Vì
sao chính quyền xã hội chủ nghĩa không đáng tin?
Nguyên Lam &
Nguyễn Xuân Nghĩa, RFA
2016-05-11
2016-05-11
Trong vụ khủng hoảng
về môi sinh đang từ Hà Tĩnh bùng ra nhiều nơi, người ta kết án Chính quyền Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là làm mất niềm tin của dân chúng vì chẳng tìm ra
cái nhân của tai họa mà còn tay đàn áp người biểu tình. Thật ra, vấn đề còn sâu
xa hơn thế. Do nhiều nguyên nhân khá bất thường về thông tin mà trải qua gần 90
năm, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn thiếu sự tin cậy của người dân.
“Thiên tai chưa bằng nhân họa”
Nguyên Lam: Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia
kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa ông, từ một tháng nay, tin tức dồn dập về vụ
khủng hoảng từ Vũng Áng thuộc tỉnh Hà Tĩnh đã dẫn người ta đến một câu hỏi, là
vì sao mấy trăm tấn cá bị chết trong bè và ngoài biển, gây ô nhiễm cho vùng
duyên hải miền Trung và lan qua nơi khác? Chưa giải thích thỏa đáng về tai họa
đó, giới hữu trách của Việt Nam lại chẳng đề ra biện pháp cấp cứu mà còn đàn áp
những ai biểu tình phản đối thái độ vô trách nhiệm của nhà nước. Khi đó, người
ta cho rằng chính quyền Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đang làm mất niềm
tin của dân chúng. Ngoài khía cạnh quá sức bất thường và bất nhân đó, ông
nghĩ sao về sự tin cậy hay tín nhiệm của người dân dành cho một chính quyền
cộng sản xưng danh xã hội chủ nghĩa?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ chuyện này trầm trọng và
sâu xa hơn, vì từ khi đảng Cộng sản chưa ra đời vào năm 1930 thì những người
cộng sản đầu tiên của Việt Nam đã khó trình bày các mục tiêu kín hở của họ.
Tiếp theo, qua nhiều đợt, mỗi đợt khoảng ba chục năm, đảng Cộng sản tiếp tục có
vấn đề về thông tin với đảng viên và với quần chúng. Nhân vụ khủng hoảng về môi
sinh và chính trị hiện nay, ta nên trở ngược lên cái gốc của vấn đề….
Nguyên Lam: Thưa ông Nghĩa, thính giả của chúng
ta đã quen với lối nêu vấn đề từ xa tới gần của ông, nhưng vì sao phải trở
ngược lên thời điểm khi đảng Cộng sản chưa ra đời?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi xin nói về bối cảnh lịch sử trước.
Hạt nhân cộng sản đầu tiên của Việt Nam được Hồ Chí Minh gieo trồng trong một
tổ chức cách mạng chống Pháp do cụ Phan Bội Châu gầy dựng tại Quảng Châu, đó là
Tâm Tâm Xã. Từ Liên Xô về với tư cách là cán bộ của Đệ tam Quốc tế, năm 1925 Hồ
Chí Minh xâm nhập tổ chức này và có thể nhúng tay vào việc điềm chỉ cho Pháp
bắt cụ Phan đem về nước xét xử để lấy tiền lập đảng cộng sản. Cụ Phan bị bắt
rồi, Hồ Chí Minh và một số cán bộ khác mới từ Tâm Tâm Xã lập ra một tổ chức
mới, xưng danh là Hội Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng, thường được gọi tắt là
Thanh Niên.
Tổ chức này có một
chục thành viên là nhóm cộng sản đầu tiên, họ trở về Việt Nam tuyên truyền và
tuyển mộ cán bộ đưa qua Quảng Châu huấn luyện hoặc gửi qua Liên Xô cho Đệ tam
Quốc tế đào tạo trong Trường Đại Học Phương Đông. Từ đấy hạt nhân cộng sản nẩy
mầm tại Việt Nam, nhưng do hoàn cảnh chính trị thời đó mà sinh ra ba đảng là
Đông Dương Cộng Sản Đảng, An Nam Cộng Sản Đảng và Đông Dương Cộng Sản Liên
Đoàn. Khi ấy, từ các năm 1927-1929, người cộng sản đã khó giải thích mục tiêu
thật của họ là lập ra chế độ chuyên chính vô sản theo chủ nghĩa Mác-Lenin, trong
khi họ cần huy động quần chúng nhờ chiêu bài chống Pháp cho mục tiêu độc lập.
Ngã rẽ đầu tiên về thông tin là hai ngả chìm và nổi.
Nguyên Lam: Ông trở ngược lên chuyện của gần 90
năm trước, nhưng đảng Cộng sản đã ra đời tại Hong Kong vào năm 1930 qua sự
thống hợp của ba tổ chức cộng sản đầu tiên. Thưa ông, sau đó thì họ có cải tiến
và ít ra thống nhất được luận cứ và thông tin hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Khởi đi từ hoàn cảnh của một hội kín
dưới chế độ thực dân, với các chi bộ phân tán và hoạt động mật, đảng cộng sản
dù dưới bất cứ một tên gọi nào cũng khó diễn đạt thông tin cho rõ. Sau khi cầm
quyền trên nửa lãnh thổ để tiến hành công cuộc tập thế hóa thì họ lại gây chiến
tại nửa kia, đảng cộng sản tiếp tục tạo ra và trở thành nạn nhân của thông tin
mù mờ. Thống nhất đất nước được 10 năm thì họ gây khủng hoảng kinh tế nên ra
khỏi chế độ tập thể hoá và đề ra một mâu thuẫn khác là kinh tế thị trường theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì trong chữ “tin” của thông tin lại có chữ “tín”,
họ vẫn thất tín, chẳng quản lý được thông tin cho hữu hiệu và không được người
dân tin cậy. Đấy là về khung cảnh chung, về diễn biến lịch sử thì ta cần phân
ra ba giai đoạn.
Nguyên Lam: Xin ông trình bày cho thính giả các
đặc tính của ba giai đoạn đó.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Giai đoạn thứ nhất là từ những năm 1929
tới khi phát động cuộc chiến trong Nam vào năm 1960, họ có 30 năm vừa đấu tranh
chống Pháp vừa xây dựng xã hội chủ nghĩa tại nơi họ kiểm soát, vừa theo chủ
nghĩa Mác-Lenin, vừa chịu ảnh hưởng của tư tưởng Mao lẫn sự chỉ đạo thực tế của
Trung Cộng mà họ cố che giấu. Vào giai đoạn ấy, các đảng viên am hiểu chủ nghĩa
Mác rồi tư tưởng Mao thật ra không nhiều, họ còn thiếu chữ để truyền đạt cho
hai loại đối tượng khác nhau là cán bộ bên trong và quần chúng bên ngoài. Tôi
lấy một ví dụ là chân lý do Hồ Chí Minh đưa ra là “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội thì phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Ngoài chuyện rắc rối về ngữ pháp
đảo ngược, người ta chưa hình dung ra xã hội chủ nghĩa là gì thì làm sao xây
dựng? Trong cảnh ngộ ấy, ăn nói thế nào là đúng, là sai?
Giai đoạn thứ hai, từ
quãng 1960 cho tới 1986, việc tập trung quản lý bằng kế hoạch đòi hỏi tập trung
dữ kiện để lãnh đạo ban chỉ thị xuống dưới và đảng viên báo cáo lên trên. Cứ
tưởng là khi có chính quyền và lãnh thổ trong tay thì chuyện thông tin sẽ dễ
thống nhất. Thật ra, như trong mọi nhà nước xã hội chủ nghĩa, chế độ rơi vào
mâu thuẫn “xin-cho”, ở trên trưng thu tài nguyên để cho ở dưới, hầu trên dưới
đều đạt chỉ tiêu trong việc thi đua xây dựng. Vì vậy, thông tin chính xác cũng
thành khan hiếm và chẳng ai tin vào con số của người khác vì mọi người đều đóng
kịch. Trên thì đóng kịch ra lệnh, dưới thì đóng kịch thi đua lập thành tích
dâng đảng và ai cũng làm như ra sức xây dựng xã hội chủ nghĩa mà biết là ai
cũng đóng kịch nên chẳng ai tin ai hết!
Khi kinh tế bị khủng
hoảng, và tất yếu khủng hoảng kể từ quãng 1985-1986, chế độ vớt lấy cái đuôi xã
hội chủ nghĩa để bảo vệ sự tồn tại của đảng, nhưng áp dụng quy luật thị trường
với nền kinh tế ra khỏi hợp tác hóa, có nhiều thành phần theo định nghĩa mơ hồ,
mà bộ máy thư lại vẫn phải báo cáo rằng mọi sự đều tốt đẹp. Bộ máy ấy không
chịu trách nhiệm với dân hay với thị trường mà chỉ chịu trách nhiệm với thượng
cấp trong đảng nên cần báo cáo để vừa lòng cấp trên. Chứ tình hình ra sao họ
thì không biết hết vì mỗi cấp bên dưới đều nống vào hệ số tô hồng thực tế. Ngày
nay, 30 năm sau, nhà nước cộng sản Việt Nam chưa ra khỏi tình trạng ấy và nếu
họ có lúng túng vì vụ khủng hoảng Vũng Áng hay nơi khác thì ta chẳng ngạc
nhiên. “Thiên tai chưa bằng nhân họa” là thuộc tính của hai nước xã hội chủ
nghĩa Trung Quốc và Việt Nam.
Quần chúng không tin vào thông tin của nhà
nước
Nguyên Lam: Thế hệ của những người trẻ như Nguyên
Lam lại khó tưởng tượng ra cảnh ngộ quá đặc biệt của chế độ này. Nhưng trước
khi nói về tổ chức thông tin thì khi nhắc lại lịch sử, ông giải thích thế nào
về sự sụp đổ của các chế độ cộng sản trong quỹ đạo Xô viết vào các năm
1989-1991 và sự tồn tại của chế độ này tại Trung Quốc và Việt Nam?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Chúng ta không quên Liên Xô và các nước
Đông Âu đã phần nào công nghiệp hóa từ vài chục năm trước và đi đúng quy trình
xây dựng xã hội chủ nghĩa nên tự sụp đổ. Từ một nước nông nghiệp Á Châu, Mao đi
sau và học Staline để đón đầu lịch sử hầu trưng thu nông nghiệp làm vốn công
nghiệp hóa thật nhanh bằng kỹ nghệ nặng khiến mấy chục triệu người chết đói từ
1958 đến 1961. Khi Staline bị lãnh tụ Nikita Krushchev hạ bệ vào năm 1956, Mao
coi đó là mối nguy cho bản thân về tư tưởng lẫn an ninh nên tiến hành việc chỉnh
đảng mà lại nói khác đi.
Như Trung Cộng, Hà Nội
cũng cải cách ruộng đất, cũng quy chụp tội“xét lại chống đảng” cho những ai bất
đồng nên chế độ mầy mò tìm chữ diễn tả việc ấy cho thành phần cốt cán ở dưới có
thể huy động nông dân vào chiến dịch đấu tố, hay đưa các đảng viên vào việc vu
cáo đồng chí của mình, v.v… Thông tin và ngôn ngữ mất dần sự chuẩn xác và khách
quan vì hai yêu cầu tương phản về chính trị, rồi nhờ chưa kịp xây dựng xã hội
chủ nghĩa như Âu Châu nên chưa sụp, nhưng di hại về thông tin và văn hóa thì
vẫn kéo dài cho tới bây giờ.
Nguyên Lam: Nhưng khi đã có một chế độ toàn trị
trong tay qua mấy chục năm cầm quyền thì ngoài việc tuyên truyền, chẳng lẽ nhà
nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam chưa tổ chức nổi một hệ thống thông tin cho
chính họ hay sao?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là mọi quốc gia đều phải có ba
điều kiện tối thiểu để nắm vững thực tế là: thứ nhất là khí cụ quan sát đo đạc,
thứ hai là nhân lực được huấn luyện để sử dụng các khi cụ đó và thứ ba là văn
bản hay tư liệu trình bày kết quả ấy cho người khác biết và khai thác cho có
lợi. Trường hợp của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì sao trong lĩnh vực
thông tin?
Cái gọi là khí cụ quan
sát đo đạc là một hệ thống được tiêu chuẩn hóa, đồng bộ và thống nhất nhằm ghi
chép và tính toán các dữ liệu thu thập được, thí dụ đơn giản là tờ khai thuế
tại hải quan. Việt Nam thật ra chỉ có từ vài chục năm nay sau khi mở cửa hội
nhập kinh tế với thế giới, như đã có hệ thống kế toán quốc gia về kinh tế hay
hệ thống quan trắc thiết bị về môi sinh. Nhưng việc tiêu chuẩn hóa, đồng bộ và
thống nhất thì vẫn chưa có do các mục tiêu trái ngược về chính trị nên dù có ý
thức hệ gọi là “xã hội chủ nghĩa khoa học”, họ chưa áp dụng khoa học. Từ đó,
nhân lực được đào tạo để sử dụng các khí cụ ấy khó hành nghề và đành bọc xuôi
theo trào lưu tệ hại của bộ máy không còn bị gọi là quan liêu mà vẫn mang tính
thư lại. Hoàn cảnh quái đản là càng nói ra sự thật thì càng dễ bị kỷ luật khiến
các văn bản hay tư liệu trình bày kết quả không thể có giá trị sử dụng cho
người ở trong nghề, chứ chưa nói đến cho quần chúng. Kết cuộc thì nếu quần
chúng không tin vào thông tin chính thức của nhà nước nữa thì đấy là cái tội
của nhà nước và chế độ có đánh dân tới chết thì cũng chẳng che giấu được sự
thật này.
Nguyên Lam: Nếu vậy thì có lẽ mọi sự đều xuất
phát từ phạm trù “xây dựng xã hội chủ nghĩa”, thưa ông liệu rằng đấy có thể là
kết luận không?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: Mọi sự xuất phát từ
hiện tượng xin gọi là “độc quyền chân lý” khi một thiểu số duy nhất có quyền
định nghĩa thế nào là “xã hội chủ nghĩa” mà chính họ lại chẳng biết là gì. Vì
không biết xây dựng là gì thì họ xóa bỏ tất cả những gì họ cho là không thuộc
xã hội chủ nghĩa theo định nghĩa mơ hồ và dời đổi của họ. Việc xóa bỏ ấy được
dán cho một chữ có vẻ tích cực là “cải tạo” mà che giấu cả triệu thảm kịch chết
người trong hơn tám chục năm họ nắm quyền sinh sát. Khi ngôn ngữ lại thành công
cụ trấn áp từ tư duy đến lối sống của xã hội thì quốc gia không có tương lai,
bên trong thì chẳng ai dám tin ai nữa. Việc giới trẻ đang biểu tình có thể báo
hiệu một thay đổi là họ không muốn đóng kịch mà muốn sống thật, nói thật và làm
thật. Việt Nam mất gần trăm năm cho cuộc thử nghiệm ma quỷ này thì quả là đáng
buồn, vì vậy tôi mới trở về đầu nguồn của cái dốt và cái ác làm sụp đổ niềm
tin.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á châu Tự do xin cảm
tạ chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích rợn người này.