Saturday, February 10, 2018

Tầu Chệt Sử Dụng AI Vào Camera An Ninh Giúp Bắt Tội Phạm



Trung Quốc Sử Dụng AI Vào Camera An Ninh Giúp Bắt Tội Phạm

AI đang dần được ứng dụng rộng rãi hơn vào đời sống và nay là cả hệ thống giám sát an ninh. Tuy nhiên nếu không cẩn thận, đây có thể là con dao hai lưỡi nếu AI bị một thế lực xấu lợi dụng cho những điều mờ ám.
Hệ thống camera giám sát giờ đây đã trở thành một thứ không thể thiếu tại các giao lộ, đường phố, ngân hàng hay ngay ở chính cửa nhà của mỗi gia đình. Tuy nhiên xu hướng sử dụng camera an ninh kết hợp cùng trí tuệ nhân tạo chỉ mới xuất hiện gần đây.
Cụ thể, đài truyền hình TW Trung Quốc CCTV đã tích hợp trí tuệ nhân tạo vào hệ thống camera an ninh, giúp hỗ trợ và kiểm soát tình hình tội phạm tại Trung Quốc.
IC Realtime (Mỹ) và giải pháp phần mềm Ella là đơn vị cung cấp hệ thống kiểm soát tội phạm bằng AI cho CCTV và các cơ quan chức năng nước này.
Theo Futurism, phần mềm Ella chạy trên nền tảng Google Cloud, sử dụng AI để phân tích cảnh quay và trả về kết quả tìm kiếm dựa vào hàng trăm ngàn truy vấn bằng ngôn ngữ tự nhiên.
Ella cho phép người dùng có thể tìm kiếm một thứ gì đó thông qua dữ liệu cảnh quay bằng cách tập trung truy tìm các dấu hiệu quan trọng như màu sắc quần áo hay hình dạng, biển số ôtô.
Cảnh quay sau đó sẽ được sắp xếp lại dựa theo khoảng thời gian, tổng hợp lại dưới dạng biểu đồ và xếp hạng dữ liệu để cải thiện chất lượng truy vấn trong tương lai.
Ella không sở hữu quá nhiều chức năng nhưng giải pháp phần mềm ứng dụng AI này có ý nghĩa vô cùng quan trọng với công tác giám sát và thực thi pháp luật.
Các nhà điều tra sẽ không còn mất hàng giờ chỉ để rà soát lại những đoạn băng ghi hình hay chia lực lượng để truy tìm đối tượng khả nghi. Thay vào đó, Ella sẽ giúp giảm đáng kể thời gian tìm ra và bắt giữ nghi phạm.
Ngoài phục vụ công tác điều tra an ninh, IC Realtime cũng nhắm tới nhóm khách hàng doanh nghiệp và cả người tiêu dùng cá nhân muốn bảo vệ tài sản gia đình hoặc tài sản công ty.
Theo The Verge, IC Realtime không phải là công ty đầu tiên phát triển công nghệ AI hỗ trợ giám sát thông qua camera.
Trong khi IC Realtime cung cấp các phân tích dữ liệu dựa vào dữ liệu đám mây và phần mềm thì đã có nhiều công ty khác tích hợp trực tiếp cả AI vào trong phần cứng, đơn cử như Boulder AI.
Lợi ích lớn nhất của việc tích hợp AI vào trong phần cứng là việc không bị phụ thuộc vào kết nối Internet.
Công nghệ giám sát ứng dụng AI có thể trở thành con dao hai lưỡi nếu sử dụng sai mục đích
Nhiều người tỏ ra hoài nghi về những chiếc camera an ninh trong tương lai có thể bị lạm dụng trở thành một công cụ giám sát tiêu cực, phục vụ cho những mưu đồ xấu nhằm theo dõi tất cả mọi người.
Ở Trung Quốc, một nơi có hơn 170 triệu camera của kênh truyền hình TW Quốc gia CCTV và dự kiến có thể tăng lên hơn 400 triệu camera vào năm 2020, nguy cơ hệ thống giám sát bị lạm dụng là rất cao.
Mới đây, phóng viên John Sudworth của đài BBC đã quyết định thử xem khả năng phát hiện khuôn mặt của hệ thống camera giám sát tại Trung Quốc nhanh đến như nào.
Và kết quả khá bất ngờ, chỉ mất chưa đầy 7 phút, trí tuệ nhân tạo và hệ thống camera giám sát đã phát hiện ra John Sudworth tại sân bay khi anh đang cầm trên tay chiếc gậy selfie để quay video.
Cũng chính bởi tốc độ truy tìm đối tượng nhanh chóng nên hệ thống giám sát ứng dụng AI có nguy cơ bị chính phủ thao túng và lạm dụng rất lớn.
Trên khắp Trung Quốc, camera trang bị AI được sử dụng khá rộng rãi, một số có thể phát hiện khuôn mặt, ước tính tuổi tác và giới tính. Những chiếc camera an ninh đặc biệt này sử dụng dữ liệu xác thực cá nhân hay mối quan hệ của mỗi người để xác định khuôn mặt và danh tính.
Theo chia sẻ của những người trong cuộc, hệ thống giám sát trên sẽ chỉ trích xuất dữ liệu khi có ai đó cần giúp, ngược lại sẽ không có bất cứ dữ liệu nào được thu thập.
Nhưng đó mới chỉ là thông tin một chiều và ít ai dám khẳng định rằng, những dữ liệu giám sát hoặc thu thập trên không bị lợi dụng vào một mục đích nào khác.
Ella mang tới tiềm năng ứng dụng công nghệ vào việc hỗ trợ cảnh sát bắt giữ tội phạm rất hiệu quả. Nhưng bù lại, sự riêng tư của mỗi người dân giờ đây sẽ không còn nếu không muốn nói là bị giám sát 24/7.
Tuy nhiên cho tới lúc hệ thống giám sát đạt tới cấp độ cao nhất, xã hội chắc chắn sẽ phải cân nhắc và quyết định họ muốn điều gì. Tự do hay hiệu quả đem lại.


Kim Jong-un mời tổng thống Nam Hàn thăm Bình Nhưỡng


Kim Jong-un mời tổng thống Nam Hàn thăm Bình Nhưỡng
Đây sẽ là hội nghị thượng đỉnh đầu tiên trong hơn một thập kỷ giữa các nhà lãnh đạo hai miền Triều Tiên.
Ông Moon nói rằng các bên Triều Tiên nên "làm cho điều này xảy ra" và khuyến khích miền Bắc quay lại đàm phán với Mỹ.
Thư mời viết tay được bà Kim Yo-jong, người em gái có nhiều ảnh hưởng của lãnh đạo Bắc Hàn, chuyển cho lãnh đạo Nam Hàn trong một cuộc họp mang tính bước ngoặt tại dinh tổng thống ở Seoul, trong dịp Thế vận hội mùa đông khai mạc.
Bà Kim và một lãnh đạo khác của miền Bắc, ông Kim Yong-nam, là hai thành viên hàng đầu, hợp thành đoàn quan chức cao cấp nhất từ miền phía Bắc đến thăm miền Nam kể từ cuộc chiến Triều Tiên vào những năm 1950.
Các nhân vật quan trọng từ hai quốc gia trên bán đảo Triều Tiên chia sẻ món Kimchi (món bắp cải muối truyền thống) và rượu gạo soju, và nói chuyện trong ba giờ.
Bà Kim đã mời ông Moon đến thăm Bắc Hàn "vào thời điểm sớm nhất có thể", một phát ngôn viên của dinh tổng thống Nam Hàn nói.
Theo thông tin trên Twitter của trưởng văn phòng Washington Post tại Tokyo, bức thư viết tay mà bà Kim chuyển cho lãnh đạo Hàn Quốc tại phủ tổng thống, bày tỏ hy vọng rằng "Bình Nhưỡng và Seoul sẽ trở nên gần gũi hơn trong lòng người dân hai miền Triều Tiên" và vì sự "thống nhất và thịnh vượng trong tương lai gần".

'Không cho phép tuyên truyền'
Phát ngôn viên của tổng thống Hàn Quốc Kim Eui-kyeom nói: "Tổng thống Moon trả lời bằng cách nói rằng hai bên nên làm việc để tạo các điều kiện nhằm thực hiện cuộc gặp."
Tổng thống Nam Hàn yêu cầu cả hai việc là Bắc Hàn mở lại cuộc đối thoại với Hoa Kỳ, và các miền Triều Tiên mở các cuộc đối thoại.
Văn phòng của ông Moon nói rằng hai miền Triều Tiên "đã chia sẻ một sự hiểu biết rằng họ nên tiếp tục tâm trạng tích cực vì hoà bình và thừa nhận lẫn nhau" từ Thế vận hội mùa Đông.
Tuy nhiên, chương trình hạt nhân của Bình Nhưỡng sẽ còn phủ bóng kéo dài lên bất kỳ nỗ lực nào đưa hai quốc gia trở lại gần nhau hơn.
Về phần mình, cuộc tiếp xúc giữa quan chức hai miền Triều Tiên diễn ra sau khi Hoa Kỳ đã cảnh báo về cuộc tấn công 'quyến rũ' của Bắc Hàn trong Thế vận hội.
Các phóng viên nói rằng lời mời trên đặt ông Moon vào một vị trí khó khăn khi ông vận động cho một lời hứa sẽ liên kết với Bắc Hàn, nhưng những động thái của ông theo hướng đó trái với mong muốn của người đồng minh Hoa Kỳ
Trước đó, Phó Tổng thống Hoa Kỳ Mike Pence đã chạm mặt ông Kim Yong-nam trong Thế vận hội nhưng cả hai cố gắng tránh trực tiếp đối diện nhau, theo báo cáo của hãng tin Yonhap.
Tại lễ khai mạc Thế vận hội, ông Pence, bà Kim Yo-jong và ông Kim Yong-nam đã ngồi gần nhau.
Ông Pence vẫn ngồi khi các vận động viên của nước chủ nhà tiến vào đấu trường cùng với những vận động viên từ miền Bắc.
Hôm thứ bảy, ông Pence ra thông điệp trên Twitter rằng Hoa Kỳ sẽ không "cho phép chế độ tuyên truyền của Bắc Hàn không bị thách thức trên trường quốc tế ".


Tết Mậu Thân 1968 và văn chương



Tết Mậu Thân 1968 và văn chương
TTTVN
2018-02-02
Năm mươi năm trôi qua, khoảng thời gian vừa đủ cho một đứa bé ra đời, lớn lên, tập tễnh vào đời, va đập cuộc sống và lần mò bước qua bên kia dốc cuộc đời để chiêm nghiệm về đời người, về nhân tình thế thái. Ấy cũng là khoảng thời gian mà vết đau lịch sử vẫn còn âm ỉ, đúng nửa thế kỉ trước, trong khoảnh khắc giao thừa Tết Mậu Thân, những tiếng súng khai cuộc tổng tiến công từ những người lính Cộng sản Bắc Việt khiến cho người dân miền Nam ngỡ đó là tiếng pháo nổ, để rồi vài mươi giờ sau, một biến cố tan thương khảm dấu vào lịch sử. Và suốt chiều dài nửa thế kỉ, những xác người vẫn còn lẩn khuất đâu đó giữa lòng đất mẹ oan khiên!
Cuộc chiến Mậu Thân 1968 đã đi vào văn chương như một vết đau khôn nguôi, những tác phẩm văn chương như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, hồi ký Không Biên Giới của Nguyễn Thị Thanh Sung, Bài Ca Viết Cho Những Xác Người và hát Trên Những Xác Người của Trịnh Công Sơn, Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy của Trầm Tử Thiêng, Chuyện Một Đêm của Anh Bằng, Dáng Đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân…
Có thể nói số lượng tác phẩm văn chương cả hai phía Nam và Bắc vĩ tuyến 17 viết về chiến trận Mậu Thân 1968 không hề nhỏ, trong đó, có một số tác phẩm của các nghệ sĩ miền Nam Cộng Hòa đã thành bất hủ, sự hiện hữu của tác phẩm như một chứng tích tâm hồn về một cuộc binh biến đau thương. Và nỗi đau này đã vượt thời gian, thấm đẫm tâm hồn những thế hệ sau.
Nhắc về tác phẩm văn chương trong cuộc binh biến Mậu Thân 1968, nhạc sĩ Đynh Trầm Ca, người đoạt giải Kim Khánh những năm đầu thập niên 1960 với ca khúc Ru Con Tình Cũ, chia sẻ: “Mậu Thân, sau cái thảm họa đó thì những tác phẩm nó ra đời và gây sự xúc động lớn, như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, như âm nhạc thì có Trầm Tử Thiêng – chuyện một chiếc cầu đã gãy... Họ không lên án hay gì cả nhưng các tác phẩm này gây xúc động, bởi vì các tác phẩm này đánh đúng vào thời điểm đó, cái thật của cuộc chiến đó. Sau Mậu Thân thì các tác phẩm văn học miền Nam xoay quanh cuộc chiến này như một sự tưởng niệm...”.
Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca chia sẻ thêm là hiện tại, trí nhớ của ông không còn được minh mẫn như trước đây vài năm bởi chứng tia biến não. Nhưng những cảm xúc, những nỗi đau mất mát trong chiến rtanh thì không bao giờ nguôi trong tâm hồn một nghệ sĩ. Nhắc về chiến tranh, giọng ông trở nên xúc động bồi hồi, ông nhắc tên những tác phẩm văn chương như đang gọi tên những người bạn thiết đã lâu ngày không gặp.
Có thể nói rằng tác phẩm viết về chiến cuộc Mậu Thân 1968 gồm nhiều thể loại, nhưng có hai góc nhìn riêng biệt, góc nhìn của các nghệ sĩ phiá Nam vĩ tuyến 17 thiên về nỗi đau, nỗi mất mát, xuyên suốt tác phẩm văn chương, thi ca của miền Nam Việt Nam là nỗi đau, cái nhìn nhân ái và những trăn trở nhân sinh về kiếp người, về chiến tranh cũng như những di họa của nó.
Ngược lại, các tác phẩm văn chương nghệ thuật của các nghệ sĩ Bắc vĩ tuyến 17 mang đậm tính chất anh hùng ca, mỗi ca từ, câu văn, cú pháp trong mỗi tác phẩm như những phát súng xung trận, nhuốm màu khói lửa, tiếng hô xung phong và hò reo chiến thắng.
Nhà văn, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, người vừa từ bỏ chức danh Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, nhận xét: “Cuộc chiến Mậu Thân hình như chỉ có một cuộc chiến tiêu biểu của ông Xuân Thiều, đại tá quân đội. Ngay cả Đất Trắng của Nguyễn Trọng Oánh, viết những năm 1978, 1979 cuốn này nói về một cấp chỉ huy,cấp chính ủy của phía Bắc chịu không nổi gian khổ đã ra đầu hàng phía Nam...Có thể đây là lần đầu tiên văn học miền Bắc nói đến chuyện đầu hàng trong chiến tranh...”.
Nhưng có một thực tế là cho dù những tác phẩm của các nghệ sĩ phía Bắc vĩ tuyến 17 cho dù mang tính xung trận, mang hơi hướm tuyên truyền nhưng vẫn không giấu được giọt nước mắt trong sâu thẳm tâm hồn của người nghệ sĩ. Cuộc chiến tử sinh, một chiến cuộc đã lấy đi quá nhiều sinh mạng đồng đội của họ, cho dù đứng trên biên kiến nào thì nỗi đau, nỗi mất mát vẫn là điều không thể giấu được.
Điều này trở nên rõ ràng hơn trong tác phẩm Nỗi Buồn Chiến Tranh của nhà văn Bảo Ninh. Bảo Ninh không viết về cuộc chiến Mậu Thân 1968, ông viết về nỗi đau chung của chiến tranh, trong đó có cả bóng dáng của chiến dịch Mậu Thân và chiến dịch Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Với ông, chiến tranh là một nỗi buồn, và nỗi buồn này đeo đăng suốt một thế hệ, nhiều thế hệ mà chiến tranh đã để lại vết tích trên thân thể lịch sử của nó.
Cuộc chiến trong mắt Bảo Ninh là một ván bài mà ở đó, tất cả đều thua, không hề có người thắng cuộc, kẻ thắng cuộc ẩn danh duy nhất mà ông tiết lộ có lẽ là hố chôn bộ bài cũng như nỗi ám thị thắng thua trên mặt quân bài. Và chiến tranh đã lấy đi cái đẹp, lấy đi tuổi xuân, lấy đi tính nhân văn của con người một cách không thương tiếc.
Với nhà văn từng sống, trải nghiệm tuổi thơ chiến tranh ở Sài Gòn như nhà thơ Đỗ Trung Quân, ông chia sẻ: “Cho mình xem thử tác phẩm văn chương về Mậu Thân 1968? Mình chưa thấy! Nếu như nói về chiến tranh, nói về Mậu Thân thì mình đọc những tác phẩm văn học miền Nam, đó là những tác phẩm mô tả nỗi bi thương, nỗi mất mát của chiến tranh chứ không phải là tụng ca hay nói về chiến thắng. Mình không thấy gì ngoài nỗi mất mát...”.
Một cuộc chiến đã đi qua 50 năm, đúng nửa thế kỉ, nhưng cái chết, nỗi đau vẫn như vừa sơ sinh, tiếng khóc và trận gió oan hồn trong cuộc chiến vẫn còn phảng phất đâu đó trong gió tháng Chạp.
Nói cho cùng, chiến tranh là một thứ gì đó làm người ta mất mát quá nhiều và nó chỉ xứng đáng để hồi tưởng, để nhớ, để tưởng niệm và kính cẩn nghiêng mình với sự mất mát, với cái chết, với vết thương dân tộc. Chiến tranh hoàn toàn không xứng đáng để ngợi ca cho dù đứng trên biên kiến nào. Những hành động ngợi ca chiến tranh, ngợi ca sự mất mát không thể ngồi chung với văn minh nhân loại.
Bài viết ngắn ngủi này xin được xem như một sự tưởng tiếc, nghiêng mình kính cẩn trước các oan hồn Việt Nam đã ngã xuống và vĩnh viễn im hơi lặng tiếng trong chiến cuộc Mậu Thân 1968. Bài viết như một nén tâm nhang của thế hệ hậu chiến tranh viết về mối cảm hoài trong một buổi chiều cuối năm, nghĩ về quê hương, đất nước!
Nhóm phóng viên tường trình từ Việt Nam


Dụng Cụ Đo Đường Trong Máu Không Cần Lấy Máu


Đo đường trong máu không cần lấy máu

Vì là dụng cụ mới phát minh nên giá cả có hơi cao.  Quý vị phải trả tiền reader trong khoảng  69.99 tới $96.99 (một lần) và tiền sensor mỗi 10 ngày từ $35.99 tới $52.99 tuỳ theo pharmacy theo bảng dưới đây:
CVS
·         10-day Libre Sensor - $52.99 each (about $159 per month)
·         Reader (one time purchase) - $96.99
Kroger’s/Smith’s:
·         10-day Libre Sensor - $42.99 each (about $129 per month)
·         Reader (one time purchase) - $83.99
Walgreens
·         10-day Libre Sensor - $42.99 each (about $129 per month)
·         Reader (one time purchase) - $84.99
Walmart
·         10-day Libre sensor - $35.99 (about $108 per month) – Walmart noted this price is subject to change
·         Reader (one time purchase) - $69.99 – Walmart noted this price is subject to change.
·         Mời quý vị đọc để biết thêm chi tiết về dụng cụ này:
·         Nnt

Cơ quan kiểm soát và phòng bệnh (FDA) đã chính thức chấp thuận một dụng cụ dùng để theo dõi lượng đường trong máu mà không cần trích máu từ ngón tay. Dụng cụ này do Abbott sáng chế và có tên là FreeStyle Libre Flash Glucose Monitoring System, và là dụng cụ đầu tiên thuộc loại này.




Ngoài việc không phải chịu đau, bệnh nhân cũng sẽ có số liệu chính xác hơn và biểu đồ có thể được vẽ ra qua phần mềm chạy trên điện thoại cầm tay. 
Bảo Sơn

Friday, February 9, 2018

Hãy nói trước ngày chết-Trần Trung Đạo



Hãy nói trước ngày chết

09/01/2018
9-1-2018
Trong lịch sử nhân loại, không có một chủ nghĩa nào tàn bạo hơn chủ nghĩa Cộng Sản.
Từ khi Tuyên ngôn đảng cộng sản ra đời năm 1848 cho đến khi bức tường Bá Linh bị đập đổ vào năm 1989, khoảng gần 100 triệu người từ nhiều quốc gia đã bị giết. Hơn hai mươi năm qua, mặc dù ngọn lửa vô thần đã tắt trên phần lớn quả địa cầu, một góc trời phương đông lửa vẫn còn đỏ rực, nhà tù vẫn còn giam giữ nhiều người bất đồng với chế độ độc tài toàn trị và tự do vẫn là một bóng mây xa.
Người đời có thói quen kết án Stalin đã gây ra tội ác tày trời đối với nhân dân Liên Xô, Mao Trạch Đông đã giết trên 30 triệu nhân dân Trung Cộng và Pol Pot tiêu diệt một phần tư dân tộc Khmer bằng súng và cả bằng dao phay, cán cuốc. Những chuyện đó ngày nay nhân loại đều biết và tội ác của chúng không còn là vấn đề tranh cãi nữa. Tuy nhiên, làm thế nào một nông dân có gốc gác bình thường, nếu không muốn nói là hiền lành như Mao lại có thể trở thành sát nhân của mấy chục triệu dân Trung Quốc? Làm thế nào Pol Pot, con của một điền chủ giàu có, được gởi sang Pháp ăn học, được bạn bè nhớ lại như một người nhã nhặn, lịch sự và được gọi là trí thức trong xã hội Khmer còn chậm tiến lúc bấy giờ, nhưng sau khi nắm chính quyền đã giết hai triệu dân Khmer bằng búa, dao và những cách giết người tàn bạo hơn cả trong thời Trung Cổ?
Bởi vì chủ nghĩa Cộng Sản trang bị cho chúng một quyền lực tuyệt đối, một niềm tin cuối cùng, một lối thoát tinh thần, một chỗ dựa lý luận để giải thích cho hành động bất nhân của chúng. Nuon Chea, người đứng hàng thứ hai của chế độ Khmer Đỏ chỉ sau Pol Pot, lạnh lùng trả lời báo chí, những kẻ bị giết chỉ vì “họ là kẻ thù của nhân dân”. Đơn giản vậy thôi. Chúng ăn rất ngon và ngủ rất yên dù sau một ngày ký hàng loạt bản án tử hình.
Giết một vài đối thủ thì không sao nhưng để loại bỏ hàng triệu người là chuyện khác. Stalin không thể lên tận các trại lao động khổ sai ở Siberia để bỏ đói những người chống đối y. Mao Trạch Đông không thể xuống từng trường học để tra tấn các thầy cô trong Cách Mạng Văn Hóa, Hồ Chí Minh không thể đích thân xử bắn bà Nguyễn Thị Năm trong Cải Cách Ruộng Đất. Nhưng họ có khả năng huấn luyện, đầu độc một thế hệ đao phủ thủ trẻ tuổi hăng say và cuồng tín để làm thay. Quyền lực đặt vào tay đám đao phủ thủ trẻ này chẳng khác gì con dao bén để chúng thanh toán những mối thù riêng và lập công dâng Đảng.
Tháng 10 năm 2002, nhà báo Mỹ Amanda Pike đến Campuchia để tìm hiểu nguyên nhân tội ác diệt chủng của Pol Pot đã không được làm sáng tỏ. Amanda Pike phỏng vấn bà Samrith Phum, người có chồng bị Khmer Đỏ giết. Theo lời kể của bà Samrith Phum, vào nửa đêm năm 1977 chồng bà bị một Khmer Đỏ địa phương bắt đi và giết chết vì bị cho là “gián điệp CIA”. Hung thủ chẳng ai xa lạ mà là người cùng làng với bà Samrith. Hiện nay, kẻ giết người vẫn còn sống nhởn nhơ chung một làng với bà cách thủ đô Nam Vang vài dặm nhưng không một tòa án nào truy tố hay kết án.
Với chủ trương “Dân tộc Khmer cần đào hố để chôn đi quá khứ”, Hun Sen đã cản trở Liên Hiệp Quốc rất nhiều trong việc điều tra tội diệt chủng của chế độ Pol Pot. Hun Sen cản trở vì bản thân y cũng từng là một sĩ quan Khmer Đỏ. Hun Sen nhiệt tình với lý tưởng CS đến mức bỏ học theo Pol Pot khi còn trong tuổi thiếu niên. Nhiều chi tiết trong quãng thời gian từ 1975 đến 1979 của cuộc đời y vẫn còn trong vòng bí mật. Khi chôn quá khứ của Campuchia, Hun Sen muốn chôn đi quá khứ tội lỗi của mình.
Tình trạng kẻ sát nhân và gia đình những người bị sát hại vẫn còn sống chung làng, chung xóm, chung thành phố không chỉ phổ biến tại Campuchia nhưng cũng rất phổ biến tại Huế sau vụ Thảm sát Tết Mậu Thân 1968.
Số người bị giết trong vụ Thảm sát Tết Mậu Thân khác nhau tùy theo nguồn điều tra nhưng phần lớn công nhận số người bị giết lên đến nhiều ngàn người và “kẻ thù nhân dân” không chỉ là công chức chính quyền VNCH mà còn rất đông sinh viên, học sinh, phụ nữ, trẻ em và ngay cả một số giáo sư ngoại quốc.
Ông Võ Văn Bằng, Nghị viên tỉnh Thừa Thiên và cũng là Trưởng Ban Truy Tìm và Cải Táng Nạn Nhân Cộng Sản Tết Mậu Thân, kể lại: “Các hố cách khoảng nhau. Một hố vào khoảng 10 đến 20 người. Trong các hố, người thì đứng, nào là nằm, nào là ngồi, lộn xộn. Các thi hài khi đào lên, thịt xương đã rã ra. Trên thi hài còn thấy những dây lạt trói lại, cả dây điện thoại nữa, trói thành chùm với nhau. Có lẽ, họ bị xô vào hố thành từng chùm. Một số người đầu bị vỡ hoặc bị lủng. Lủng là do bắn, vỡ là do cuốc xẻng”.
Tài liệu liên quan đến Thảm sát Tết Mậu Thân rất nhiều, từ điều tra của các nhà nghiên cứu nước ngoài cho đến các nhân chứng sống Việt Nam. Đến nay, thành phần được nghĩ đã gây ra biến cố đầy tang thương cho dân tộc Việt Nam này là những người Huế “nhảy núi”. Họ là những người bỏ trường, bỏ làng xóm, bỏ cố đô lên rừng theo CS và Tết Mậu Thân đã trở lại tàn sát chính đồng bào ruột thịt của mình. Họ là những kẻ vừa được giải thoát khỏi nhà giam Thừa Phủ đưa lên núi huấn luyện vài ngày rồi trở lại giết chết những kẻ bị nghi ngờ đã bỏ tù họ.
Không giống quân đội chính quy tấn công Huế, những du kích nằm vùng, những thanh niên, sinh viên, học sinh là những người sinh ra và lớn lên ở Huế, thuộc từng tên phố tên đường, biết tên biết tuổi từng người. Họ lập danh sách và đến từng nhà lừa gạt người dân bằng cách “mời đi trình diện” rồi sẽ trả về nhà ăn Tết. Những người nhẹ dạ đi theo. Mà cho dù không nhẹ dạ cũng chẳng ai nghĩ mình sắp bị chôn sống chỉ vì làm chức liên gia trưởng của năm bảy gia đình, ấp trưởng một ngôi làng nhỏ, xã trưởng của vài trăm dân. Kết quả, từng nhóm, từng đoàn người lần lượt bị đem ra “tòa án nhân dân” và kết án tử hình.
Người “nhảy núi” nổi tiếng nhất là Hoàng Phủ Ngọc Tường.
Ngày 12 tháng 7 năm 1997, Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời câu hỏi của nhà văn Thụy Khuê về sự liên quan của ông đối với vụ Thảm sát Tết Mậu Thân : “Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966, và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu Thân 1968, tôi không có mặt ở Huế” và ông cũng thừa nhận Thảm sát Tết Mậu Thân là có thật chứ chẳng phải “Mỹ Ngụy” nào dàn dựng “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.
Khi được hỏi ai là những người phải chịu trách nhiệm, Hoàng Phủ Ngọc Tường phát biểu “Nhưng tôi tin rằng đây là một sai lầm có tính cục bộ, từ phía những người lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” và tiếp tục nêu thêm chi tiết chính Đại tá Lê Minh, tư lệnh chiến dịch Huế Mậu Thân thừa nhận trong tạp chí Sông Hương “Dù bởi lý do nào đi nữa, thì trách nhiệm vẫn thuộc về những người lãnh đạo mặt trận Mậu Thân, trước hết là trách nhiệm của tôi”.
Tóm lại, Hoàng Phủ Ngọc Tường trong buổi phỏng vấn dành cho nhà văn Thụy Khuê xác nhận ông ta không có mặt ở Huế trong suốt thời gian Huế bị CS chiếm đóng và những kẻ sát hại thường dân vô tội là do các “lãnh đạo cuộc tấn công Mậu Thân ở Huế” chủ trương.
Tuy nhiên 15 năm trước đó, ngày 29 tháng 2 năm 1982, trong buổi phỏng vấn truyền hình dài 15 phút dành cho hệ thống WGBH, Hoàng Phủ Ngọc Tường thừa nhận việc dư luận đang tố cáo ông là đúng, nghĩa là chính ông đã có mặt tại Huế: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu… Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra.” và ông cho rằng một số người dân Huế chết thảm thương là do sự trả thù của chính người Huế với người Huế “chính nhân dân đã căm thù quá lâu, đó là những người đã bị chính nó tra tấn, chính nó đã làm cho tất cả gia đình phải bị đi ở tù ra ngoài đảo v.v. và đến khi cách mạng bùng lên họ được như là lấy lại cái thế của người mạnh thì họ đi tìm những kẻ đó để trừ như là trừ những con rắn độc mà từ lâu nay nếu còn sống thì nó sẽ tiếp tục nó gây tội ác trong chiến tranh”.
Nếu phân tích theo thời gian và diễn biến chính trị thế giới, đặc biệt sự sụp đổ của phong trào CS quốc tế, câu trả lời của Hoàng Phủ Ngọc Tường vào năm 1982 là thành thật và sát với thực tế Mậu Thân nhất.
Trong giai đoạn chuyên chính vô sản vài năm sau 1975, không chỉ ông ta mà cả các lãnh đạo CSVN vẫn nghĩ “con đường tất yếu” là con đường “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Không có một thế lực nào cản trở sức chảy của “ba dòng thác cách mạng”.
Vào thời điểm 1982, Hoàng Phủ Ngọc Tường chẳng những không sợ gì phải che giấu mà còn xem đó như một thành tích cần được nêu ra. Xem đoạn phim, khuôn mặt Hoàng Phủ Ngọc Tường đằng đằng sát khí khi diễn tả việc giết một viên chức VNCH: “chỉ lấy lại mạng sống của một người, giá đó rất nhẹ và công bằng”.
Thái độ đó hoàn toàn khác với giọng ôn tồn khi ông ta nhắc lại lời của Đại tá CS Lê Minh như thay cho chính mình 15 năm sau “bây giờ, là những người lãnh đạo kế nhiệm ở Huế, phải thi hành chính sách minh oan cho những gia đình nạn nhân Mậu Thân, trả lại công bằng trong sáng và những quyền công dân chính đáng cho thân nhân của họ”.
Thời gian đổi thay, lịch sử đổi thay và con người cũng thay đổi. Không phải chỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường mà cả những cựu lãnh đạo CS Đông Âu, một thời giết người không chút xót thương, sau 1990 cũng trả lời báo chí với giọng ngọt ngào như thế.
Nhiều bạn hữu của Hoàng Phủ Ngọc Tường như tác giả Ngô Minh viết trên talawas 2008, cho rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường “trong suốt những năm lên “xanh” ở A Lưới, Hoàng Phủ Ngọc Tường không được phân công về thành phố hay đồng bằng một chuyến nào cả” mà không biết hay cố tình bỏ qua sự kiện 26 năm trước chính Hoàng Phủ Ngọc Tường đã xác nhận mình ở Huế với những tình tiết mắt thấy tai nghe của một người trong cuộc.
Hai buổi trả lời phỏng vấn hoàn toàn trái ngược chứng tỏ Hoàng Phủ Ngọc Tường phải có một khó khăn để giải thích sự liên hệ của mình đến vụ Thảm sát Mậu Thân. Lời phát biểu của ông cho thấy một điều, những người bị giết chắc chắn biết người giết mình là ai.
Không giống Hoàng Phủ Ngọc Tường mâu thuẫn, hai ông Nguyễn Đắc Xuân và Hoàng Phủ Ngọc Phan từ trên núi theo đoàn quân CS đánh vào Huế. Hai ông không từ chối điều này nhưng đều phủ nhận đã có liên hệ gì với Thảm sát Mậu Thân. Trong bài viết nhân đọc bài “trịnh công sơn – Những hoạt động nằm vùng” Hoàng Phủ Ngọc Phan khẳng định: “Còn tôi thì có theo chiến dịch về hoạt động ở Thành nội Huế nhưng tôi không hề giết ai cả, suốt gần 10 năm đi kháng chiến cũng không hề làm thiệt mạng một con thú trên rừng chứ đừng nói là con người”.
Nhà văn Nhã Ca kết án ông Nguyễn Đắc Xuân trong Giải Khăn Sô Cho Huế vì đã “đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố để xử tử” và ông Nguyễn Đắc Xuân đáp lại trong bài Hậu Quả Của “Cái Chết” của tôi: “Còn tôi, một sinh viên Phật tử mới thoát ly chưa đầy một năm rưỡi, không có quyền hành gì, nếu tôi muốn làm những việc như Nhã Ca viết thì cũng không thể làm được. Không ai cho tôi làm. Nếu tôi tự ý làm, làm sao tôi có thể thoát được sự phê phán của đồng chí đồng sự của tôi, đặc biệt là những người sau nầy không còn đứng trong hàng ngũ kháng chiến nữa…”
Chuyện “thoát ly chưa đầy một năm rưỡi” không chứng minh được ông ta không có quyền giết người, trái lại cũng có thể giải thích ngược, càng tham gia trễ càng phải chứng tỏ nhiệt tình cách mạng cao độ, càng phải giết nhiều người, càng phải lập nhiều công. Nói thế không phải để đánh bồi thêm một người đã ngã nhưng cho thấy lời biện bạch của ông không thuyết phục.
Trong tinh thần “Lợi ích của sự ngờ” (Benefit of the doubt), tạm cho những lời người khác kể về các ông chưa đủ bằng chứng kết tội, tuy nhiên, các ông Hoàng Phủ Ngọc Phan và Nguyễn Đắc Xuân, những thành viên tích cực của phong trào đấu tranh đô thị, hoạt động 26 ngày trong lòng thành phố Huế bị rơi vào tay các ông với nhiều ngàn người dân vô tội bị giết bằng những cách dã man hơn cả bọn diệt chủng Pol Pot mà các ông nói rằng không biết gì, không thấy gì thì trẻ con ngây thơ cũng không tin được.
Và không chỉ ba ông Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Phan mà cả thế hệ “nhảy núi” ở Huế trong đó rất nhiều nhà nghiên cứu văn hóa, nhà văn, nhà thơ, họa sĩ, nhạc sĩ cho đến nay vẫn không biết gì, không thấy gì, không viết gì về Thảm sát Tết Mậu Thân thì quả là chuyện lạ.
Hãy thử đặt mình trong vị trí của gia đình các nạn nhân vụ Thảm sát Huế, các ông có nghĩ rằng chính Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân hoặc đã giết hoặc biết chắc ai đã giết thân nhân các ông không? Chắc chắn là có, không thể có lời giải thích thứ ba.
Lẽ ra Thảm sát Tết Mậu Thân phải là nguồn thôi thúc cho nhiều tác phẩm văn học lớn nói lên sự đau khổ, sự chịu đựng tận cùng của đồng bào Huế nói riêng và dân tộc Việt Nam nói chung. Lẽ ra những người đang bị dư luận kết án, nếu thật sự không tham dự vào cuộc tàn sát, thay vì than mây khóc gió trong văn chương hay lao đầu vào cơm áo, nên dành phần còn lại của đời mình đi tìm cho ra cội nguồn gốc rễ để vừa giải oan cho đồng bào mà cũng minh oan cho chính mình.
Gia đình nạn nhân còn đó, nhân chứng còn đó, hầm hố còn đó, bạn bè còn đó, chứng tích còn đó, chế độ còn đó. Có thể người đọc vì sự công phẫn chưa nguôi, sẽ không tin hết các điều các ông các bà viết nhưng nếu đúng rồi lịch sử sẽ tin. Nếu không làm thế, cơ chế độc tài này chắc chắn sẽ tàn lụi nhưng tên tuổi Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Nguyễn Thị Đoan Trinh v.v.. mãi mãi vẫn là những dấu đen ngàn đời không phai.
Dư luận khắt khe nhưng không bất công. Suốt 42 năm, các ông các bà có rất nhiều cơ hội để làm sáng tỏ một sự kiện lịch sử mà các ông các bà từng tham dự, nhưng ngoại trừ việc phải trả lời vài buổi phỏng vấn rải rác đó đây, các ông các bà im lặng. Kết án lại những người kết án không phải là cách trả lời mà nhân dân Việt Nam đang muốn biết.
Ông Nguyễn Đắc Xuân được gọi là “nhà Huế học” nhưng Huế không chỉ có sông Hương, núi Ngự, lăng tẩm, đền đài mà còn có Bãi Dâu, Khe Đá Mài, khu Gia Hội và hàng chục ngôi mồ tập thể khác.
Đời sống của một dân tộc không chỉ gồm những thời đẹp đẽ, vinh quang mà còn cả những giai đoạn đau buồn, tủi nhục. Tại sao ông không viết? Phải chăng những người “nhảy núi” ở Huế cũng giống như Hun Sen hay tên Khmer Đỏ giết chồng bà Samrith Phum năm 1977, đang cố chôn đi quá khứ ? Sự im lặng của các ông các bà không phải là một công án thiền mà là lời tự tố cáo lớn tiếng nhất.
Dân tộc Việt Nam đã trải qua nhiều thời kỳ suy vi và phân hóa nhưng sự kiện một số người dã tâm tàn sát nhiều ngàn người Việt khác trong chỉ vài tuần bằng các phương tiện phi nhân chưa từng có như ở Huế là lần đầu.
Vết thương Mậu Thân sẽ không bao giờ lành một khi tội ác chưa được đưa ra ánh sáng. Nền tảng của hòa giải là công lý và sự thật chứ không phải che đậy và lãng quên.
Nhiều tác giả đã viết về Thảm sát Mậu Thân. Những dữ kiện trong bài viết này không có gì mới mà đã được nhắc đi nhắc lại. Dụng ý của kẻ viết bài này chỉ muốn nhấn mạnh một điều rằng, nhiều trong số những người “nhảy núi” còn sống ở Huế hay trong và cả ngoài nước, nhưng chắc không sống bao lâu nữa. Tuổi tác của các ông các bà đều trên dưới bảy mươi. Thời gian còn lại như tiếng chuông ngân đã quá dài. Tất cả sẽ là không. Các ông các bà ra đi không mang theo gì cả nhưng sẽ để lại rất nhiều. Vẫn biết con người khó tự kết án chính mình nhưng các ông, các bà vẫn còn nợ dân tộc Việt Nam, nhất là các thế hệ mai sau, câu trả lời cho cái chết của nhiều ngàn dân Huế vô tội.
Ngọn nến trước khi tắt thường bật sáng, vì tương lai dân tộc, các ông các bà hãy sáng lên sự thật một lần trước ngày chết.
Trần Trung Đạo

Các nữ điệp viên Bắc Hàn nổi tiếng


Các nữ điệp viên Bắc Hàn nổi tiếng
Một máy bay chở khách nổ tung gần bờ biển Đông Nam Á. Các sĩ quan quân đội bị dính "mỹ nhân kế". Một gián điệp được đưa về Bắc Hàn trên chiếc tàu ngầm bé xíu.
Bắc Hàn có lịch sử dùng các nữ gián điệp trong những điệp vụ nguy hiểm nhất. Vì thế, chuyện hai người phụ nữ bị bắt trong vụ được cho là ám sát thành viên sống lưu vong của gia đình đang thống trị Bắc Hàn đã làm dấy lên những đồn đoán Bắc Hàn có liên quan đến vụ ám sát bí hiểm này.
Cơ quan tình báo Nam Hàn cho rằng hai người phụ nữ đã đầu độc ông Kim Jong-nam khi ông đang đứng ở khu mua sắm trong sân bay Kuala Lumpur. Nhưng đến giờ giới chức tiết lộ rất ít thông tin về cái chết của ông Kim cũng như hai người phụ nữ bị bắt.
Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về các nữ điệp viên nổi tiếng nhất của Bắc Hàn.
Kim Hyon-hui1988.
Tháng 11/1987, hai điệp viên Bắc Hàn đóng vai cha và con đặt một quả bom hẹn giờ trên một máy bay Nam Hàn khi chuyến bay này dừng ở Abu Dhabi trên đường từ Baghdad đến Seoul. Máy bay này nổ tung gần bờ biển Myanmar, làm tất cả 115 người trên chuyến bay thiệt mạng, các điều tra viên Nam Hàn cho biết.
Khi hai điệp viên này, sử dụng hộ chiếu Nhật giả, sắp bị bắt ở sân bay Bahrain, nam điệp viên 72 tuổi tự sát bằng cách cắn một điếu cigarette Marlboro đã được tẩm chất độc cyanide. Còn người nữ điệp viên, bà Kim Hyon-hui, bị bắt trước khi tự đầu độc.
Sau khi bị dẫn độ về Seoul, bà Kim, khi đó khoảng 27 tuổi, cho các điều tra viên biết quả bom được cài để phá hoại Olympics Mùa hè Seoul, dự kiến sẽ diễn ra sau đó 10 tháng.
Bà Kim bị kết án tử hình nhưng cuối cùng được tha trên cơ sở bà đã bị các lãnh đạo Bắc Hàn lừa bịp. Bà đã viết nhiều cuốn sách bán chạy nhất và kết hôn với một cựu điệp viên.
Won Jeong-hwa/2014
Bà Won Jeong-hwa, người vào Nam Hàn năm 2001 dưới vai trá hình là một người đào tẩu từ Bắc Hàn, bị bắt và nhận án 5 năm tù giam năm 2008. Giới chức Nam Hàn nói bà đã dùng quan hệ tình dục để lấy các thông tin nhạy cảm từ các sĩ quan Nam Hàn và âm mưu giết các sĩ quan khác. Truyền thông Nam Hàn nhanh chóng đặt cho bà cái tên "Mata Hari Bắc Hàn", theo tên của vũ nữ gốc Hà Lan được Đức cử đi lấy các thông tin mật trong Thế chiến thứ nhất.
Sau khi ra tù, bà Won nói hình ảnh Mata Hari của bà đã bị giới chức và giới truyền thông phóng đại, và bà chỉ dùng quan hệ tình dục làm công cụ tình báo có một lần. Bà nói bà đã phải lòng một sĩ quan cấp thấp.
Bà Won cũng nói bà đã không tuân lệnh giết hai nguồn tin tình báo quân sự Nam Hàn bằng chất độc.
Bà Won gặp khó khăn khi bắt đầu một cuộc sống mới sau khi được thả, vì những tin đồn rằng bà chỉ là một người cung cấp tin tức ở cấp thấp và vai trò của bà bị các công tố viên Nam Hàn phóng đại. Tuy vậy, bà Won khăng khăng bà là một điệp viên được đào tạo bài bản.
Lee Sun-sil
Tháng 10/1992, cơ quan tình báo Nam Hàn thông báo họ đã bắt 62 người vì tội lập chi nhánh bí mật của Đảng Lao động cầm quyền của Bắc Hàn ở Nam Hàn.
Người đứng đầu đạo đảng chính trị ngầm này là bà Lee Sun-sil 75 tuổi, một phụ nữ Bắc Hàn mà giới chức Nam Hàn nói đã hoạt động ở Nam Hàn mười năm.
Bà Lee , được đồn là đứng thứ 22 trong hệ thống chính trị của Bắc Hàn, đã thoát không bị bắt vì bà đã quay lại Bắc Hàn vào thời điểm đảng ngầm này bị phát hiện. Một cựu điệp viên Bắc Hàn bị bắt trong một vụ tương tự vào giữa những năm 90 nói ông đã đi cùng bà về Bắc Hàn năm 1990 trên một chiếc tàu ngầm.
Điệp viên này nói vị lãnh tụ Bắc Hàn Kim Il-sung, ông của lãnh đạo đương thời Kim Jong-un, đã gặp bà Lee hai lần tại biệt thự của ông, và trao cho bà danh hiệu và một chiếc đồng hồ bằng vàng có khắc tên ông.
Bà Lee, một đại biểu Quốc hội của Bắc Hàn, qua đời năm 2000 và được chôn ở nghĩa trang của những người yêu nước tại Bình Nhưỡng, cựu điệp viên này nói.


Bọn Sinh Viên Cộng Sản Miền Nam Giết Thầy Giết Bạn-Bạch Diện Thư Sinh


Vài hàng về tác giả Bạch Diện Thư Sinh

Tên thật: Trần Vinh

Sinh quán: Ninh Bình
Tốt Nghiệp: Cao Học Văn Khoa Saigon
Nhập Ngũ: Khoá 6/70 Tbb Thủ Đức
Tòng sự: Phủ Đặc Uỷ Trung Ương Tình Báo VNCH
Tù Cộng Sản: từ 1975-1988


BỌN SINH VIÊN VIỆT CỘNG GIẾT THẦY GIẾT BẠN

Bạch Diện Thư Sinh

Câu “Đồ lừa thầy phản bạn” xưa nay là một lời mắng chửi thậm tệ. Vậy mà bọn sinh viên Việt Cộng còn tệ hơn thế nữa. Vì cuồng tín theo đảng Cộng sản, bọn này sẵn sàng giết thầy giết bạn một cách tàn ác.
Hồi Tết Mậu Thân 1968 tại Huế
Đêm Mồng Một Tết Mậu Thân 1968, Cộng quân tràn vào thành phố Huế và làm chủ Huế suốt 25 ngày đêm. Trong thời gian này, bọn Cộng sản đã biến Huế thành địa ngục trần gian. Nhiều ngàn người dân Huế bị thảm sát, trong đó nhiều nạn nhân là thanh niên, sinh viên, học sinh và cả trẻ em, phụ nữ.
Chúng giết dân bằng nhiều cách:
đâm bằng lưỡi lê, dùng cuốc đập bể sọ, dùng súng bắn, chôn sống tập thể đang khi nạn nhân bị trói bằng dây điện hoặc lạt tre…
Sau khi Cộng quân bị đánh bật khỏi Huế, lần lượt các nấm mồ tập thể đã được tìm thấy ở trường Gia Hội, Bãi Dâu, chùa Therevada, phía sau Tiểu chủng viện, gần cửa Đông ba, Cồn Hến, Nam Giao, Phú Xuân, cạnh Lăng các vua, khu vực Dòng Thiên An, Phú Xuân,
Phù Lương, làng Châu Chữ, câu An Ninh, trường An Ninh Hạ, Chợ Thông, gần chùa Linh Mụ, truờng Văn Chí, Phú Thứ, Tiên Nộn, Đồng Di, Tây Hồ,
Khe Đá Mài, Khe Lụ, sau làng Đình Môn…
Người dân Huế đã nhận diện trong số những đao phủ thủ, có những tên vốn là giáo chức, là sinh viên, học sinh ở Huế:
Hầu hết những tên này đã từng tham gia vào Lực lượng Học sinh, Sinh viên Quyết tử hồi Phong trào Phật giáo 1966.
Đứng đầu là các tên:
Hoàng Phủ Ngọc Tường (dạy Việt văn),
Hoàng Phủ Ngọc Phan (sinh viên Y khoa năm 2)
Nguyễn Đắc Xuân (sinh viên Sư phạm),
Nguyễn Thị Đoan Trinh (sinh viên Dược),
Trần Quang Long (sinh viên Sư phạm),
Phan Chánh Dinh, tức Phan Duy Nhân,
Hoàng Văn Giàu (phụ khảo Văn khoa),
Nguyễn Thiết (sinh viên Luật),
Bửu Chỉ (họa sĩ),
Trần Vàng Sao (sinh viên),
Ngô Yên Thy (sinh viên Văn khoa),
Trương Quang Ân (học sinh),
Nguyễn Văn Mễ (học sinh)…
*Tội ác của Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Hoàng Phủ Ngọc Tường là một thầy giáo trẻ, dậy Văn giỏi, được giới sinh viên, học sinh Huế ngưỡng mộ, nhưng Tường đã đi theo Cộng sản và trở nên một thành phần cực đoan và tàn bạo. Đến nỗi một số nhà cầm bút gốc Huế xếp Hoàng Phủ Ngọc Tường đứng hàng đầu trong danh sách những đao phủ thủ sát hại dân Huế hồi tết Mậu Thân 1968.
Trong cuốn Biến Động Miền Trung (Trang 110 – 112), tác giả Liên Thành trưng ra 6 bằng chứng để khẳng định:
“Bằng vào một số chứng cớ rõ ràng, minh bạch, tôi xác nhận Hoàng Phủ Ngọc Tường là người chủ tọa phiên tòa án Nhân Dân của chính quyền Cách Mạng, và ra lệnh sát hại 204 người tại trường học Gia Hội thuộc Quận II, thị xã Huế trong Tết Mậu Thân 1968”
(Liên Thành. Biến Động Miền Trung. Tập san Biệt Động Quân xuất bản. Trang 110).
Trong sách, tác giả Liên Thành sung sướng tung hê thầy Tường của mình có “khuôn mặt hiền từ”, “thầy còn giảng dạy cho chúng tôi những lẽ phải, trái, tư cách làm người, đạo đức, và tấm lòng nhân hậu thương yêu mọi người…”
(Sđd. Trang 107).
Ngay sau đó, tác giả Liên Thành thắc mắc hỏi cái gì làm thầy Tường của ông “mù quáng say mê chủ nghĩa Cộng Sản”, để trở “thành một tên ác qủy giết người không gớm tay, say máu người còn hơn qủy dữ” (Sđd.Trang 108).
Thêm vào đó, trong bữa tiệc họp mặt sau 1975, bạn của Tường là Gs. Bửu Ý chỉ mặt Tường mà nói: “Tường, mi là một thằng trí thức sắt máu, hèn hạ, giờ này mi chưa sáng mắt, còn chạy theo liếm đít Đảng nữa hay sao” (Sđd.Trang 109).
Trong bộ phim 10 tập Vietnam History do một đài truyền hình Anh Quốc thực hiện năm 1982 (Roll 29 of Vietnam Project- Feb. 29, 1982- Inteview with Hoang Phu Ngoc Tuong, writer), Hoàng Phủ Ngọc Tường đã được hỏi như sau: “Ông có thể mô tả biến cố về cuộc nổi dậy tại Huế và đặc biệt liên quan đến cuộc thảm sát từ khi ông có mặt tại đây”? Để trả lời, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đổ tội cho đế quốc Mỹ cố tình dựng nên câu chuyện “thảm sát Mậu Thân Huế”.
Tường xác nhận có một số bị giết vì:
Một là họ bắn vào lực lượng cách mạng;
hai là vì họ đã phạm tội bắt bớ, tra tấn, bỏ tù người theo cách mạng cho nên nay bị trả thù. Nhưng Tường cáo giác đa số những xác chết sau này khai quật được ở Huế là nạn nhân đạn bom của Mỹ, cộng với những xác chết bộ đội giải phóng.
Tường nói tiếp :“Chẳng hạn, nó đã bỏ bom rơi vào một bệnh viện nhỏ,
gần chợ Đông Ba. Nó thả bom làm 200 người vừa chết vừa bị thương. Tôi đã đi trên con đường hẻm vào ban đêm, và tôi tưởng rằng tôi đang dẫm trên đống bùn. Thế mà khi tôi bật cái đèn pile lên, máu khắp mọi nơi. Cả một khu vực bị bỏ bom bởi bom đạn Mỹ bắn phá. Và thế rồi, những ngày cuối cùng khi chúng tôi triệt thoái ra khỏi thành phố, kẻ thù của chúng tôi đã thâu lại và đem đi chôn”.
Xin chú ý trong câu trả lời này, Tường xác nhận y có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân 1968. Trong bài Thảm Sát Mậu Thân 1968 Và Luận Điệu Gian Dối Của Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhà văn Huy Phương cũng đặc biệt nhấn mạnh 2 điểm đáng chú ý về câu trả lời trên đây của Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông viết:
“Chính câu hỏi của phóng viên đài truyền hình ở đầu bài đã xác nhận sự thật, vì nếu Tường không có mặt ở Huế, sẽ không có cuộc phỏng vấn này cũng như nội dung câu hỏi được đặt ra ở trên. Mặt khác, sau này chính y không nhớ là mình đã thú nhận chuyện có mặt ở Huế vào phút thứ 6 của đoạn phim này, vào năm 1982, khi Tường mô tả chuyện y đang đi trong những con đường hẻm vùng Đông Ba và đã nói những câu “khi chúng tôi rút lui” hay “tôi là một chứng nhân” nghe rất rõ ràng” (
bacaytruc.com).
Nhưng qua năm 1997,
Hoàng Phủ Ngọc Tường trả lời bà Thụy Khuê trên đài RFI thì thấy có 2 điểm quan trọng khác hẳn câu trả lời phỏng vấn năm 1982.
Một là Tường chối không có mặt tại Huế khi đang diễn ra cuộc thảm sát.
Hai là Tường xác nhận có “những tang tóc thê thảm”
ở Huế do “quân nổi dậy” và nhìn nhận đó là “một sai lầm không thể nào biện bác được”.
Nguyên văn câu trả lời của Tường như sau:
“Người ta cho tôi là một tên đồ tể Mậu Thân ở Huế thì đó là một sự bịa đặt mang ý định vu khống hoàn toàn. Sự thực là tôi đã từ giã Huế lên rừng tham gia kháng chiến vào mùa hè năm 1966 và chỉ trở lại Huế sau ngày 26 tháng 3 năm 1975. Như thế nghĩa là trong thời điểm Mậu thân 1968, tôi không có mặt ở Huế.
Điều quan trọng còn lại, tôi xin tỏ bày ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và đã trở về; ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải chịu cho hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế vào năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc và nhìn từ quan điểm chiến tranh cách mạng”
(Bằng Phong Đặng Văn Âu. Thư gửi Nguyễn Đắc Xuân. 
Batkhuat.net).
Tiền hậu bất nhất. Cái lưỡi (Cộng sản bao giờ cũng) không xương (cho nên) nhiều đường lắt léo!
*Tội ác của Hoàng Phủ Ngọc Phan:
Hoàng Phủ Ngọc Phan, em của Hoàng Phủ Ngọc Tường,
sinh viên Y khoa năm 2 Huế,
đã phạm tội đồng lõa giết chết các giáo sư bác sĩ người Đức (Bs. Slois Alterkoster,
Bs. Raimund Discher,
Bs. Hort Gunther Kranick và vợ)
là thầy của y, bằng cách chôn sống.
Chính tên Hoàng Phủ Ngọc Phan bắn chết 3 anh em ruột: Nguyễn Xuân Kính (sinh 1942, Y khoa Huế, bị bắn chết tại nhà ông nội), Nguyễn Xuân Lộc (sinh 1946, sinh viên Luật Huế, bị bắn chết tại nhà ông nội), Nguyễn Thanh Hải (sinh 1949, sinh viên Văn khoa Huế, bị bắn chết tại trường Văn khoa).
Giết các cháu xong, Phan còn đang tâm bắn chết cả ông nội của 3 sinh viên này là cụ Nguyễn Tín, 70 tuổi.
Sau khi bắt sinh viên Lê Tuấn Văn (sinh viên Văn khoa Huế, là bạn của sinh viên Hải)
đào huyệt tại vườn sau nhà cụ Nguyễn Tín để chôn cụ và 3 người cháu của cụ (xác sinh viên Hải đã được em gái là sinh viên Ban khán sự điều dưỡng Nguyễn Thị Thái Hòa đưa về đây), tên Hoàng Phủ Ngọc Phan hành quyết nốt sinh viên Văn.
(Mậu Thân Huế. Câu Chuyện Của Nguyễn Thị Thái Hòa. 
Wordpress.com).
*Tội ác của Nguyễn Thị Đoan Trinh:
Nguyễn Thị Đoan Trinh, con gái Nguyễn Đóa, là sinh viên Dược Sài Gòn về Huế ăn Tết.
(Hiện nay Đoan Trinh là nữ đại gia tại SàiGòn).
Nguyễn Thị Đoan Trinh được mô tả là “nhất hạng… nữ sát nhân, nữ sát thủ…, y thị cỡi xe Honda, vai mang AK, bất kỳ ai y thị chận hỏi, nếu trả lời là lính, là Cảnh Sát, cán bộ Chính quyền, không cần một câu trả lời thứ hai, y thị nổ sung bắn chết ngay”
(Liên Thành. Sđd. Trang 114).
*Tội ác của Nguyễn Đắc Xuân:
Xuân nổi bật lên trong Đoàn Học sinh, Sinh viên Quyết tử với hàng ngàn đoàn viên hồi phong trào Phật giáo Huế 1966. Rồi “nhảy núi”, hay “lên xanh”, theo Việt Cộng.
Tết Mậu Thân 1968 trở về chỉ huy Lực lượng Học sinh,
Sinh viên Giải phóng Huế. Đồng thời Xuân cùng với Hoàng Phủ Ngọc Phan chỉ huy các Đoàn Thanh niên Võ trang An ninh Bảo vệ Khu phố
(các Đội Tự vệ Thành).
Lực lượng này đã gieo tang tóc kinh hoàng cho dân Huế trong 3 tuần lễ Cộng quân tạm chiếm thành phố này. Xuân và Phan còn dự phần xét xử trong Tòa án Nhân dân do Hoàng Phủ Ngọc Tường chủ tọa và chúng đã kết án tử hình 204 người dân Huế.
Trong hồi ký “Giải Khăn Sô Cho Huế”, tác giả Nhã Ca đã kể về tội ác giết bạn của Nguyễn Đắc Xuân như sau:
“Nguyễn Đắc Xuân, một sinh viên Huế. Thập niên 60 trong phong trào thanh niên sinh viên bị Việt Cộng nằm vùng giật giây, Nguyễn Đắc Xuân làm thơ, tranh đấu, rồi bỏ vào khu theo Việt Cộng. Để rồi MÙA XUÂN 1968 theo Việt Cộng trở lại Huế có mặt trong những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người dân Huế với tội “phản cách mạng”.
Đích thân Xuân đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích với Xuân từ trước,
ra đứng bên hố, để xử tử.
Cậu bạn của Nguyễn Đắc Xuân, tên Tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Nguyễn ĐắcXuân :
- Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm... Hồ chủ tịch muôn năm...
Nhưng mặc Tý năn nỉ, hoan hô, Nguyễn Đắc Xuân vẫn lạnh lùng nổ súng vào người bạn nhỏ của mình không chút đắn đo...”.
Mấy năm trước đây, Nguyễn Đắc Xuân đã viết bài:” Nguyễn Đắc Xuân Đọc Hồi Ký Nhã Ca” để phản bác mọi cáo buộc tội giết dân, giết bạn của y.
Trong đó có đoạn như sau: “…bà đã biết rõ không có chuyện tôi giết người, không có chuyện tôi ngồi xử án ai vậy tại sao bà còn hạ bút viết trong hồi ký những điều ác nhơn đến như thế?
Nếu bà sống với tôi cùng trong một nền pháp luật tôi sẽ đưa bà ra tòa về tội vu khống”. (Nguyễn Đắc Xuân đọc hồi ký Nhã Ca. 
lethieunhon.com).
Thế nhưng, từ Houston, tác giả Bằng Phong Đặng Văn Âu, xưa là bạn “ngồi cùng bàn, cùng lớp” của Nguyễn Đắc Xuân, đã gửi emails qua lại với Xuân. Hai bên trao đổi quan điểm lập trường thẳng thắn với nhau.
Trong thư thứ 2 viết ngày 14.01.2011, tác giả Đặng Văn Âu nói với Nguyễn Đắc Xuân: “Này Nguyễn Đắc Xuân,
Lẽ ra mày phải tỏ ra ăn năn, hối hận về việc mày gây tang tóc cho đồng bào ở Huế để nghiệp chướng của mày vơi đi. Mày đã không làm, mày lại càng gây thêm nghiệp chướng. Mày muốn được người ta gọi là nhà sử học, nhà Huế học phải không?
Cộng sản là một tuồng nói dối từ trên xuống dưới, ai dám nói thật thì bị bỏ tù. Mày có đủ cái dũng để viết SỰ THẬT không, mà đòi viết sử?……
Nguyễn Đắc Xuân à! Tao không thèm chửi mày đâu! Mày là thứ cộng sản tép riu. Mang tiếng giết bạn bè (Trần Mậu Tý) mà mày chỉ được cộng sản thí cho cái chức hội viên Hội Văn Nghệ Sĩ Thừa Thiên thì danh giá gì?!
Hãy sám hối đi! Đừng huyênh hoang cái giọng “chưa biết con ngựa nào tới đích”, nghe lố bịch lắm! Những “trí tuệ hàng đầu” còn chưa biết đàng trước hình thù cái đích ra sao. Cỡ mày mà đòi thách thức thì chú Ba Trương Tấn Sang lên làm Chủ Tịch Nước cũng chẳng có gì lấy làm lạ!”
(danchimviet.info).
xuan_tuongANd9GcTZUHylerBxaoAhDk7DCLIG6uwZOFNw-XI7iVGtSph16VNyJQDCf2_9FdMkrQhpnpvuquanghung
*Nguyễn Đắc Xuân, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Thị Đoan Trinh, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Vũ Quang Hùng
Tội ác của bọn sinh viên, học sinh trong Lực lượng Học sinh, Sinh viên Giải phóng Huế (LLHSSVGP Huế):
Trước khi tấn chiếm Huế vào dịp Tết Mậu Thân 1968, để chuẩn bị cho công tác tạm quản thành phố này, Cộng sản đã lập ra cái gọi là Lực Lượng Liên Minh Dân Tộc Dân Chủ Hòa Bình.
Đứng đầu là:
Gs. Lê Văn Hảo:
Chủ tịch, kiêm Chủ tịch Ủy ban Nhân dân Cách Mạng Thành phố Huế;
Thích Đôn Hậu:
Phó Chủ tịch;
Hoàng Phủ Ngọc Tường:
Tổng Thư ký;
Nguyễn Đắc Xuân:
Phụ trách LLHSSVGP Huế, kiêm Trưởng Đoàn Thanh niên Võ trang An Ninh bảo vệ Khu phố;
Đào Thị Xuân Yến tức Bà Tuần Chi:
Phó chủ tịch Ủy Ban Nhân dân Cách Mạng Thành phố Huế.
Ngoài ra còn có những thành viên cốt cán như:
Tôn Thất Dương Tiềm,
Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đóa và con gái là Nguyễn Thị Đoan Trinh, v.v...
Chính bọn học sinh viên, sinh viên trong LLHSSVGP Huế đã hết sức hung hăng trong việc chỉ điểm giúp Cộng quân lùng bắt và giết hại các bạn học của mình.
Sau này, khi khai quật những mồ chôn tập thể, người ta đã tìm thấy nhiều nạn nhân là học sinh, sinh viên của Huế.
Chẳng hạn như bọn chúng đã dắt bộ đội CS vào nhà thờ Phủ Cam và nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế, rồi gọi tên các sinh viên theo một danh sách và bắt họ mang đi biệt tăm.
Sinh viên Lê Hữu Bôi, cựu Chủ tịch Tổng hội SVSG về Huế ăn Tết cũng bị giết trong dịp này. Trong bài Mậu Thân Huế, Dân biểu Nguyễn Lý Tưởng thuật lại như sau:
“Có hơn 300 người đã bị bắt trong đó có Lê Hữu Bôi, Lê Hữu Bá... hai người nầy từ Nam Giao chạy về Phú Cam hy vọng nơi đây không có VC. Họ đã trốn trong nhà thờ để tránh bom đạn. Những người Phú Cam bị bắt, bị giết tập thể tại khe Đá Mài thuộc vùng núi Đình Môn, Kim Ngọc quận Nam Hòa, Thừa Thiên. Xác chết nằm dưới khe, thịt thối rữa bị nước cuốn trôi đi, chỉ còn sọ và xương lẫn lộn. Tháng 10-1969, sau gần hai năm mới tìm được chỗ đó. Thân nhân đến nhận các dấu vết như thẻ căn cước bọc nhựa, quần áo, đồ dùng, tràng hạt, tượng ảnh. Trong số các di vật nầy có thẻ căn cước của Lê Hữu Bôi (Bôi là Chủ Tịch Tổng Hội Sinh Viên Sai gòn, năm 1963 nổi tiếng qua phong trào tranh đấu của Phật tử chống TT. Ngô Đình Diệm).
Có những em học sinh bị bắt trong nhà thờ Phủ Cam, cũng bị giết chết tập thể bằng đại liên, bằng mìn tại Khe Đá Mài như:
Bùi Kha (16 tuổi),
Phan Minh (16 tuổi),
Nguyễn Duyệt (17 tuổi), v.v… (Nguyễn Lý Tưởng. Mậu Thân Huế. Những Hành Động Dã Man của Việt Cộng. 
toquocvietnam.org).
*Tội ác sinh viên Việt Cộng ở Sài Gòn
Như trên đã thấy, tại Huế, nơi mà hầu hết những tội ác giết thầy, giết bạn mà bọn sinh viên, học sinh theo Việt Cộng đã phạm phải đều diễn ra công khai, trong thế mạnh của những kẻ đang tạm nắm được quyền hành (khoảng 3 tuần lễ). Khác với Huế, tại Sài Gòn, bọn sinh viên, học sinh Việt Cộng cũng giết thầy giết bạn, nhưng giết riêng lẻ, theo từng trường hợp có tính toán và do lệnh của cấp chỉ huy từ mật khu và dĩ nhiên giết bằng cách ám sát vì chúng còn ở thế hoạt động bí mật.
Để độc giả biết qua về hệ thống chỉ huy và điều hành công tác của Cộng sản tại Miền Nam và tại Sài Gòn – Gia Định, xin tóm lược vài hàng như sau:
Thời chiến tranh Quốc - Cộng, lãnh đạo cao nhất của Cộng sản tại miền Nam là Trung ương Cục miền Nam (bí danh Cục R).
Vào lúc chiến tranh sôi động, Phạm Hùng (Sáu Hồng), rồi Nguyễn Văn Linh (Mười Cúc) làm Bí thư Cục R.
Trung ương Cục chỉ huy trực tiếp và hết sức chặt chẽ tổ chức bù nhìn do CSBV đẻ ra là Mặt trận Dân tộc Giải phòng Miền Nam Việt Nam.
Dưới Trung ương Cục là các khu:
Khu 7 (miền Đông Nam bộ),
Khu 8 (vùng giữa sông Vàm Cỏ và sông Tiền),
Khu 9 (đồng bằng sông Cửu Long và Cà Mau)
và Đặc khu Sàigòn – Gia Định.
*Đặc khu Sàigòn – Gia Định:
Năm 1965, Bí thư: Nguyễn Văn Linh,
Phó Bí thư (sau đó lên Bí thư) Võ Văn Kiệt (Sáu Dân).
Trần Bạch Đằng là ủy viên thường trực phụ trách Tuyên huấn, Mặt trận, Trí vận,
Hoa vận, Thanh niên (bao gồm cả công tác Sinh viên Học sinh) và Ban cán sự nội thành.
Cuối 1969, Võ Văn Kiệt giao Bí thư Đặc khu cho Trần Bạch Đằng để đi làm Bí thư Khu 9.
+Xin đặc biệt chú ý đến nhân vật Trần Bạch Đằng (bí danh Tư Ánh và nhiều bút hiệu). Chính ông ta là người chỉ huy trực tiếp công tác nội thành nói chung, công tác Thanh niên, Sinh viên, Học sinh nói riêng.
Để tập hợp và kết nạp thanh niên, sinh viên, học sinh hoạt động nội thành Sài Gòn – Gia Định, Cục R thành lập ra Thành đoàn.
Thành Đoàn là tên tắt của Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam hay Đoàn Thanh niên Nhân dân Cách mạng, tức là Thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Vì hoạt động nội thành Sài Gòn – Gia Định cho nên gọi tắt là Thành đoàn.
Tổ chức Thành đoàn có 2 hệ thống:
bí mật và công khai.
Tổ chức bí mật:
Là tổ chức mặt chìm, quần chúng không thể biết được. Họ ở cấp cao hơn, quyền hành hơn và thực sự chỉ đạo các tổ chức công khai hoặc bán công khai.
Đó là Ban chấp hành Thành đoàn, các ủy viên Ban Chấp hành, các Đoàn ủy sinh viên, các Đoàn ủy học sinh và các ban ngành khác, như:
Ban Tuyên huấn, Ban Vận động Thanh niên Trí thức, Ban Quân sự, Ban Phụ nữ, Ban An ninh vũ trang.
Xin lưu ý Ban An ninh vũ trang, vì chính Ban này ra lệnh cho biệt động thành thi hành lệnh ám sát các giáo sư và sinh viên.
Tổ chức công khai (và bán công khai) là các tổ chức mặt nổi, hoạt động công khai, hợp pháp.
Họ là các cán bộ thừa hành nhưng lại được dư luận biết đến nhiều hơn.
Đó là các tổ chức đại diện sinh viên, học sinh trong học đường hoặc tôn giáo và các đoàn văn nghệ, xã hội…như:
Tổng hội Sinh viên Sài Gòn (Tổng hội SVSG), một số Ban Đại diện các Phân khoa Đại học và Trường cao đẳng,
Tổng hội Sinh viên Vạn Hạnh, Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn, Đoàn Sinh viên Phật tử,
Thanh lao Công Vườn Xoài, Đoàn Văn nghệ Sinh viên Học sinh, Đoàn Công tác Xã hội Sinh viên Học sinh Sài Gòn, Đoàn Văn nghệ Sinh viên Vạn Hạnh,
Ủy ban Đòi Quyền Sống Đồng bào và chiến dịch đốt xe Mỹ
Mặt trận Nhân dân Cứu Đói…
Thành đoàn Cộng sản đánh giá vai trò của Ban Đại diện các phân khoa, nhất là Tổng hội SVSG, là hết sức quan trọng trong mặt trận đô thị nói chung, mặt trận Đại học nói riêng, cho nên họ tìm mọi cách để nắm lấy.
Khi nắm được các tổ chức công khai này, họ có quyền hợp pháp, công khai dùng danh nghĩa của cả tập thể để ra tuyên cáo, kháng thư, kêu gọi bãi khóa, bãi thi, tổ chức văn nghệ báo chí,
triển lãm, xuống đường ôn hòa, xuống đường bạo động…gây rối loạn triền miên ngay giữa Thủ đô Sài Gòn và tạo ảnh hưởng dư luận xấu về chính quyển VNCH.
Trong nỗ lực chiếm lấy quyền kiểm soát Tổng hội SVSG và Ban Đại diện các phân khoa, khi gặp khó khăn, Thành đoàn Cộng sản dùng mọi thủ đoạn, kể cả bạo lực để đạt thắng lợi. Trên thực tế, Thành đoàn Cộng sản đã xử dụng các hình thức khủng bố như :
gửi thư nặc danh đe dọa, rải truyền đơn lên án tử hình, cuối cùng là “khủng bố trắng”, tức là ám sát bằng súng, lựu đạn, bom…
Họ đã thành công và nắm giữ được tổ chức hợp pháp quan trọng là Tổng hội SVSG suốt 4 nhiệm kì liên tiếp:
Niên khóa 1966-67: Hồ Hữu Nhựt,
1967-68: Nguyễn Đăng Trừng,
1968-69: Nguyễn Văn Qùy,
1969-70: Huỳnh Tấn Mẫm.
Xin lấy một thí dụ:
BCH Tổng hội Sinh viên Sài Gòn nhiệm kì 1968-1969 có 7 thành viên thì 4 là Việt Cộng, đó là:
Chủ tịch Nguyễn Văn Qùy (Nông Lâm Súc),
Phó Chủ tịch Huỳnh Tấn Mẫm (Y khoa),
Phó TTK Nguyễn Hoàng Trúc (Cao đẳng Thú y)
và Thủ qũy Nguyễn Thị Yến (Văn khoa).
Và Tổng hội SVSG có 7 Ủy ban trực thuộc thì Việt Cộng nắm được 3 với các ủy viên:
Ủy viên Văn Nghệ: Nguyễn Văn Sanh,
Ủy viên Báo chí, Phát thanh: Tô Thị Thủy;
Ủy viên Liên lạc: Nguyễn Tuấn Kiệt.
Riêng Huỳnh Tấn Mẫm, trong cương vị là Chủ tịch Tổng hội SVSG (1969-1970),
đã được dư luận trong và ngoài nước biết tới như là một biểu tượng của phong trào sinh viên phản chiến, tranh đấu đòi hòa bình theo đúng kế hoạch của lãnh đạo Trung ương Cục. Huỳnh Tấn Mẫm được kết nạp đảng ngày 03.02.1966 do Chín Kế, tức Phan Văn Dinh,
tại nhà một cơ sở ở Bà Quẹo (Diệu Ân. Huỳnh Tấn Mẫm Một Đời Sôi Nổi. Trang 38).
Mẫm cũng là Bí thư chi bộ đảng đoàn Tổng hội SVSG (Diệu Ân. Sđd. Trang 144).
Trần Bạch Đằng viết về Huỳnh Tấn Mẫm:
“Trong thư riêng mà tôi còn giữ, có một mảnh giấy ghi thế này:
“Xin đoàn thể yên tâm, quyết làm tròn nhiệm vụ”-L.71- L.71 là mật hiệu của Huỳnh Tấn Mẫm. Anh viết cho tôi lúc anh đang chễm chệ ở nhà “Quốc khách” do Nguyễn Cao Kỳ mâu thuẫn với Thiệu mà đón anh về, coi nơi này như trụ sở Tổng hội Sinh viên”
(Thành Đoàn. Trui Rèn Trong Lửa Đỏ. NXB Trẻ tái bản lần thứ nhất. Trang 19).
Trước khi đề cập các vụ ám sát sinh viên và giáo sư tại Sài Gòn do Thành đoàn Cộng sản chủ trương, xin mời độc giả xem một đoạn hồi tưởng của Bs. Ngô Thế Vinh, Tổng Thư ký
Nguyệt san Tình Thương của sinh viên Y khoa Đại học Sài gòn (1964) viết tóm tắt về giai đoạn sôi động này:
“Cũng nên ghi lại một số sự kiện nay đã thuộc về lịch sử: chỉ riêng với trường Y Khoa,
đã có hai giáo sư bị sát hại
[Gs Trần Anh, Cơ Thể học và Gs Lê Minh Trí chuyên khoa Tai Mũi Họng],
rồi đến sinh viên Y khoa II Trần Quốc Chương [con của Thẩm phán Trần Thúc Linh] có một giai đoạn vào bưng, sau trở về học lại thì bị trói tay bịt miệng ném từ lầu ba xuống đất ngay trong vòng thành trường Y Khoa trên đường Hồng Bàng, một cái chết rất thảm khốc. Sinh viên Luật khoa Lê Khắc Sinh Nhật cũng bị bắn chết. Hai sinh viên khác bên Văn Khoa cũng bị nhóm Biệt Động Thành bắn trọng thương nhưng may mắn sống sót là Ngô Vương Toại, Bùi Hồng Sĩ, hai anh ấy hiện đang sống ở Mỹ.
Rõ ràng có một cái giá phải trả của giới làm báo kể cả làm báo sinh viên trong suốt giai đoạn đó [nói tới sinh hoạt báo chí của Miền Nam 1954- 1975, không thể không nhắc tới sự hy sinh của các nhà báo như Từ Chung ký giả nhật báo Chính Luận [1965], một nạn nhân nổi tiếng khác bị ám sát nhưng thoát chết là nhà văn Chu Tử, chủ nhiệm nhật báo Sống [1966]…”
(Ngô Thế Vinh. Nguyệt San Tình Thương 1963 – 1967.
Gửi Nghiêm Sỹ Tuấn và Các Bạn Nhóm Tình Thương.
Diễn đàn Cựu Sinh viên Quân Y. 
svqy.org/tinhthuong).
Tính mạng của Sinh viên Lê Hữu Bôi và Sinh viên Nguyễn Trọng Nho đã từng được đưa ra thảo luận trong mật khu của Cộng sản:
Sinh viên Lê Hữu Bôi (Khóa 10 Quốc Gia Hành Chánh) và Sinh viên Nguyễn Trọng Nho (Nông Lâm Súc) nắm Tổng Hội SVSG hồi 1964-1965.
Mặc dù hai sinh viên này ngả theo khuynh hướng Phật giáo đấu tranh chống các chính quyền Quốc gia, nhưng họ không phải là Cộng sản.
Do đó họ trở thành chướng ngại cho ý đồ nắm lấy quyền lãnh đạo sinh viên Sài Gòn của Thành đoàn Cộng sản.
Cũng vì vậy mà sinh mạng của họ đã từng được đưa ra thảo luận trong mật khu của Cộng sản.
Trần Bạch Đằng kể lại:
“Chị Ba Võ - mang bầu sắp đẻ - nằng nặc đòi diệt các tên lính kín cầm đầu các tổ chức công khai như L.H.B (Lê Hữu Bôi), N.T.N.(Nguyễn Trọng Nho). Thuyết phục chị thật vất vả! Anh Chín Dũng (tức Võ Văn Kiệt) bảo tôi:
Bà “bầu” này dữ thiệt!”.
(Trần Bạch Đằng. Trui Rèn Trong Lửa Đỏ. NXB Trẻ. Tái bản lần thứ nhất. Trang 14).
Sinh viên Ngô Thế Vinh và danh sách 17 sinh viên nằm trong sổ bìa đen:
Thực ra, chính Bs. Ngô Thế Vinh, khi còn là sinh viên sinh hoạt báo chí tại Y khoa Sài Gòn, cũng đã bị Thành đoàn Cộng sản ghi vào “sổ bìa đen”. Gs. Nguyễn Văn Trung kể lại: “Tôi vẫn còn giữ một danh sách của đội quyết tử cảnh cáo một số sinh viên thuộc các phân khoa như Ngô Thế Vinh (Y khoa)”.
(Nguyễn Văn Trung. Đôi điều trao đổi với nhà văn Mai Kim Ngọc. Văn Học số 124, Hoa Kỳ Trang 68).
Sau khi ra trường, Bs. Ngô Thế Vinh phục vụ tại Liên đoàn 81 Biệt cách Dù lẫy lừng; hiện điều trị và giảng dạy tại Nam California; là tác giả Cửu Long Cạn Dòng Biển Đông Dậy Sóng (Văn Nghệ, 2001). Bs. Ngô Thế Vinh còn là tác giả của 6 cuốn tiểu thuyết.
Trong lần tái bản cuốn:
“ Nửa Thế Kỷ Việt Nam”mới đây, nhà văn Song Nhị đã bổ túc thêm một số sinh viên nữa cũng nằm trong danh sách bị Thành đoàn Cộng sản lên án tử hình: “
Ngoài những sinh viên đã bị “thi hành án”, đã bị giết như SV Lê Khắc Sinh Nhật; đã lãnh đạn như Ngô Vương Toại, Bùi Hồng Sĩ, Nguyễn Văn Tấn, một danh sách gồm 17 người bị cộng sản lên án tử hình còn có: Phạm Quân Khanh, Phạm Phúc Hưng, Phạm Tài Tấn (Thư Sinh), Phạm Bằng Tường, Nguyễn Tường Quý, Khổng Trọng Hinh, Nguyễn Văn Tấn (Cao Sơn), Hồng Nguyên Sĩ”.
(Song Nhị. Nửa Thế Kỷ Việt Nam. Cội Nguồn, ấn bản lần thứ hai, 2010. Tr. 98)
Chú thích của Nhà văn Song Nhị về tài liệu nêu trên:
“Tài liệu bổ túc do các nhân chứng trong cuộc:
Phạm Tài Tấn, Phạm Bằng Tường, Nguyễn Văn Tấn cung cấp trong một cuộc phỏng vấn có thu âm tại San Jose ngày 20-3-2010 cùng tham chiếu bài viết “Chạm Mặt Tử Thần”, Hoàng Xuân Sơn, Sàigòn Nhỏ tuần báo số 961, 23-4-2010, trA6-A7)”.
*Việt Cộng bắn sinh viên Ngô Vương Toại và Nguyễn Văn Tấn:
Để chuẩn bị mùa bầu cử Ban Đại diện Sinh viên, một chương trình nhạc Trịnh Công Sơn – Khánh Ly được tổ chức tại Văn khoa đêm ngày 20.12.1967. Giữa lúc tạm nghỉ, hai tên thuộc tổ vũ trang tuyên truyền của Thành đoàn Cộng sản nhảy lên cướp diễn đàn, tuyên bố kỉ niệm 7 năm ngày thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (Mặt trận DTGPMN).
Sinh viên Ngô Vương Toại, trong Ban tổ chức, vội giật lại micro, và lập tức anh bị bắn trọng thương vào bụng.
Nhà thơ Hoàng Xuân Sơn thuật lại biến cố này như sau: “Giờ giải lao, xuất hiện một đôi nam nữ ăn bận khá lịch sự từ từ tiến lên diễn đàn.
Nam: quần màu sậm, sơ mi trắng, tay thọc túi quần.
Nữ: áo dài xanh lá mạ, đeo kính gọng xếch mắt mèo, tay ôm một chiếc cặp lớn, căng phồng. Ngô Vương Toại đang ở trên sân khấu nói qua về công việc bầu bán ban đại diện sinh viên văn khoa sắp tới.
Nam ngỏ ý xin được góp lời.
Nữ đứng sát bên kéo khóa mở cặp. Và rồi trờ tới.
Trờ tới nguyên văn:
“Xin tất cả anh chị em yên chí. Chúng tôi đã bố trí chung quanh cả rồi – Hôm nay, nhân ngày kỷ niệm 7 năm thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam . . .
“Cái gì mặt trận!? Nam nói chưa dứt câu, Toại phản ứng lẹ như chớp; nhanh tay giật lại micro: “Ẩu nà, câm mồm! . . . ” Quát: “Đứng im!” Và đoàng đoàng, hai phát súng nổ liên tiếp. Tôi hoa mắt thấy thân hình Toại văng bật vào tường dưới bảng đen.
Nhiều phát súng nổ liên tiếp sau đó. Nguyễn Văn Tấn tự Tấn Mốc cầm chiếc ghế nhào lên cứu bạn. Và rồi cũng ăn đạn vào chân té qụy xuống bục sau đó”
(Hoàng Xuân Sơn. Chạm Mặt Tử Thần. 
damau.org).
Sinh viên Nguyễn Văn Tấn,tức Tấn Mốc (nay là nhà báo Cao Sơn, chủ biên tuần báo Tin Viet News), trước khi xẩy ra biến cố Ngô Vương Toại, đã từng lận lưng 2 con chủy thủ, ‘một mình một ngựa’, liểu mạng tới cứu bạn Trần Lam Giang đang bị bọn sinh viên Việt Cộng xử tử bằng cách đóng đinh 10 li vào đầu vì chống lại chúng trong cuộc hội thảo chuẩn bị xuống đường chống chính phủ tại Dược khoa.
Trên vantholacviet, trong Lời giới thiệu bài Chạm Mặt Tử Thần, Chu Long Hoa kể về tác phong anh hùng của Tấn Mốc như sau:
“Từ trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Saigon ở số 4 Duy Tân, Tấn hay tin do Lê Thành Khôi tức Khôi què, cũng là Sinh Viên Văn Khoa báo, vội một mình lận theo 2 lưỡi lê chạy đến hiện trường để cứu Trần Lam Giang. Trước một rừng du đãng do nhóm Sinh Viên thân Cộng thuê, Nguyễn văn Tấn phải dùng dao đâm hai tên du đảng phụ trách đóng đinh vào đầu anh Trần Lam Giang trên sân khấu để cảnh cáo những người khác trong hội trường rồi dìu Trần Lam Giang ra tận đường Cường Để dưới làn mưa đá do nhóm sinh viên thân Cộng ném vào hai người. Nhưng họ không dám xáp lại gần để tấn công vì Tấn từng tuyên bố ở trong Hội Trường là “chỉ muốn đưa Trần Lam Giang đi cấp cứu, còn ai muốn ngăn cản thì phải chấp nhận “mạng đổi mạng”
(Chu Long Hoa. Lời giới thiệu bài Chạm Mặt Tử Thần. vantholacviet).
*Bắn sinh viên Bùi Hồng Sỹ
Sinh viên Bùi Hồng Sỹ, Ban Triết Đông, là Chủ tịch Ban Đại diện sinh viên Văn khoa Sài Gòn, cũng đã bị Thành đoàn Cộng sản thanh toán ngay tại Đại học Văn khoa Sài Gòn. Cũng trong tài liệu trên, Nhà văn Song Nhị thuật lại: “Một biến cố khác, cũng năm 1967, nhóm Sinh viên Quốc Gia tổ chức một đại hội Thanh Niên, Sinh Viên Thế Giới Chống Cộng họp tại Vũng Tàu.
Trong khi đang tham dự đại hội này, nhóm sinh viên Văn Khoa được báo tin văn phòng của Nhóm Sử Địa tại đại học Văn Khoa đã bị nhóm sinh viên VC vào chiếm giữ. Bùi Hồng Sĩ liền lên xe đò đi thẳng về đại học Văn Khoa. Sĩ vừa bước vào cửa văn phòng liền bị bắn một phát, đạn xuyên qua cổ, nhưng không chết.
Tại đại hội Thanh Niên, Sinh Viên Thế Giới Chống Cộng ở Vũng Tàu, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu khi lên đọc diễn văn không rõ do ai đưa tin, Tổng Thống lên án cộng sản đã bắn chết SV Bùi Hồng Sĩ tại đại học Văn Khoa, Sài Gòn.
Cả hội trường đứng dậy mặc niệm nạn nhân. Từ ngày đó Bùi Hồng Sĩ không bao giờ được đi ra ngoại quốc, vì Tổng thống đã “khai tử” anh SV này!”.
(Song Nhị. Sđd. Tr.98).
*Cái chết đầy nghi vấn của sinh viên Y khoa Trần Quốc Chương năm 1967:
Trần Quốc Chương là con trai của Thẩm phán Trần Thúc Linh.
Trần Thúc Linh là Tổng Thư kýLiên Minh Các Lực lượng Dân tộc Dân Chủ và Hòa bình Việt Nam của Luật sư Trịnh Đình Thảo, là lực lượng do Cộng sản giật dây. Chưa có tài liệu nào về nguyên do cái chết của sinh viên Trần Quốc Chương.
Do đó, chỉ có thể đưa ra các giả thuyết:
Một là phe quốc gia giết Chương để dằn mặt ông Linh vì ông Linh đang làm công cụ cho Cộng sản.
Giả thuyết này không vững, vì thiếu gì trí thức Miền Nam làm tay sai đắc lực cho Việt Cộng, vậy mà bản thân họ, chứ đừng nói tới con cái họ, đang khi hưởng bổng lộc Quốc gia mà vẫn thoải mái chống chính quyền Quốc gia!
Vậy không lẽ chính quyền Quốc gia lại chỉ thanh toán con ông Trần Thúc Linh?
Giả thuyết 2:
Việt Cộng thanh toán Trần Quốc Chương.
Chương “có một giai đoạn vào bưng”, nay về thành đi học lại. Việc bỏ bưng biền về thành của Chương có được sự chấp thuận của bưng biền hay là một sự đào thoát?
Nếu mà đào thoát, tức là phản bội. Hoặc giả, trong bưng giao công tác hoạt động trong môi trường Đại học mà Chương không chấp hành. Như thế là bất tuân lệnh của “tổ chức”.
Đó là những tội phải bị trừng trị để làm gương.
Ba là: Có thể trong bưng biền ra lệnh giết Chương, và tìm cách đổ tội cho chính quyền Quốc gia, để Trần Thúc Linh không còn lựa chọn nào khác hơn là căm thù Quốc gia và riu ríu nghe theo sự sai bảo của Cộng sản.
*Giết Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật
Ngày 28.6.1971, biệt động thành bắn chết Sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật ngay tại hành lang trường Luật Sài Gòn.
Ban ám sát thuộc Thành Đoàn Cộng Sản cử 2 tên tới Đại học Luật khoa số 4, DuyTân,
nhận là người nhà của Lê Khắc Sinh Nhật và muốn gặp anh có việc cần. Lúc đó sắp tới mùa thi cuối niên học, Nhật đang hướng dẫn sinh viên năm thứ nhất về cách thi cử tại một giảng đường. Nghe báo có người nhà tìm, Nhật đi ra. Vừa tới hành lang trước phòng Ban đại diện sinh viên, tên ám sát nhận diện đúng là Lê Khắc Sinh Nhật, hắn mau lẹ móc súng từ trong áo jacket ra bắn liền 3 phát trúng ngực Lê Khắc Sinh Nhật. Sau đó, hắn vội vàng phóng ra ngoài và nhảy lên xe, do một tên khác lái, đang nổ máy chờ sẵn.
Viên Cảnh sát đứng gác bên ngoài bắn mấy phát chỉ thiên. Trên đường đào tẩu, chúng còn quăng ngược lại một quả lựu đạn, nhưng may mắn lựu đạn không nổ.
Vừa nghe tin Lê Khắc Sinh Nhật bị ám sát, nhạc sĩ Vũ Thành An đã sáng tác ngay một bài hát tưởng niệm, mở đầu như sau:
“Anh sinh ngày sinh của Chúa, Chúa gọi anh về giữa tuổi đôi mươi. Anh sinh ngày sinh của Trời…”.
Thành đoàn CS giết Lê Khắc Sinh Nhật vì 2 lí do:
Một là để răn đe các sinh viên thuần túy có tinh thần quốc gia; hai là để trả mối hận gây nên do Liên danh Lê Khắc Sinh Nhựt đã thắng liên danh Việt Cộng Trịnh Đình Ban (Bảy Điểm) trong cuộc bầu cử Ban Đại diện sinh viên Luật khoa niên khóa 70-71; đồng thời Nhật còn đứng Phó Nội vụ trong liên danh Lý Bửu Lâm (Kiến trúc) thắng cử trong cuộc bầu Ban Đại diện Tổng hội SVSG, giành lại Tổng hội SVSG từ tay Thành đoàn Cộng sản. Cuộc bầu cử này tổ chức tại Trung tâm Quốc gia Nông nghiệp (Nông Lâm Súc) vào ngày 20.6.1971. Sau khi biết kết quả kiểm phiếu nghiêng về liên danh Lý Bửu Lâm, bọn sinh viên Việt Cộng dở ngay bản tính côn đồ, chúng nhảy lên bục “đá thùng phiếu để hủy bỏ kết quả bầu cử” và ẩu đả hỗn loạn
(Trần Bạch Đằng. Trui Rèn Trong Lửa Đó. Tái bản 1. Trang 21).
Bị thất bại trong cuộc bầu cử Tổng hội sinh viên, Thành Đoàn Cộng sản hết sức cay cú.
Họ đã đưa ra 2 quyết định:
Một là sát hại sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật; hai là chỉ thị Huỳnh Tấn Mẫm tập họp một số sinh viên tại trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lý vào ngày 28 tháng 7 năm 1971 để bầu ra một tổ chức ma, chưa bao giờ có.
Đó là ‘Tổng hội Sinh viên Việt Nam’, do Huỳnh Tấn Mẫm làm chủ tịch và Nguyễn Thị Yến làm tổng thư ký.
Quyết định hạ sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật là một quyết định tàn ác, đê tiện của Thành Đoàn Cộng Sản.
Vì thế, sau ngày 30 tháng 4 năm1975, mặc dù họ tung ra nhiều tài liệu và sách báo khoe khoang thành tích đấu tranh của các tổ chức Thành Đoàn, nhưng đặc biệt họ không hề dám công khai nhắc tới ‘thành tích’ ám sát sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật.
*Giết Gs. Nguyễn Văn Bông
Ngày 10.11.1971, sinh viên Việt Cộng Vũ Quang Hùng (bí danh Ba Điệp, năm 3 Khoa học)
và tên Lê Văn Châu dùng chất nổ ám sát chết Gs. Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Học viện Quốc gia Hành chánh, tại ngã tư Cao Thắng – Phan Thanh Giản.
Hai tên Hùng và Châu thuộc Đội trinh sát võ trang mang bí số S1 hoạt động nội thành Sài Gòn-Chợ Lớn / Ban An ninh T4.
Hùng và Châu đều bị bắt, ra tòa và thụ án tại Côn Đảo. Sau 30.4.1975, tên sát nhân Hùng đã viết bài:
“Tôi ám sát người sắp làm thủ tướng Sài Gòn” hãnh diện kể về thành tích ám sát của mình và đăng trên một số tờ báo, trong đó có tạp chí Đứng Dậy (Đối Diện, Đồng Dao) của Lm. Chân Tín.
Tác giả Khánh Dung viết: “ ‘Chiến công’ của Vũ Quang Hùng đã được chính ông ta kể lại trong một bài đăng trên tạp chí Đứng Dậy của Linh Mục Chân Tín năm 1976. Đến tháng 4/2000, trong dịp kỷ niệm 25 năm ngày chiến thắng 30 tháng 4 nhà báo chuyên về các đề tài tình báo Nam Thi của báo Thanh Niên cũng kể lại chuyện này, trong đó có ghi rõ vai trò trợ giúp đắc lực của Nguyễn Hữu Thái”
(Khánh Dung. Những người giết Gs. Nguyễn Văn Bông bây giờ ở đâu? 
vantuyen.net).
Cũng trong bài báo của mình, tên Hùng đã giải thích lí do ám sát Gs. Nguyễn Văn Bông như sau:
“Tôi nhớ dặn dò của đồng chí Tám Nam - Phó ban An ninh T4 (tức khu vực Sài Gòn-Gia Định): “Để bảo đảm bí mật, chúng ta sẽ đặt cho mục tiêu bí số G.33. Cần giữ bí mật đến phút chót và theo tin tức tình báo, G.33 đang chuẩn bị lên nắm ghế thủ tướng. Nếu G.33 đã nắm chức, sẽ rất khó hành động vì khi ấy việc bảo vệ ông ta sẽ khác hẳn. Và nếu tình huống này xảy ra, cách mạng có thể gặp khó khăn hơn bởi Nguyễn Văn Bông là một trí thức có uy tín và chính quyền ngụy chuyển từ quân sự sang dân sự mọi diễn tiến sẽ có lợi cho địch”.
Sau 30.4.1975, Hùng nắm chức Phó Tổng biên tập báo Công An Thành phố HCM, Tổng biên tập tạp chí Người Du Lịch và biên tập cho báo Pháp Luật Thành phố HCM.
*Giết Gs. Lê Minh Trí và Gs. Trần Anh
Ngày 06.01.1969, lúc 7:50 sáng, bọn ám sát Thành đoàn liệng lựu đạn M6 vào xe của Bs. Lê Minh Trí, Bộ trưởng Giáo dục và Thanh niên và đã giết chết ông tại khúc đường Nguyễn Du rẽ sang Hai Bà Trưng.
Sau đó 2 tháng, đến lượt Bs. Trần Anh, Giám đốc Viện Cơ thể học Sài Gòn kiêm tân Viện trưởng Viện Đại học Sài Gòn (lên thay Viện trưởng Trần Quang Đệ bị cách chức vì đào nhiệm), bị bắn chết trước cổng Trường Trung học Chu Văn An, trên đường đi bộ từ Đại học Y khoa về nhà ông, cạnh Đại học xá Minh Mạng, ngang hông nhà thờ Ngã Sáu, Chợ Lớn.
Chỉ có suy đoán chứ chưa biết đích xác ai là thủ phạm vụ ám sát Gs. Trần Anh.
Sự thực, khoảng thời gian đó, tại Đại học Y khoa Sài Gòn, đang có sự chuyển mình sinh ra tranh chấp giữa hai hệ thống giáo dục Pháp và Mỹ khiến có dư luận:
“Ai ai cũng nghĩ rằng cái chết của Bộ trưởng Lê Minh Trí và Giáo sư Trần Anh, Viện trưởng Viện Đại Học Sài Gòn đều có liên quan đến sự can thiệp của phái bộ Y Sĩ Đoàn Hoa Kỳ vào nội tình của trường Đại Học Y Khoa Sài Gòn”.
(Bs. Lê Ánh bút hiệu Lê Phú Thọ. Trường Đại học Y khoa Sài Gòn (1966-1971) Chiến tranh và Chính trị. 
ninh-hoa.com).
Thế nhưng sau 30.4.1975, Thành đoàn Cộng sản ra sách xác nhận và kể lại “thành tích” vụ ám sát Bộ trưởng Lê Minh Trí của chúng như sau:
“Đến năm 1968 lại xuất hiện một tên tay sai có tầm cỡ hơn: Bộ trưởng giáo dục và thanh niên L.M.T. (Bác sĩ Lê Minh Trí, giáo sư chuyên khoa Tai mũi họng). Là một trí thức tay sai đế quốc Mỹ, T. có nhiều bản lãnh trong việc đem văn hóa trụy lạc, ngoại lai đầu độc thanh niên thành phố. Hắn đòi giải tán các tổ chức hợp pháp của sinh viên, học sinh.
Hắn cũng đã chủ trương chiếm và tiến tới dẹp bỏ trụ sở Tổng hội Sinh viên ở số 4 Duy Tân. Trừng trị kịp thời con rắn độc này là một nhiệm vụ chính nghĩa, quang vinh. Ban quân sự Thành đoàn được Thành ủy giao cho nhiệm vụ vinh quang ấy. Đồng chí Ba Tung, phó ban, đội trưởng đội ba trực tiếp đánh…”
(Hàng Chức Nguyên. Những Tiếng Nổ Trong Lòng Sài Gòn. Trui Rèn Trong Lửa Đỏ. NXB Trẻ. Tái bản lần thứ nhất. Trang160).
**Kết bài
Chiến tranh để lại những vết thương mà thời gian không thể xóa mờ và những mất mát không bao giờ có thể bù đắp. Những vụ sinh viên Việt Cộng giết thầy giết bạn xẩy ra đã trên 40 năm.
Đã hơn 40 năm mà tôi vẫn còn nhớ như in cặp mắt lộ hung tinh của tên sinh viên Việt Cộng Nguyễn Thị Yến, vẫn còn nhớ thị gọi Bùi Hồng Sỹ là “con dê núi”…
Và hình ảnh Sinh viên Ngô Vương Toại vui vẻ, hoạt bát vào các giảng đường vận động bầu cử vẫn còn sinh động như mới hôm qua!
Rồi quang cảnh hỗn loạn tại Giảng đường 4 Văn khoa đêm hôm xẩy ra vụ Tổ Vũ trang Tuyên truyền Thành đoàn Cộng sản cướp diễn đàn và bắn sinh viên Ngô Vương Toại và Sinh viên Nguyễn Văn Tấn…
Đã hơn 40 năm, nhưng những nạn nhân như bà Lê Thị Thu Vân, tức bà Jackie Bông,
phu nhân của cố giáo sư lừng danh Nguyễn Văn Bông bị tên Sinh viên Vũ Quang Hùng ám sát, tuy không bao giờ quên nổi biến cố bi thương bỗng ập xuống cuộc đời bà và các con nhỏ dại của bà năm xưa, nhưng bà đã lấy tâm Phật mà “cầu nguyện cho ông ấy (tức tên Hùng, kẻ đã giết chồng bà)” và mong nhà cầm quyền Hà Nội “mở mắt ra”, “mở tấm lòng ra”
(Kí giả Mạc Lâm, RFA, phỏng vấn Bà Lê Thị Thu Vân. 
Viettop10.com ngày 05.05.2011).
Đang khi đó sau 30.4.1975, với tư thế của kẻ thắng trận, Thành đoàn Cộng sản vẫn còn ra sách, hãnh diện khoe khoang những tội ác giết người của chúng.
Đến bây giờ mà chúng vẫn còn ghép tội chết cho Bộ trưởng Giáo dục Lê Minh Trí (bác sĩ, giáo sư) là “tay sai đế quốc Mĩ”, “ đem văn hóa truỵ lạc, ngoại lai đầu độc thanh niên thành phố” và “Trừng trị con rắn độc này là một nhiệm vụ chính nghĩa, quang vinh”!
Với cách kết án và hành xử như thế, thì trước những quốc nạn tày trời mà bọn lãnh đạo Cộng sản Hà Nội gây ra cho đất nước, cho đồng bào ngày nay, thì chúng phải bị trừng trị như thế nào cho công bình, cho cân xứng?
Riêng tên sinh viên Khoa học Vũ Quang Hùng, can phạm chủ chốt sát hại Giáo sư Nguyễn Văn Bông, đến nay vẫn không chút ân hận. Tên Hùng đã giết người mà không chịu rửa sạch bàn tay vấy máu.
Giữa thời đại khắp thế giới lên án khủng bố, mà tên Hùng vẫn nhiều lần đưa lên một số tờ báo trong nước bài:
“Tôi Ám Sát Người Sắp Làm Thủ Tướng Sài Gòn”.
Coi như hắn muốn tiếp tục giết chết nạn nhân của hắn nhiều lần nữa cho thỏa thú tính. Không biết ngày nay có ai đọc bài viết của Vũ Quang Hùng mà còn khen y là anh hùng hay không, nhưng rõ ràng là có những bài viết, những phản hồi, cả trong nước lẫn ngoài nước, phê phán bài viết của tên Hùng là “phản cảm”, là “khó nuốt…distasteful”
(Ts. Nguyễn Văn Tuấn. Ám sát Gs. Nguyễn Văn Bông: Chuyện cũ, Ý nghĩa mới. 
ngoclinhvugia.wordpress.com).
Cuộc chiến Quốc- Cộng dù giải thích nguyên nhân ra sao, thực tế vẫn là một thảm họa nồi da xáo thịt của dân tộc Việt Nam.
Nhìn ngắm cách giải quyết cuộc nội chiến Nam Bắc Mỹ cuộc giải thể chế độ Cộng sản ở Nga và Đông Âu trong tình dân tộc, có người Việt Nam yêu nước chân chính nào mà không tiếc xót cho vận nước? Càng xót xa cho nước non, càng “tỏ tường rồi”
(Nhạc sĩ yêu nước Việt Khang) những tội ác Cộng sản Việt Nam đem tới cho quê hương đất nước trong 80 năm qua và hệ lụy có thể sẽ còn kéo dài hàng trăm năm nữa.
Đảng Cộng sản Việt Nam xúi giục hận thù để đạt chiến thắng, chiến thắng rồi vẫn tiếp tục chính sách thù hận.
Cộng sản Hà Nội còn nắm được quyền cho tới nay,
không phải vì họ có chính nghĩa, có công hoặc là có tài làm cho dân giàu nước mạnh mà chính là vì họ là bậc thầy về nói dối và sẵn sàng dùng bạo lực.
Thật đúng như câu nói:
“Cộng sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực, chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của toàn thể nhân loại”.
*Bạch Diện Thư Sinh