thân thiết ngày xưa.

Cảm ơn Vi đã lo lắng và chăm sóc Thanh mấy tuần lễ qua. Cũng xin cảm ơn Vi đã giúp tìm lại con gái của Thanh. Thanh bây giờ xin trao trả lại cái nón cho chủ cũ của nó.

Tất cả tâm tình của Thanh trong mấy chục năm qua cũng xin gửi lại cho Vi. Xin Vi nhận vì đây là nguyện vọng thứ hai và cuối cùng của Thanh.

Vĩnh biệt nhé.

Thanh 

Nước mắt tôi đã rơi ướt đẫm trên thư của Thanh hồi nào tôi cũng không biết. Thật cả một chân tình mà tôi vô tình không rõ.

Nếu Thanh biết rằng năm xưa, khi nhận được thư của Thanh, dù không biết Thanh là ai, tôi cũng đã bâng khuâng, nửa muốn đến gặp người bạn này trước khi lên đường nhập ngũ, nửa lại ngại ngùng. Nhưng giờ cuối cùng thì tôi có đến chỗ Thanh đã hẹn, nhưng đã muộn vì xe cam-nhông đã chuyển bánh trên đường vào Thủ Đức. Nếu biết vậy thì Thanh cũng có phần nào an ủi. Thôi cũng là số mệnh! 

Và Trời ơi! Bây giờ tôi lại mất đi thêm một người bạn cho cái bệnh ung thư quỷ quái này nữa rồi. Cả đời tôi đã làm việc không biết mệt để đem một chút gì hiểu biết về ung thư ra chia sẻ cho người đời qua những buổi thuyết trình, hướng dẫn, hỗ trợ để ngăn ngừa hay tìm kiếm ung thư sớm. 

Phải chi tôi gặp lại Thanh sớm hơn để có dịp khuyên Thanh nên ngừng hút thuốc, để tìm kiếm bệnh này sớm thì biết đâu Thanh sẽ không đến nỗi phải bó tay như bây giờ. Phải chi ...phải chi…

Cả một nỗi niềm hối tiếc ân hận đè nặng trĩu trong lòng tôi. Tôi biết cuộc hành trình để tìm kiếm và diệt trừ ung thư của tôi vẫn còn dài đăng đẵng không biết bao giờ cho xong.

***

Ở trên đời có những mối tình như cơn lốc, khi qua rồi thì để lại những tàn phá đau thương. Cũng có những mối tình đơn phương, nhẹ nhàng, thâm trầm và sâu sắc để lại cho tâm hồn tràn đầy những kỷ niệm như những hương xưa, những kỷ vật đơn sơ, những lời thơ mộc mạc, những nụ cười bâng khuâng, hay một bản nhạc thân tình. Xin hãy trân quý gìn giữ những mối tình này, vì tất cả có thể làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc và ấm áp cõi lòng, vì biết rằng đâu đó trên cõi đời này, có một người nào đó lúc nào cũng nhớ và yêu thương mình. Khi có dịp để lo lắng cho nhau thì cũng nên hết lòng hỗ trợ để biết đâu mình có thể duy trì sức khoẻ hay mạng sống cho những người thân mến này. 

Tôi đang trầm ngâm suy nghĩ thì có tiếng gõ cửa phòng và giọng Jenny :

- Dr. V, có một cô bệnh nhân mới đến phòng số 32, 43 tuổi, người Việt, bị ung thư ngực tới thời kỳ thứ 4, xin Dr. V giúp tụi em một chút nhe. Jenny năn nĩ.

- Được Jenny, tôi sẽ đến liền. Tôi trả lời. 

Lại thêm một ngày nữa và đời sống mọi người cứ đi vòng quanh như vậy, theo những lối đi mà định mệnh đã an bày. Như nước của những dòng sông cứ theo phương hướng đã định trước mà tụ tập về lòng đại dương. Thôi thì ta hãy an vui với số phận của mình, hãy tiếp tục cuộc hành trình mà mình đã chọn lựa, và cứ ấp ủ những mối tình mà mình đã có trong tâm hồn, vì đó là những nguồn hạnh phúc mà không ai lấy đi được. Tôi thầm nhủ, với những hành trình dài và gập ghềnh trong cuộc sống mà mình còn giữ được những tâm tình như vậy thật không phải là hạnh phúc và may mắn lắm sao?
Võ Quách Thị Tường Vi
Sài Gòn, Hạ Trắng, tháng Sáu 2013