Friday, October 2, 2015

Gặp Bác Trần Kim Tuyến



GẶP BÁC TRẦN KIM TUYẾN
—-o—-


ĂN NHANH RỒI NÓI CHUYỆN :

            Một buổi chiều hè, tôi được hân hạnh gặp bác Trần Kim Tuyến. Vừa xuống xe, thấy bác đứng trước cửa nhà đón khách, tôi đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Đầu tiên là vóc người thật nhỏ, quá nhỏ, đối với một hình ảnh thật lớn trong đầu óc tôi. Rồi tới nước da trắng nhợt một cách lạ lùng, như chưa từng biết đến ánh nắng mặt trời. Giọng nói nhẹ nhàng, hiền hòa và đầy vẻ khiêm nhường khiến tôi liên tưởng đến một vị Tu Sĩ Châu Sơn, nơi tôi từng có dịp tá túc lúc còn nhỏ...Quả thực không thấy gì gợi lên được cái quá khứ đầy huyền thọai mà “nhân gian” thường truyền tụng.

            Bác niềm nở mời khách vào nhà, uống nước, rửa mặt sau chuyến đi xa, rồi lôi tất cả ra sân sau ngồi bệt trên cỏ nói chuyện. Sau vài câu vào đề rất ngắn ngủi, chúng tôi nói ngay sang chuyện thời cuộc, cũng một cách rất ngắn ngủi, trước khi bị cuốn hút vào những vấn nạn về lịch sử cận đại của VN, đặc biệt là về giai đoạn Đê Nhất Cộng Hòa. Vào lúc này, tôi chỉ nghe, chứ không nói gì. Bạn cùng đi và bác Tuyến kẻ hỏi người đáp, một cách dè dặt, thủ thế. Một lúc, bác Tuyến nói ít hẳn đi, tôi mới xen vào với vài câu chuyện chung chung để lấp những chỗ trống. Không khí chỉ cởi mở trở lại khi chúng tôi trở về với thời cuộc hiện tại. Bác Tuyến tươi cười luôn luôn, nên họa hoằn có lúc bác ngưng cười, là tôi lập tức chú ý và điều chỉnh...

            Ngồi vào bàn ăn cơm tối, bác bảo tôi “ăn nhanh rồi lên trên kia nói chuyện”. Một câu nói vô ý, nhưng lại thật đúng ý tôi. Bác gái cũng nhận thấy sự vô ý ấy, và vừa cười vừa cằn nhằn bác trai. Lúc ấy bác gái đã bắt đầu ra vào nhà thương, nhưng mấy tháng sau mới trở bệnh nặng, kéo dài cho đên lúc qua đời, cách đây khoảng chín tháng. Chúng tôi cũng được ra mắt bà cụ thân sinh bác gái. Bà cuốn khăn, trang phục hoàn toàn như ở VN thời xưa.


TỪ Ý THỨC HỆ ĐẾN CHÍNH QUYỀN :


            Cơm xong, bác Tuyến gọi tôi, là người ăn nhanh nhất, lên một căn phòng trên lầu. Bác ngồi ghế, tôi ngồi trên giường. Câu chuyện lần này rất mạch lạc, có thứ tự thời gian, có “dàn bài” rõ rệt. Đầu tiên là một vấn đề lý thuyết rất nền tảng. Bác phân tích tương quan giữa Ý Thức Hệ, Chủ Thuyết, Đảng, và Chính Quyền, như sau :
Người CS đi theo trình tự : có ý thức hệ, rồi mới có chủ thuyết, sau đó mới có đảng, rồi đảng đấu tranh lấy chính quyền. Như thế phẩm chất của đảng, trên phương diện đấu tranh, rất cao, vì phải có phẩm chất cao, đảng mới lấy được chính quyền. Tiến trình này cũng khiến cho khi chính quyền bị lung lay, thì đảng vẫn còn đó, khi đảng bị sụp đổ, thì chủ thuyết vẫn hiện hữu, và nếu chủ thuyết có sứt mẻ, thì ý thức hệ vẫn tồn tại. Ý thức hệ là điều rất khó xóa đi trong đầu óc con người, nên dù cho có mất cả chủ thuyết, đảng lẫn chính quyền, người ta vẫn có thể gây dựng lại từ đầu, tức từ ý thức hệ.


            Ngược lại, bên quốc gia, có chính quyền rồi mói vội vã lập Đảng, tìm Chủ Thuyết, kiếm Ý Thức Hệ. Điều này khiến cho phẩm chất của Đảng trong việc đấu tranh rất kém. Thật vậy, có chính quyền rồi mới lập Đảng, như trong hai nền Cộng Hòa ở miền Nam VN, khiến cho nhiều người vào “Đảng Chính Quyền” chỉ để kiếm ghế, tranh lợi lộc, dành địa vị. Tức là Đảng do chính quyền đẻ ra, sẽ gồm một phần không nhỏ những người cơ hội chủ nghĩa. Và khi Chính quyền sụp đổ, Đảng cũng tan rã, như trường hợp các Đảng Cần Lao, và Dân Chủ, dưới hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa VN. Về Đảng Cần Lao, bác vừa cười vừa nói, : “tôi với anh Nhu lập ra Đảng Cần Lao,  rồi không biết làm gì !”


            Thật ra, về vấn đề trên, tôi trộm nghĩ Đảng CS cũng vấp phải tệ nạn cơ hội chủ nghĩa sau khi Đảng này trở thành Đảng cầm quyền được một thời gian. Những người tham gia đấu tranh gian khổ lúc ban đầu, thì dễ dàng “biến chất”, trở thành trục lợi, ăn hưởng, còn những người tham gia sau khi đã lấy chính quyền, thì trong thực chất có thể cũng chẳng khác gì một phần không nhỏ những đảng viên của các đảng phái do các chính quyền quốc gia đẻ ra.
 Về ý tưởng “đổ chính quyền còn đảng, mất đảng còn chủ thuyết, v.v...” thì có người sẽ cho rằng CS đã bị bác bỏ từ Chủ Thuyết, và sẽ không bao giờ có thể gầy dựng lại được nữa. Tuy nhiên, tôi vẫn nghĩ tư tưởng của bác Tuyến có phần đúng. Thật vậy, trong thực tế, từ lúc phát sinh ra, bất cứ chủ thuyết nào cũng đều bị tấn công, bị phê bình bác bỏ, một cách thường trực, chứ không phải chỉ ở giai đoạn sụp đổ của nó. Không cần phải đợi đến đầu thập niên 90 người ta mới biết đập đổ chủ thuyết của những người CS cầm quyền trên thế giới. Còn sự sụp đổ thực sự của các chế độ CS, thì không có cách nào khác hơn là phải bắt đầu bằng chính quyền, rồi mới đến đảng, như ở Liên Sô. Thêm vào đó, tại nhiều nơi bên Đông Âu và Liên Sô cũ, từ những căn bản Ý Thức Hệ CS, người ta đã hình thành trở lại những đảng phái có khuynh hướng Xã Hội, và nhiều đảng loại này đã lấy lại được chính quyền...
Tôi cũng có hỏi về thuyết Nhân Vị, mà tôi đã từng có dịp đọc qua ở Pháp, vì thuyết này vốn của một người Công Giáo Pháp tên Emmanuel Mounier đề ra. Bác Tuyến cho rằng đó chỉ là những quan niệm có tính cách luân lý, đạo đức, hơn là một chủ thuyết chính trị.


VỤ GIÁO PHÁI VÀ HAI CUỘC ĐẢO CHÁNH :


            Khi mọi người đã lần lượt tề tựu đến, người ngồi trên giường, kẻ bắc thêm ghế, thì bác Tuyến nói sang việc nước thời T.T. Ngô Đình Diệm. Như để trả lời một câu hỏi tế nhị được đặt ra hồi chiều, bác kể lại chuyện bác bắt đầu vào làm việc cho chính phủ lúc ấy. Bác nói :“Ông Nhu cho tôi một bàn giấy ở bộ Thông Tin, rồi trong suốt hơn một năm trời tôi chả làm gì cả, chỉ ngồi đọc báo !”. Chúng tôi hiểu, đó là giai đoạn xảy ra cuộc xung đột “Giáo Phái”...Bác cũng nói đến một số nhân vật như các ông Nguyễn Bảo Toàn, Hồ Hán Sơn, Vũ Tam Anh, v.v... Rồi, như để ngừa trước một câu hỏi tế nhị khác, bác Tuyến nhắc lại việc đi làm Đại Sứ trong giai đoạn cuối của Đệ Nhất Cộng Hòa VN. Sẵn dịp bác kể chuyện cuộc đảo chánh lần đầu, và vụ Caravelle. Trong vụ này có một khủng hoảng nhỏ với chính quyền Hoa Kỳ, khi bác Tuyến phát hiện và trục xuất một người Mỹ thuộc cơ quan tình báo, có mặt trong một buổi họp của nhóm chủ trương.


            Về cuộc đảo chánh TT Diệm lần đầu, bác Tuyến kể nhiều giai thoại. Tôi nhớ đại khái rằng cuộc đảo chánh ấy đã thất bại phần lớn do phản ứng của một vị công chức cấp nhỏ của sở điện thoại...


TỪ ẤP CHIẾN LƯỢC ĐẾN CHƯƠNG TRÌNH BÌNH ĐỊNH VÀ PHÁT TRIỂN :


            Sau khi nói nhiều về các vấn đề trên, bác Tuyến trở lại “dàn bài” lúc đầu. Bác nói :“chúng tôi cố làm tất cả những gì chúng tôi làm được trong lúc ấy”. Từ đó, bác kể lại những căn bản của chương trình “ấp chiến lược”. Chương trình này đã bị bộ máy tuyên truyền của phe CS xuyên tạc nhiều, đưa đến phản ứng tiêu cực từ một số dân chúng. Thái độ ấy, cũng như những vụng về và sơ sót của một số cán bộ quốc gia, đã gây nên những trường hợp quá khích, gây tổn hại cho người dân. Tôi có cảm tưởng, khi nghe bác Tuyến kể lại, rằng “ấp chiến lược” chính là tiền thân của các chương trình “xây dựng nông thôn” và “bình định phát triển” sau đó. Bác nói rất nhiều về lý thuyết của các chương trình này, như một nhà văn say mê bình luận tác phẩm của mình. Nhờ lúc còn con nít có được ra “chầu rìa” ngoài Chí Linh ít lâu, nên tôi cũng có chút hiểu biết về các chương trình ấy, nhất là chương trình “xây dựng nông thôn” , với 11 mục tiêu 98 công tác (11 mục tiêu là : diệt CS nằm vùng, loại trừ tham nhũng, tổ chức bầu cử hội đồng xã ấp, đoàn ngũ hóa nhân dân, chống nạn mù chữ, làm trường học, làm trạm y tế, xây dựng cầu cống đường xá, tổ chức thuế vụ, chương trình thông tin, và chương trình đãi ngộ chiến sĩ, cán bộ, cùng gia đình họ; chương trình này được hỗ trợ bởi kế hoạch CG, tức dân ý vụ, và PRU, tức trinh sát tỉnh). Nhờ thế, tôi được dịp phần nào bàn tán qua lại với bác cho cuộc đối thoại thêm hào hứng. Bác không dấu những mặt tiêu cực, nhưng trong đánh giá tổng quát, thì coi đó là những chìa khóa của sự thành công của VNCH trong việc tái lập an ninh và ổn định sau những giai đoạn rất hỗn loạn, và luôn bị đe dọa tại khắp các vùng nông thôn. Bác đồng ý với tựa đề quyển sách của W.Colby, gọi cuộc chiến VN là “một chiến thắng bị bỏ mất” (lost victory). Tôi để ý dường như ông Colby
là người duy nhất mà bác Tuyến gọi là “nó”, một cách thân thiện. Ngoài ra đối với bất cứ ai, dù là đối thủ, dù đã từng thù ghét hay làm hại bác, bác cũng đều gọi là “ông ấy”, hay “anh ấy”. Khi nhắc đến những người bác không ưa, tôi thường chỉ nghe bác cười rằng “cái ông ấy...” rồi ngưng lại, không một lời chỉ trích nào hết.


TÌNH BÁO VIỆT NAM :


            Một đề tài mà tôi được nghe khá lâu là sự hình thành và tổ chức của hệ thống tình báo ở miền Nam. Thú thực là tôi thiếu những dữ kiện kỹ thuật và lịch sử để hiểu hết. Tôi còn nhớ vài giai thoại như vụ ám sát hụt ông Hoàng Sihanouk, một việc mà bác Tuyến rất không đồng ý. Bác cũng nói qua về việc thả nhân viên ra Bắc. Điều mà tôi ghi nhận là một trong những cách thức lấy tin của bác Tuyến rất đặc biệt. Bác dựa vào tình cảm, vào sự giao thiệp rộng rãi, và sự giúp đỡ người khác để có tin tức đến từ nhiều môi trường khác biệt. Khi cần, bác luôn sẵn chỗ để hỏi tin tức, vì không ông này thì ông khác, trước đó ít lâu, cũng đã từng nhờ bác can thiệp giúp mắc được đường giây điện thoại một cách nhanh chóng sau nhiều tháng trì trệ, hay giúp giải quyết một tranh chấp với một cơ quan chính quyền, một vấn đề thuế má, một khó khăn về giấy tờ v.v...Với nụ cười ranh mãnh, bác bảo :“tôi chỉ ngang hàng chủ sự, lúc đầu chỉ ăn lương thiếu úy, thế mà chuyện gì họ cũng đến nhờ tôi.” Thật ra khi ấy, hào quang của bác Tuyến đã khiến cho nhân viên của cơ quan nào nhận được điện thoại của bác cũng đều vội vã đáp ứng tất cả những gì bác yêu cầu, nhanh hơn cả khi nhận được lệnh của chính thượng cấp trực tiếp của họ ! Sự hiệu quả của những can thiệp của bác, lại càng làm tăng thêm cái hào quang đã sẵn có kia, khiến người ta càng thêm đồn đại về thế lực của “BS Trần Kim Tuyến” ! Cần nói là khi ông Nhu gửi máy bay ra Hà Nội khẩn cấp mời vào Sài Gòn hợp tác với chính phủ, bác Tuyến mới chưa đầy ba mươi tuổi !


BẮT HỤT LÊ DUẨN :


            Trong các buổi nói chuyện khác, chúng tôi trở về lối hỏi đáp, và lướt qua nhiều đề tài cũng như nhân vật. Về ông Phạm Ngọc Thảo, được chính phủ Hà Nội tuyên dương như một người rất có công với “cách mạng”, bác Tuyến cho biết bác vẫn không tin ông Thảo dã trá hàng. Bác Tuyến kể lại lần đầu gặp ông Thảo, rồi sự thăng tiến của ông trong chính quyền VNCH, cũng như những âm mưu ám sát ông của phía bên kia. Bác nhắc lại kỹ thuật đề phòng khỏi bị ám sát rất tinh tế và hữu hiệu của ông Thảo. Theo bác Tuyến, có lần ông Thảo đã cho đầy đủ dữ kiện để bắt Lê Duẩn, và khi nhân viên của chính phủ VNCH ập đến, thì Lê Duẩn mới vừa rời khỏi địa điểm ấn định không đầy vài phút. Nguyên do của sự chậm trễ ấy là do ở nhân viên của chính phủ VNCH chứ hoàn toàn không thể được tính toán trước bởi ông Thảo. Ngày nay, khi biết rằng sau đó, Lê Duẩn sẽ trở thành người dẫn đầu phe chủ trương thôn tính miền Nam bằng một cuộc chiến tranh quy mô, phải chăng chúng ta có thể hình dung được một khúc quanh khác cho lịch sử VN nếu ông này bị bắt vào lúc ấy, do sự chỉ dẫn của ông Phạm Ngọc Thảo ?


THOÁT TRONG ĐƯỜNG TƠ KẼ TÓC :


            Một câu chuyện mà tôi rất say mê, là sự thoát khỏi VN trong đường tơ kẽ tóc, lúc Sài Gòn thất thủ, của bác Tuyến. Tôi nghe như thế này : lúc ấy gia đình bác đã được đưa đi quốc ngoại. Bác còn ở lại, tưởng cũng sẽ di tản trong một chuyến sau. Nhưng rủi thay tình thế trở thành rối loạn quá nhanh chóng, khiến cho các kế hoạch đưa người đi hoàn toàn bị đảo loạn. Bác không còn lối thoát. Ngày cuối, bác đến khách sạn Continental tìm bạn quen vấn kế. Gặp ông Phạm Xuân Ẩn, một người theo bên kia bị bác bắt được ở Hạ Lào nhưng thả ra và cho đi học về báo chí ở Mỹ. Sau ông Ẩn làm biên tập viên cho tờ Time. Ông thấy bác còn kẹt lại, liền hốt hoảng gọi điện thoại vào Tòa Đại Sứ Mỹ hỏi cách để đưa bác đi. Người trong Tòa Đại Sứ cho biết ông ta không thể trả lời ngay, và hẹn sẽ gọi lại. Ông Ẩn bảo bác Tuyến cứ ở trong phòng của ông nghỉ ngơi trong khi chờ điện thoại của người kia. Nhiều giờ trôi qua, không tin tức, bác Tuyến bắt đầu tuyệt vọng, và dường như là đã bỏ đi đâu gần đó. Lúc ấy, người trong Tòa Đại Sứ Mỹ gọi lại, ông Phạm
Xuân Ẩn nhắc máy. Bác Tuyến nói nếu ông Ẩn chỉ giả vờ giúp bác, thì ông đã lờ cú điện thoại ấy đi. Nhưng không, ông lập tức chạy đi tìm bác Tuyến và lôi bác đến điểm hẹn cuối cùng để bốc người di tản, ở gần Mission Culturelle Pháp. Hai người chạy đến nơi, thì cửa sắt đang đóng xuống. Bác Tuyến nhỏ người chui tọt qua được, ông Ẩn cầm cái sách tay của bác ném sang phía bên kia, rồi anh em nhìn nhau gạt lệ giã từ. Bác chạy vội lên lầu cao ốc, lúc trực thăng đang sắp sửa rút thang. Người đưa tay kéo bác lên máy bay không ai khác hơn là Trung Tướng Trần Văn Đôn. Ông Phạm Xuân Ẩn ở lại, được tuyên dương như một nhân vật tình báo có công lớn đối với chính quyền miền Bắc. Lúc bác Tuyến kể chuyện về ông, thì cũng có tin ông vừa trả lời phỏng vấn của một tờ báo Mỹ nào đó. Có lẽ tờ Time ?


            Cả năm sau, tôi được nghe nói về ông Vũ Ngọc Nhạ, nhân có người ở Paris viết sách về ông ta. Sẵn điện thoại thăm bác Tuyến, và hỏi bệnh tình bác gái, tôi nhắc đến ông Nhạ. Bác Tuyến vừa cười vừa kêu : “Ối Giời ơi, cái ông ấy...!”


VATICAN :


            Một dịp khác qua điện thoại, tôi hỏi về ảnh hưởng của Tòa Thánh Vatican đối với VN. Bác nói “CS họ có truyền thống sợ Vatican, làm nhiều người cứ nghĩ theo họ, tưởng rằng Vatican là thế lực ghê gớm lắm”. Tôi nghĩ có lẽ người CS cần “vạch mặt chỉ tên” một tổ chức có mặt trên toàn thế giới để cụ thể hóa một “thế lực phản động quốc tế” tương xứng với khái niệm “quốc tế CS” của họ. Cái “quốc tế không CS” thường hay được họ chiếu cố nhất, chính là Vatican, vì trong tâm lý của họ, Giáo Hội Công Giáo có mô hình tổ chức giống họ (thật ra là họ bắt chước Công Giáo), và có đủ điều kiện để trở thành một hình ảnh đối xứng với họ ở phía bên kia bức màn sắt. Theo bác Tuyến thì cách nhìn này là tưởng tượng, là một thứ “fantasme”, một hiện tượng tâm lý. Tôi cũng có hỏi về ảnh hưởng của các Đức Ông VN làm việc bên cạnh Đức Giáo Hoàng trong Tòa Thánh. Bác bảo người ta cứ gán cho các Ngài những vai trò mà các Ngài không có. Điều này xét cho cùng rất có hại cho Tòa Thánh, và cho Giáo Hội Công Giáo VN. Thật ra, có lẽ thế lực của một số Giáo Quyền đã thực sự hiện hữu ở một giai đoạn lịch sử trước đây, nhưng ngày nay thời thế đã đổi khác nhiều...


KỲ THỊ NAM BẮC ?


            Bác Tuyến kể rằng có lần TT Diệm giao cho bác thiết lập một danh sách những người tín cẩn và nhiều khả năng để cộng tác với chính phủ. Bác đưa danh sách xong, TT Diệm nói :“Tại sao chỉ toàn người Bắc ?” Bác trả lời :“Tổng Thống dặn tôi lập danh sách những người tín cẩn và có khả năng, mà suốt đời tôi cho đến nay chỉ sống ở ngoài Bắc, tôi không biết người Nam nào cả, làm sao dám tiến cử người Nam với Tổng Thống ? Vì thế tôi chỉ đề nghị những người tôi biết rõ...” Ai dám lên án cách suy nghĩ và xử sự này ? Không thể hô hào kêu gọi người dân “ba miền” đoàn kết với nhau, mà phải tạo điều kiện để có sự trao đổi, gặp gỡ, và cảm thông giữa người ở chỗ này với chỗ khác. Bác Tuyến sau này có nhiều bạn hữu người Nam, và nếu lúc đó có phải lập lại một danh sách, thì chắc chắn trong đó sẽ có rất nhiều người Nam.


TỪ ĐỆ NHẤT ĐẾN ĐỆ NHỊ CỘNG HÒA :


            Tôi có được nghe qua về những quan hệ cá nhân và công việc giữa bác Tuyến và gia đình TT Diệm. Bác cho biết đã gặp TT Diệm lần đầu tiên lúc ông đi lánh nạn trên miền thượng du Bắc Việt. Lúc ấy bác Tuyến là người đạp xe đạp đi dẫn đường, TT Diêm ngồi xe hơi theo sau. Mãi khi đã trở thành Tổng Thống, ông Diệm mới biết việc này, và ngạc nhiên hỏi bác Tuyến :“lúc đó, là ông à ?”


            Bác cũng nói về những bất đồng ý kiến với ông Nhu vào giai đoạn cuối của Đệ Nhất Cộng Hòa, đưa đến việc bác từ chức, và sau đó xảy ra cuộc đảo chánh tháng 11 năm 1963. Như đã nói ở trên, vào lúc xảy ra cuộc đảo chánh, bác Tuyến ở ngoại quốc, và khi trở về đã phải vào tù ít lâu. Bác nhắc lại với nụ cười ranh mãnh, tất cả những mạ lị, vu khống, mà người ta đã dựng lên lúc bác thất thế, kể cả những người đã từng quỵ lụy nhờ vả bác. Bác
phải chịu đựng nhiều vụ kiện rất vô lý, như vụ thanh niên cộng hòa phá phách một phòng thử nghiệm y khoa từ nhiều năm trước đó, và đã được chính phủ đề nghị bồi thường. Nguyên đơn đòi bác phải bồi thường thêm, viện dẫn rằng “chế độ Ngô Đình Diệm” có ba người lãnh đạo là ông Nhu, ông Diệm và bác Tuyến. Nay “Diệm Nhu” đã chết, thì bác Tuyến phải lãnh hết những trách nhiệm của giai đoạn đó !


            Ra tù, bác không có nhà ở, và nhớ lại lúc trước có được một vị giáo sư trách nhiệm Làng Đại Học đến gặp và xin dành cho bác một khu đất trong đó. Bác dự định đến làm nhà nơi ấy, thì được biết khu đất của bác đã bị người khác chiếm mất. Thì ra khi bác thất thế, người ta đã đi tìm một vị bộ trưởng “đang lên” để dâng tặng khu đất đã nhượng cho bác. Sau, ông bộ trưởng này, lúc đã thôi làm bộ trưởng một thời gian, lại được chọn vào một nội các thành phần thứ ba để hòa giải với phe CS lúc miền Nam gần thất thủ. Giờ chót, tên ông bị loại. Ông ngạc nhiên không hiểu vì lý do gì ? Sau không biết nhờ ai mách nước, ông nghĩ rằng chính bác Tuyến đã xóa tên ông vì câu chuyện khu đất ở làng Đại Học. Ông vội vã chạy đến gặp bác, phân trần và đổ lỗi cho ông giáo sư trách nhiệm phân phối đất đã nói ở trên !


MỘT CON NGƯỜI TỪ TỐN :


            Một điều đặc biệt nơi bác Tuyến là bác rất ít khi nào nói đến chuyện gì một cách quả quyết. Bác thường dùng chữ “tôi chả biết”, nhưng lại thêm vào ngay sau đó “nhưng tôi có nghe người ta bảo thế này”. Để xác nhận một việc gì, bác nói:“thì tôi cũng nghe nói vậy”. Còn để phủ nhận, bác chỉ cười, rằng :“họ nói thế...”, hay “ông ấy nói thế...” Không khi nào thấy bác chỉ trích người này nói bậy, kẻ khác sai lầm. Quá quắt lắm, bác chỉ hơi nhăn mặt :“cái ông ấy...” Trong lý luận, thì bác luôn sử dụng các chữ “tôi nghĩ vậy”, hay “có lẽ là như vậy”. Ôi ! đường đường một vị giám đốc của “Sở Nghiên Cứu Chính Trị”, người làm ra và điều khiển ngành tình báo của cả một quốc gia, mà chuyện chi cũng “chả biết”, nói gì cũng thêm vào chữ “có thể”, thì quả thực là một tấm gương sáng cho tất cả những ai muốn dấn thân vào việc nước đó vậy !


MỘT ĐỜI SỐNG GƯƠNG MẪU :


            Tôi rất cảm phục bác Tuyến trong đời sống thường ngày của bác. Sáng sớm, tôi thức giậy, mò xuống nhà, thì thấy bác dã sửa soạn chu đáo bàn ăn sáng cho khách trọ “guest-house"(bác sinh sống nhờ cái khách sạn nhỏ xíu này). Bác nhẹ nhàng đặt từng chiếc muỗng, từng tách cà phê, như đang làm một điều gì rất trọng đại. Mọi công việc đều chu đáo, mọi động tác đều cẩn thận, hoàn hảo. Ngày nào bác cũng làm những công việc ấy, những động tác ấy, với một sự cẩn trọng đều đặn như nhau. Sau này, khi bác gái phải nằm bệnh viện, bác cũng hàng ngày vào nhà thương ngồi đến tối, đều đặn như đồng hồ. Vào những tháng cuối cùng của bác gái, bác lo chăm sóc ở nhà, cũng với sự tận tụy, và đều đặn như vậy, khiến bác mệt nhiều. Tôi được biết qua điện thoại là bác chỉ chịu nghỉ ngơi một chút khi có y tá đến thay thế.

            Rồi một buổi tối, điện thoại reo. Bên kia đầu giây là bác Tuyến. Vẫn với giọng nói nhỏ nhẹ, bác cho biết :“Nhà tôi đi rồi Vân ạ”. Những ngày sau đó, tôi nói chuyện điện thoại với bác khá nhiều. Khi thì bác gọi tôi, cảm ơn tôi tặng vòng hoa, khi thì tôi gọi bác , nghe than phiền vụ tìm đất không được, chỗ nào cũng phải bốc đi sau mấy năm, hay không cho xây mộ, thậm chí tìm đến đất Tin Lành (Anh Giáo) cũng không xong, v.v...Bác có vẻ rất bình tĩnh và sáng suốt. Tôi có dịch bài Ca Vịnh “Requiem Aeternam” của Esdras trong Cựu Ước, gửi biếu bác. Ít lâu sau, tôi nhận được một bài thơ đề là của bác gái nhắn gửi phu quân và các con, làm lúc còn sáng suốt, kèm với một thư cảm ơn. Qua điện thoại, bác cũng cho biết có thể hè này sẽ đi Pháp...


            Tôi không dè mấy tháng sau bác lại đã ra người thiên cổ.

NGUYỄN HOÀI VÂN
15/8/1995

Nguồn: http://nguyen.hoai.van.pagesperso-orange.fr/TranKimTuyen.htm


Chuyện Tình "Nắng Chiều"



Chuyện "Nắng Chiều" Saigon  

Giữa thập niên 1960, trong chương trình nhạc FM, thỉnh thoảng, người nghe lại bắt gặp một nhạc phẩm rất quen thuộc, bài Nắng Chiều của Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, được hòa tấu bởi dàn nhạc Symphony of the New York City. Có thể nói, đấy là một trong vài nhạc phẩm Việt Nam đầu tiên, cất cánh, bay lên và ra khỏi không gian hạn hẹp của đất nước. Nhạc phẩm hòa tấu này, thỉnh thoảng, vẫn còn được nghe . Tuy nhiên, ít biết được lai lịch hay định mệnh khốc liệt về nhạc phẩm Nắng Chiều.

Sinh thời, nhạc sĩ Hoài Bắc Phạm Đình Chương, một người bạn rất thân với Nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn kể rằng, nhạc phẩm Nắng Chiều là ca khúc đầu tay của Lê Trọng Nguyễn. Giữa thập niên 1950, khi Lê Trọng Nguyễn gặp một thiếu nữ Nhật Bản, làm việc cho tòa lãnh sự Nhật Bản ở Saigòn, hai người yêu nhau, Lê Trọng Nguyễn mới viết ca khúc Nắng Chiều. Ghi lại kỷ niệm cuộc tình của hai người. Cuối thập niên 50s, hết nhiệm kỳ, người con gái xứ Mặt Trời Mọc này, mang nhạc phẩm Nắng Chiều về nước, chuyển sang lời Nhật, cho trình bày trên đài phát thanh Nhật Bản...chỉ một sớm một chiều nhạc phẩm Nắng Chiều đã nổi tiếng khắp xứ Phù Tang. Đấy là lần đầu tiên dân Nhật biết tới nền tân nhạc Việt.
Đầu thập niên 60, Shoshi Koe vận động với bộ ngoại giao Nhật, xin trở lại làm việc tại Saigòn.

Năm 1961, Shoshi được toại nguyện. Cuộc tình giữa một nhạc sĩ Việt Nam và một cô gái Nhật được nối tiếp. Ở thời điểm 1963, Lê Trọng Nguyễn sáng tác thêm hai ca khúc. Đó là các bài Sao Đêm và Chiều Bên Giáo Đường. Cả hai ca khúc vừa kể của ông, đều được những người làm nhạc và yêu nhạc ở Saigòn, đón nhận như những hạt ngọc quý của tân nhạc Việt Nam thời gian ấy, vì tính nghệ thuật cao của chúng.

Vẫn theo dư luận thì cuộc tình của dị biệt chủng tộc kia chỉ kéo dài thêm được 3 năm, thình lình bị đứt đoạn. Cuối năm 1963, Shoshi bị gia đình gọi về nước.Trước khi chia tay người yêu, Shoshi nói, cô sẽ vận động để trở lại Việt Nam hoặc đưa Lê trọng Nguyễn qua Nhật Bản, để chính thức thành hôn. Nếu không làm được điều ấy, cô sẽ chấm dứt đời sống của mình. Một năm sau, năm 1964, các báo ở Tokyo, đồng loạt đăng tải về cái chết của Shoshi, đồng thời chuyện tình giữa cô và một nhạc sĩ Việt Nam được nhắc tới...

Du Tử Lê



Ba Câu Chuyện về Ba Mẹ Con Bà Ngô Đình Nhu




Chuyện về 3 Mẹ Con Ngô Đình Nhu

Mais où sont les neiges dantan?  (Villon)
Nhưng đâu rồi những cánh tuyết năm xưa?
   
I.
NGÔ ĐÌNH LỆ THỦY, HỒNG NHAN MỆNH YỂU
Tác giả : Kim Thanh


Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương 
   (Đoạn Trường Tân Thanh)

1. Niên khóa 1962-63, tôi học năm cuối của chương trình Cử Nhân Giáo khoa Văn Chương Pháp tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn. Còn nhớ cùng lớp tôi lúc ấy có nhạc sĩ Hùng Lân (Hoàng Văn Hương), người hiền lành, dễ mến, như một thầy tu, thỉnh thoảng nổi hứng bất tử ngồi lén ghi nốt nhạc ngay tại chỗ, trong lúc thầy giảng bài. Có bà sơ Phạm Thị Nhâm, mà tôi thường hỏi mượn cua mỗi lần trốn học đi chơi, sau trở thành hiệu trưởng trường Nữ Thánh Tâm Nha Trang, và đã nhận ra tôi ngay khi vừa thấy tôi lò dò đến trường xin dạy. Có Đặng Tiến, da vàng xanh như người bị sốt rét kinh niên, tóc bờm xờm không chải, trước 1975 ở phòng tùy viên Tòa đại sứ VNCH tại Thụy Sĩ, đào ngũ qua Pháp sống cho đến bây giờ, chuyên viết báo nịnh hót Cộng sản và phê bình gia văn chương tầm cỡ. Có Đại úy Ngô Văn Minh, sau lên chức Đại tá Tham mưu trưỏng Quân Đoàn III, Biên Hòa. Có Wang Seng, cô bạn Tàu, Bùi Thế Cần, Lương Thị Nga, Thái Thị Nhân, Lê Thị Bích, Thái Tuyết Lê, Lê Thị Ngọc Loan, và Irène Công Huyền Tôn Nữ Phụng Tiên  –đồng hương Nha Trang và đồng môn trong lớp Latin của ông Le Menn và Michel Piclin–  tất cả đang ở Pháp. Có Nguyễn Nương Minh Châu, sau thành vợ Bác sĩ Đinh Hà, cả hai là cựu JECU (viết tắt của Jeunes Etudiants Catholiques Universitaires, Thanh Sinh Công Đại Học), đang sống rất thầm lặng tại một nơi nào trên đất Mỹ. Học trên chúng tôi là Nguyễn Ngọc Diễm, Phạm Dương Hiển, Lưu Nguyên Đạt, Nghiêm Hồng (con giáo sư Nghiêm Toản), và Nghiêm Ngọc Thúy (con ông Nghiêm Xuân Thiện, sau này làm hôtesse cho Air France).
     
Đầu niên học, từ lầu ba, tôi và Bùi Thế Cần (học giỏi có thể nhất lớp, con của dân biểu Bùi Tuân, Huế) hay xuống lầu một, vào giảng đường Dự Bị, để tìm người quen giữa đám nai vàng ngơ ngác, hay đúng hơn tuyển mộ tân binh cho JECU.
Lúc ấy, Cần là trưởng JECU Liên Trường, Nguyễn Ánh Tuyết (con trai), thư ký, còn tôi, trưởng Nhóm Văn Khoa Pháp. Một hôm, tôi thấy đứng trước cửa giảng đường một sĩ quan mang ba hoa mai bạc, đầu đội béret đỏ, tay cầm một xấp cua. Ông dáng cao gầy, vẻ tươi cười. Gặp ông, tôi khẽ gật đầu chào, và ông lịch sự chào lại. Có người cho biết, đó là Đại tá Cao Văn Viên. Mấy năm sau, ông lên tướng, trở thành xếp quá lớn của tôi, và lấy bằng Cử Nhân Pháp. Có kẻ xấu mồm nói, ông nhờ người đi học và đi thi thay cho ông. Tôi không tin. Vì ở Văn khoa Pháp, thầy cô không phát cua, phải vào lớp ghi chép hoặc mượn ai, và kỷ luật thi cử lúc bấy giờ khá gắt gao, ít sinh viên, lại phải thi oral, thầy trò biết mặt nhau hết, rất khó gian lận.
     
Vào trong giảng đường, Cần và tôi ngồi lẫn lộn với đám tân sinh viên, nghe cha Pineau (thay cha Cras) giảng về Socrate và Hégel hay thầy Kiết dịch tiếng Pháp ra tiếng Việt mà phát mệt trở lại. Một hôm, chúng tôi thấy Yvonne Lan Hương, cô bạn trong JECU, học dưới một lớp, đang ngồi trò chuyện với một cô. Bèn sà đến. Yvonne giới thiệu, đây Thủy, Ngô Đình Lệ Thủy. Lần đầu gặp cô, chúng tôi không nói gì hơn ngoài vài câu xã giao thông lệ.


Về sau, khi Lệ Thủy gia nhập JECU Văn khoa Pháp, tôi tiếp xúc với cô thường hơn, nhưng cũng chỉ để thông báo ngày giờ và chương trình họp của Hội. Cô có dáng thanh thanh, vẻ thùy mị, thông minh, ít nói, ít cười, đôi mắt linh hoạt, mặt trái soan, cằm hơi nhọn, tóc dày, cài bandeau trắng hoặc đỏ. Chúng tôi nói tiếng Pháp với nhau, cho nên bây giờ tôi không biết cô nói tiếng Việt ra sao, giọng miền nào. Đó là một điều mà sau gần nửa thế kỷ, già đi, nghĩ lại, tôi thấy “dị hợm”, mắc cỡ, mặc dù do thói quen, giống như các em Việt Nam hiện tại ở Mỹ nói chuyện bằng Anh ngữ, chứ chẳng vì “snobisme”, thời thượng, lòe thiên hạ. Lệ Thủy thường mặc váy đỏ, áo sơ mi trắng đi học, đôi khi cả đồng phục Thanh Nữ Cộng Hòa. Nói chung, cô đẹp, nhưng không lồ lộ, sexy như Irène, không tươi lộng lẫy như Lương Thị Nga. Một sắc đẹp trang nhã, đài các, kín đáo. Tôi để ý, cô ở đâu là luôn luôn có một, hai anh chàng gorilles (hộ vệ), giả dạng sinh viên, ngồi phía dưới, cách cô một dãy bàn, nhìn chòng chọc vào mọi người.
   
JECU Văn Khoa Pháp lâu lâu ra một tờ Bản Tin (Bulletin), bằng tiếng Pháp, do Bùi Thế Cần, Ánh Tuyết, Minh Châu và tôi viết gần hết, vì không ai gửi bài. Trong đó, thỉnh thoảng có đăng một vài bài thơ tình lẩm cẩm của tôi, không đối tượng, chỉ là gửi gió cho mây ngàn bay, mà bây giờ tôi còn nhớ lõm bõm vài câu:

              Je veux tremper mes lèvres
              Dans l eau pure de ton coeur
              Et émerger frissonnant
              D une aube de lumière...
              (Tôi muốn nhúng đôi môi
              Vào nước tinh tuyền tim em
              Và bừng lên run rẩy
              Dưới ánh sáng bình minh…)


hay những câu dịch thơ của John Keats, hoặc Tennyson, đại khái:

              Ce n est pas toi que je regrette
              C est le rêve par toi brisé
              (Không phải em mà tôi tiếc nuối
              Mà giấc mơ vì em vỡ tan)

   
Lệ Thủy đọc xong, mày hơi nhíu, bảo tôi, nghiêm trang như một cô giáo la rầy học trò: "Je n savais pas que tu es si romantique. Les poèmes d’amour, ça c’est vraiment beau, mais ils désespèrent aussi" (tôi không biết anh lãng mạn dữ thế. Những bài thơ tình hay thật, nhưng cũng làm người ta tuyệt vọng). Tôi khoát tay, ấp úng chối tội như ăn vụng bị bắt quả tang: "Un peu, oui, j’ ne les ai faits que pour mamuser. Rien de sérieux!" (Chút chút, đúng, tôi chỉ làm để chơi vui thôi mà. Không có gì quan trọng!).
     
Lệ Thủy không bao giờ đến CLB Phục Hưng để họp, ngoại trừ một lần, tôi nhớ, tham dự thánh lễ đầu tháng cho toàn JECU do cha Pineau cử hành, rồi về ngay sau lễ. Chúng tôi chỉ gặp nhau tại giảng đường Propédeutique, trong giờ nghỉ giải lao, năm sáu đứa ngồi cuối phòng, có khi tại bàn của Lệ Thủy, thảo luận, hay trao đổi vài thông tin cần thiết. Hai anh chàng gorilles, chắc đã được báo trước, đứng xa xa hút thuốc, để chúng tôi yên.
   
Một ngày thứ bảy, JECU Liên Hội tổ chức đi thăm trại cùi và nhà thương điên Chợ Quán, sau đợt công tác thăm viếng dân lao động nghèo tại Xóm Chùa cách đó mấy tháng. Mỗi người góp mười đồng, làm chi phí lặt vặt, và ăn trưa. Số tiền không nhỏ, hơn ba tô phở vào thời ấy, đối với ngân quỹ khiêm tốn của sinh viên còn lãnh lương cha mẹ. Lệ Thủy đưa cho tôi một trăm đồng, trước mặt Cần, nói là tiền của “maman cho Hội”, nhưng “tiếc là bận việc bên Thanh Nữ Cộng Hòa, không đi với tụi toa được.” Tôi nhận tiền, cám ơn, rồi nói nhỏ vào tai Cần: “Như thế cũng hay. Có Thủy tham gia, hai  gorilles phải theo, phiền phức, mà trông ngứa mắt lắm!”

Hôm ấy, tất cả chúng tôi, khoảng bốn chục người, chia nhau lên hai xe buýt, tuyến đường Chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo. Hoặc tự túc, có xe hơi riêng, như hai chị em Anh Thư và Hạp Thư, hay “đại ca” Dược sĩ Hoàng Ngọc Tuệ. Tổ y tế gồm các sinh viên Y khoa, trang bị ống nghe và túi cứu thương, do Đinh Hà hướng dẫn, làm công tác khám bệnh, phát thuốc. Tổ ăn uống do Rosa, sau thành vợ của Nguyễn Ánh Tuyết, và người chị là Rosette, điều động. Tổ văn nghệ gồm một cây guitare và một số ca sĩ mầm non, do các cô bên Dược, tôi nhớ có Yvette Trương Tấn Trung, Tôn Nữ Tâm Thường, và Nguyễn Cẩm Nhung (con của Luật sư Nguyễn Văn Huyền) phụ trách. Bùi Thế Cần làm tổng tư lệnh, Ánh Tuyết phụ tá hành quân.
     
Đầu tiên chúng tôi thăm nhà thương điên. Toàn đàn ông. Vài ông, tóc dài rũ rượi, biểu diễn nhiều màn rất… điên, như xé áo xé quần, rú lên những tràng cười kinh dị, khiến các cô sợ quá, mặt mày tái mét. Nhưng đa số hiền lành đứng nhìn chúng tôi đi qua, vẻ thẫn thờ, ngây dại. Tôi cười, chào, hỏi thăm, họ vẫn vô cảm. Rồi cả toán chuyển sang thăm trại cùi. Thói quen nghề nghiệp, Đinh Hà phát sẵn mấy chai alcool, để tùy nghi. Bệnh nhân rất đông, sống theo khu, gồm cả con nít, trông rất tội nghiệp. Tôi không lạ với cảnh này, vì gần xóm tôi ở Nha Trang, khu Lạc Thiện, cũng có một trại cùi do các tu sĩ dòng Franciscains sáng lập và đảm nhiệm, nhưng lúc ấy tôi còn nhỏ, chỉ là một khán giả bàng quan, đi ngang tò mò đứng nhìn vào qua những vòng rào kẽm gai dày. Bây giờ, lần đầu tiên có dịp thấy tận mắt những thân hình gầy còm, lở lói, những bàn tay, bàn chân co quắp, hoặc mất ngón, những cặp mắt mờ đục, mù lòa. Và lòng dâng tràn một niềm cảm thương vô hạn. Tổ y tế bắt đầu khám, phát thuốc cho những bệnh nhân cùi bị cảm cúm, đau đầu, sổ mũi, do trưởng trại giới thiệu, yêu cầu. Các cô tập họp những cháu bé lại, phát kẹo, tập chúng hát theo nhịp đàn guitare của Ánh Tuyết, vỗ tay, rồi cười lớn tiếng với nhau. Vài cháu chưa bị nhiễm bệnh, mặt mày trông rất sáng sủa, thông minh, phải theo sống chung với cha mẹ.

Tháng Sáu 1963, mãn trường. Bùi Thế Cần, Nguyễn Nương Minh Châu đậu Cử Nhân liền một khi. Tôi rớt oral chứng chỉ Văn chương Quốc âm –bắt buộc cho sinh viên Văn khoa Pháp, Anh– vì trong buổi thi vấn đáp với giáo sư Vương Hồng Sển tôi không nhớ Tôn Thọ Tường và Phan Văn Trị ông nào theo Tây, ông nào chống Tây, và đem thơ ông này cắm vào cằm ông kia. Với giáo sư Bửu Cầm, kết quả còn tệ hơn, tôi không biết chiết tự bốn câu thơ chữ Nôm của thi sĩ Tuy Lý Vương, đứng chịu chết như Từ Hải, nhìn thầy cười cầu tài. Phải thi lại hai môn vấn đáp này. Còn những nàng tiên nga “trong đám xuân xanh ấy”, mà tôi đã kể tên ở trên, chưa có ai “theo chồng bỏ cuộc chơi”, như trong thơ Hàn Mặc Tử, nhưng đã lần lượt lên đường du học Pháp một cách lặng lẽ từ năm thứ hai, thứ ba. Cần ra Huế, tôi về quê Nha Trang, dạy tại Collège français môn Việt văn, cũng nhờ cái chứng chỉ Văn chương Quốc âm khó ác ôn ấy.
 
Không bao giờ tôi gặp lại Lệ Thủy, đã biến mất, từ ngày cô tặng JECU chúng tôi một trăm đồng. Tôi biết cô cũng đã đậu Propédeutique, qua bản niêm yết dán trước của trường, với tên chính thức, đầy đủ: Anne-Véronique Ngô Đình Lệ Thủy, sinh năm 1945. Chiến sự mỗi ngày leo thang. Khủng hoảng chính trị gia tăng. Sinh viên và Phật tử xuống đường hàng ngày. Cảnh sát dàn chào với dùi cui, lựu đạn cay. Những tờ báo chui chửi thậm tệ chế độ. Làm tôi rất quan tâm vì, qua Lệ Thủy, cảm tình của tôi với cụ Diệm rất sâu nặng, không như một vài bạn JECU lớn tuổi hơn, chẳng hạn Nguyễn Hữu An. Tôi lờ mờ hiểu rằng thế nào bàn tay lông lá của người Mỹ cũng đã nhúng vào nội bộ Việt Nam. Nhưng tôi tin tưởng và cầu mong cụ Diệm sẽ vượt qua hết như lần đảo chánh hụt 1960.

Thời gian sau đó, nhiều biến cố xảy ra, dồn dập. Lựu đạn nổ tại đài phát thanh Huế. Thượng tọa Thích Quảng Đức tự thiêu. Nữ sinh viên Quách Thị Trang biểu tình bị cảnh sát bắn chết tại chợ Bùng Binh Sài Gòn. Rồi đảo chánh. Ngày 2/11/1963, nghe tin hai anh em cụ Diệm bị giết, ba tôi chảy nước mắt và trong giờ kinh tối ba bắt cả nhà đọc thêm kinh cầu hồn cho hai cụ. Còn tôi tự nhiên thấy buồn vô hạn, suốt mấy bữa, mặc dù chưa hề lãnh được một tí ơn mưa móc nào từ chế độ. Lúc ấy Lệ Thủy đang ở ngoại quốc với mẹ trong chuyến công du giải độc.

Liền sau đảo chánh, các phản tướng chia nhau tiền thưởng của CIA, nhảy đầm thả giàn, phá bỏ các ấp chiến lược. Báo chí, sách vở (của anh chàng Hoàng Trọng Miên nào đó chẳng hạn), hùa theo các ký giả Mỹ, mở chiến dịch bôi nhọ gia đình họ Ngô, và bà Nhu, Lệ Thủy cũng bị dính miểng. Nào là bà Nhu có một chiếc ghế khích dục, trong dinh Độc lập, nhưng sự thật đó chỉ là chiếc ghế làm răng thường thấy trong phòng nha sĩ. Nào là ông Nhu bất lực. Nào là bà Nhu tư tình với cụ Diệm, với ông tướng này, ông tướng nọ. Nào là Lệ Thủy có nhiều bồ, kể cả một anh người Nhật, Lệ Thủy thất tình, học Văn Khoa, chỉ ghi danh, không đến lớp mà cũng có bằng, v.v…

Tôi đọc và thấy buồn nôn. Vô lý quá, vậy mà dân chúng ít học hoặc quá khích vẫn tin, thế mới kỳ lạ. Thì cũng giống như dân quê miền Bắc mười mấy năm sau, đã ném đá vào sĩ quan cải tạo chúng tôi một cách thật tình, nguyền rủa chúng tôi là “quân mọi rợ giết người, ăn thịt con nít, hiếp dâm phụ nữ.” 
     
Công việc và đời quân ngũ làm tôi quên Ngô Đình Lệ Thủy. Kỷ niệm với JECU những ngày có cô cũng dần phai theo thời gian.

2. Cho đến đầu 1967. Bốn năm sau. Tôi được tăng phái cho Tiểu đoàn 4/44 Bộ Binh trong chiến dịch Bình Định Nông Thôn tại quận Thiện Giáo (Ma Lâm cũ), nổi tiếng nguy hiểm, thuộc tỉnh Phan Thiết. Ngày đi hành quân tìm địch, qua các thôn xóm, đêm đóng quân ven rừng, mắc võng giữa hai thân cây nằm nghe tiếng đại bác ầm ì xa xa, nhìn hỏa châu từng hồi loé sáng trên ngọn Tà Dôm, mà thương cho kiếp lính tráng nay đây mai đó, trực diện cái chết cận kề. Một buổi trưa, tôi đang nói chuyện với ông Đại úy Tiểu đoàn Trưởng, một viên đạn rít ngang nón sắt, cách đầu tôi một đường tơ, xuyên ngay cổ binh nhất H., mang máy truyền tin PRC 25 đứng gần đó, làm anh gục chết tại chỗ. Tên du kích bắn sẻ vụt bỏ chạy, bị lính Tiểu đoàn rượt theo và lãnh trọn một tràng carbine, phơi thây. Một người lính, bà con của H., giận dữ chửi thề và muốn xẻo tai tên này để trả thù, tôi phải khuyên ngăn mãi, mới thôi. Cảnh tượng quá thảm cho bên này, bên kia.

Tôi nghĩ thêm, những người lính chiến miền Nam, hơn ai hết, là những người thực sự yêu chuộng hòa bình, và vì yêu chuộng hoà bình họ phải hy sinh mạng sống đánh đuổi giặc xâm lược từ Miền Bắc. Nếu phải chống đối chiến tranh thì họ mới là những người có quyền lên tiếng trước tiên, chứ không phải những anh làm thơ, làm nhạc ấm ớ ở hậu phương, sợ chết, trốn quân dịch, núp bóng các ông sĩ quan văn phòng cao cấp mê văn nghệ, để mà gào thét ngưng chém giết, nối vòng tay lớn, tay nhỏ. Rồi tại sao lại phản chiến một chiều? Tại sao không ra Bắc kêu gọi HCM, Võ Nguyên Giáp ngưng gây hấn và tấn công miền Nam? Tại sao chỉ to mồm lên án miền Nam là nơi đã cho họ cơm ăn, áo mặc, tự do sáng tác, tự do phản bội? Bao nhiêu câu hỏi cứ lẫn quẫn trong tôi, cho mãi đến hôm nay, khi những dòng nhạc dòng thơ góp phần làm mất nước ấy vẫn còn được yêu chuộng, mê man, và các tác giả được thổi bằng ống đu đủ lên tận mây xanh.

Nói tiếp về Ngô Đình Lệ Thủy. Một ngày cuối tuần và cuối tháng 4, 1967, tôi cùng với vài sĩ quan bạn được phép lên Phan Thiết, cách Thiện Giáo khoảng mười lăm cây số, để nghỉ xả hơi qua đêm, và nhậu bia với gà luộc. Tại quán bánh căng “còn ướt sền sệt”, chúng tôi gọi mỗi người hai tô, mỗi tô hai mươi lăm cái, đổ đầy nước mắm, ăn cho bõ những bữa cơm sấy, đồ hộp ngán đến tận óc. Tôi mua một tờ nhật báo, và giật mình đọc tin Lệ Thủy đã chết trong một tai nạn xe hơi tại Pháp, chính xác tại Longjumeau, vùng Essonne, ngoại ô Paris. Chết tại chỗ. Lúc ấy cô vừa hai mươi hai tuổi. Bài báo kể, ban đêm, cô lái xe nhỏ và bị một camion ngược chiều húc thẳng, đầu xe của cô nát bấy. Sau này, đọc trên tờ Time, số Friday April 21, 1967, thấy cũng đăng đúng tin ấy.
   
Mặc dầu tình cảm của tôi đối với cô, và ngược lại, chưa bao giờ thắm thiết, gắn bó, đong đầy, đủ để những giọt lệ trào dâng chan chứa, như trong mắt nàng kỹ nữ Tầm Dương làm đẫm vạt áo xanh của người Giang Châu Tư Mã thuở trước, tôi vẫn thấy bàng hoàng, xao xuyến. Tôi bỏ dở bữa nhậu đã từ lâu chờ đợi, ngồi thừ người, nghĩ đến những kỷ niệm thời sinh viên, JECU, những buổi họp, những bài thơ tình lẩm cẩm và lời phê bình nặng ký của cô, một trăm đồng “maman cho”. Đêm về, qua cửa sổ khách sạn, tôi nhìn trời xanh thẳm không gợn mây và nửa mảnh trăng mới mọc vàng úa trên núi Tà Dôm mà nhớ câu thơ của Mạc Đĩnh Chi khóc nàng công chúa Tàu:

Y! Vân tán, tuyết tiêu
Hoa tàn, nguyệt khuyết
(Ôi! Mây tản, tuyết tan
Hoa tàn, trăng khuyết).


3. Hai tháng sau, tôi được lệnh thuyên chuyển đi Qui Nhơn. Tôi đáp chuyến bay Air VN đến Sài Gòn trước, dự trù ở chơi vài hôm, rồi về Nha Trang nghỉ phép một tuần, trước khi ra Qui Nhơn đáo nhậm đơn vị mới. Hành trang là túi ba lô và cây carbine đeo vai, cây Colt bên hông, và bộ quân phục mặc trên người. Trong chuyến bay có một số sĩ quan trẻ từ các đơn vị tác chiến về, cũng trang bị tận răng như tôi, báo hại các cô tiếp viên phải gom hết súng lại, đem cất đi một nơi phía sau phi cơ. Tại phi trường Tân Sơn Nhất, đang đứng chờ taxi, tôi bất ngờ thấy Thái Tuyết Lê cũng từ chuyến Air France xuống. Tôi hỏi dồn:
     
- Tuyết Lê phải không? Toa về từ Pháp? Không ai đón sao?
 

- Không, moa không báo trước ngày giờ, muốn dành ngạc nhiên cho gia đình.
   
Tuyết Lê, người Huế, cựu JECU mặc dầu ngoài Công giáo, là em bà chủ tiệm kem Phi Điệp, chợ Bến Thành-Trần Hưng Đạo, du học Pháp từ năm thứ ba Văn Khoa. Tay bắt mặt mừng, tôi mời Tuyết Lê đi chung chuyến taxi vào thành phố. Trong xe, Tuyết Lê nhìn tôi đăm đăm, tấm tắc khen, “toa trông đen, nhưng có vẻ nam nhi, hùng dũng, khác với hồi còn là thư sinh.” “Dĩ nhiên, tôi vênh mặt đáp, bắt chước nghệ sĩ Hùng Cường, lính mà em!” một cách vô duyên. Cả hai cùng cười vui.
   
Câu chuyện xoay quanh bạn cũ bên đó, bên này, và tôi được biết Irène Phụng Tiên học ở Grenoble, quê hương của Stendhal, tác giả mà tôi yêu mến từ thời còn học tại Jean-Jacques Rousseau. Rồi cái chết của Ngô Đình Lệ Thủy. Đổi sang tiếng Pháp, để tài xế taxi không nghe hiểu, Tuyết Lê kể:
     
- Tại Paris, tụi moa có đi viếng xác Lệ Thủy và dự lễ cầu hồn và đưa nó ra nghĩa trang. Đầu Lệ Thủy bị kính trước cắt gần lìa cổ. Khi liệm, được khâu lại và quàng bằng chiếc khăn lụa màu thiên thanh, trông mặt nó đẹp quá, thanh thản như một thiên thần. Bà Nhu từ Rome bay sang, ôm xác con mà khóc ngất, khiến tụi moa cũng khóc theo. Chiếc xe bị nạn là chiếc Peugeot còn mới do Tổng giám mục Ngô Đình Thục mua cho Lệ Thủy. Tài xế xe camion không việc gì cả, bị thẩm vấn qua loa, rồi cho về.
   
Tôi hỏi:

- Lệ Thủy học trường nào ở Paris?
- Trường Luật.
- Tụi toa có gặp Thủy lần nào trước đó?
- Thỉnh thoảng. Thủy vẫn gentille (dễ thương) như trước kia.
Tôi bỗng thở dài:
- Tội nghiệp nó quá! Đúng là hồng nhan bạc phận!


Xe ngừng trước tiệm kem Phi Điệp. Tuyết Lê giành trả tiền, mời tôi vào chơi, ăn kem. Nhưng tôi thoái thác, “thôi, toa mới về, cần gặp gia đình, để dịp khác”, rồi vác túi ba lô và cây súng lững thững bước đi, gọi xích lô chở về nhà ông bác họ ở đường Nguyễn Trãi.

4. Nếu còn sống, năm nay Lệ Thủy cũng đã 66 tuổi. Quá khứ xa rồi, nhưng khi ngồi viết bài này, tôi vẫn thấy lòng bồi hồi, bởi kỷ niệm. Tôi vẫn nhớ lời cô “la rầy” tôi một lần về những bài thơ tình làm tuyệt vọng. Và hôm nay tôi sửa lại câu thơ ngày đó:

                  C’est bien toi que je regrette
                  Ce n’est pas le rêve par toi brisé
                  (Chính em mà tôi tiếc nuối
                  Không phải giấc mơ vì em vỡ tan)

 
Nhưng trong một nghĩa nào, vì mang bệnh kinh niên lãng mạn, tôi nghĩ rằng mỹ nhân Ngô Đình Lệ Thủy mất sớm như vậy cũng hay. Để không bao giờ cho thế gian thấy tóc mình bạc màu.

Portland, 1/11/2011
 

II.
NGÔ ĐÌNH NHU, 50 NĂM CÔ ĐƠN.

Kim Thanh

      Tin từ Ngô Đình Trác báo cho ông bạn tôi, Luật sư Trương Phú Thứ, hay rằng Bà quả phụ Ngô Đình Nhu, nhũ danh Maria Trần Lệ Xuân, đã về Nước Chúa lúc 2 giờ sáng ngày lễ Phục Sinh, 24/4/2011, hưởng thọ 87 tuổi.

     
Tôi viết bài này gửi các thân hữu, bạn bè, và những người mà tôi biết chắc vẫn còn ái mộ, quý mến  –hoặc ít ra không thù ghét– Bà Ngô Đình Nhu, chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, và Tổng thống Ngô Đình Diệm. Không như những phản tướng 1963, tôi chưa hề gặp mặt Bà Nhu, chưa hề nhận ân sủng nào của Bà hay của chế độ, ngoài một trăm đồng Bà gửi tặng Hội JECU (Thanh Sinh Công Đại Học) năm xưa, được Ngô Đình Lệ Thủy trao cho tôi (xin đọc bài “Ngô Đình Lệ Thủy, hồng nhan mệnh yểu”).

     
Bà Ngô Đình Nhu là người nổi tiếng thuộc dòng họ Ngô Đình và người liên hệ trực tiếp với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa duy nhất còn sống sót vừa ra đi. Dù thương hay ghét Bà, ai cũng phải công nhận Bà là một nữ lưu thông minh, có tài có sắc, một cộng sự viên đắc lực, quả cảm của chồng và anh chồng. Qua hai nền Cộng Hòa, chưa có một phụ nữ tầm cỡ public figure (người của quần chúng) Việt Nam nào làm tôi thấy cảm phục và hãnh diện như Bà Ngô Đình Nhu. Cho dù, dĩ nhiên, Bà chưa hoàn hảo, cũng như bất cứ ai trên đời. Trước và sau vụ đảo chánh 1963, Bà là mục tiêu tấn công của những nhà báo và chính khách Việt Nam và ngoại quốc, nhất là Mỹ, chưa nói Cộng sản đội lốt tôn giáo, đối lập, “cách mạng”, đã không ngần ngại vu khống, xuyên tạc, đổ lỗi, thêu dệt đủ điều, kể cả về đời tư của Bà. Đọc tất cả những tài liệu đã được giải mật, và những sách báo cũ, và những sách báo mới trên các Diễn Đàn Hải Ngoại –những diễn đàn của Đui Chột, của Thù Hận, của Ác Độc– tôi thấy bất nhẫn và buồn nôn trước sự hèn hạ, nhỏ nhen của con người, vì dù sao Bà cũng chỉ là một phụ nữ và không giữ một chức vụ chính thức nào trong chính quyền. Bọn họ, kể cả Mỹ và Tây Phương, không mã thượng, anh hùng đủ, than ôi, để đánh Bà bằng một cành hoa hồng, nhưng đã dùng mọi thứ dao búa. Họ dã man, trên phương diện tinh thần, không khác chi một Gia Long đã hành hình, về thể xác, nữ tướng Bùi Thị Xuân và con gái 16 tuổi bằng cách cho voi dày.

     
Bà là hiện thân và nạn nhân của Bất Hạnh như một trong những nữ nhân vật chính tuyệt đẹp của những vở bi kịch Hy Lạp. Nhưng khác với họ luôn vùng lên, phản kháng, chất vấn Thượng Đế, Bà đã im lặng, chấp nhận mệnh số nghiệt ngã, và âm thầm chịu đựng tất cả những sầu khổ, oan khiên, bất công, suốt một nửa thế kỷ.

     
Một điểm nữa, sáng ngời, về con người của Bà, mà tôi tin rằng đến cả kẻ thù cũng không thể phủ nhận. Khi chồng bị thảm sát, Bà còn trẻ đẹp lắm  –điều mà báo chí Mỹ thiên vị và ác độc cũng phải ca ngợi. Nhưng Bà ở vậy, thờ chồng, nuôi đàn con còn vị thành niên, không có của chìm của nổi, không lầu son gác tía, nhờ tham nhũng hoặc ăn cắp của công. Nếu có bằng chứng Bà phạm vào hai điều cấm kỵ này, chắc chắn báo chí và công luận Mỹ và Việt Nam, vốn thù nghịch, đã không bao giờ để Bà yên. Bà sống khép kín như một nữ tu tại gia. Không xuất hiện trước đám đông. Không cho nhân gian thấy tóc đổi màu, những dấu chân chim in trên đuôi mắt và những tàn phai bởi thời gian, theo gương những mỹ nhân tự thuở xưa. Không tuyên bố này nọ. "Thời của tôi qua rồi", bà thường nói với những người quen biết, như một lời giã biệt thế gian. Không mang tiếng, không bồ bịch, không bước thêm bước nữa. Không vì tiền bán thân cho tỷ phú. Nếu sống vào thời quân chủ, Bà xứng đáng nhận lãnh bằng khen "Tiết Hạnh Khả Phong".

     
Bấy nhiêu thôi cũng đủ làm tôi yêu mến Bà như một người mẹ (bà kém mẹ tôi một tuồi). Ca ngợi Bà như một nữ chính khách một thời sáng giá, đảm lược, dám nói dám làm, như chồng Bà, trước vòng vây khốn của thù trong giặc ngoài. Kính trọng Bà như một thần tượng. Làm sao tôi không xúc động khi nghe tin Bà đã bước vào một cuộc hành trình cuối cùng, ngày Chúa chết trên cây thập giá và sống lại, để từ nay vĩnh viễn thuộc về của Tuổi, nói theo Edwin Stanton, belongs to the Ages.
     
     
Nhà danh họa thuộc phái ấn tượng Auguste Renoir của những tuyệt phẩm chan hòa ánh sáng và màu sắc, những năm cuối đời, bị bệnh thấp khớp hành hạ, không đứng được nữa, phải ngồi vẽ tranh một cách đau đớn với bàn tay co quắp, nhức buốt. Người học trò của ông, danh họa Matisse, thấy vậy, thương ông, đã hỏi: “Tại sao Thầy phải tiếp tục ngồi vẽ một cách khổ sở như thế?” Renoir ngước nhìn khung vẽ, trả lời: “Đau đớn sẽ qua đi. Cái đẹp sẽ còn lại.”
     
     
Tôi muốn nhắc lời của Renoir, để nói về Bà, trong một nghĩa nào. Đau đớn tinh thần của Bà Ngô Đình Nhu sẽ qua đi. Cũng như đau đớn thân xác của nữ tướng Bùi Thị Xuân. Nhưng vẻ đẹp của Bà sẽ tồn tại. Vĩnh viễn.

     
Tôi biết những kẻ chống và ghét Bà sẽ khó chịu vì bài viết của tôi. Không sao. Đời mà. Tuy nhiên, xin những kẻ ấy xử sự cao thượng một chút, như một con người. Hãy để Bà yên nghỉ, ít nhất trong thời gian này. Chờ sau ba tháng, một năm, mười năm nữa, rồi hãy chìa ra nanh vuốt, cũng chưa muộn.

   
Tôi muốn báo tin cho các thân hữu của tôi và xin họ đọc một kinh, cầu nguyện cho linh hồn Bà mau về Cõi Vĩnh Hằng, và tìm được Bình An đích thực. Sau năm mươi năm cô đơn.

Kim Thanh
Ngày Chúa sống lại 8/4/2012


III.
BẢN SONATE CHO MỘT NGƯỜI TỬ TẾ, LUCIA NGÔ ĐÌNH LỆ QUYÊN.

      Tin dữ được chuyển đến tôi sáng nay từ một anh bạn phương xa làm tôi rụng rời, như mới đây một người quen, không thân lắm, đột ngột ra đi, dù tuổi lớn và bệnh hoạn. Huống chi Ngô Đình Lệ Quyên rời bỏ dương trần lúc 53 tuổi –còn quá trẻ đối với tôi. Trong một phút giây, tôi mong đó không phải là sự thật. Biết đâu ai đó đã đùa dai tung trễ lên mạng ảo một poisson d’Avril, dù tháng tư sắp hết. Đến khi Luật sư Trương Phú Thứ gọi điện thoại kiểm chứng với Ngô Đình Quỳnh và sau đó tôi lên web thế giới và có trong tay bài báo bằng tiếng Ý và một đoạn băng video, thì chút hy vọng mỏng manh thật sự tan vỡ và nỗi đau buồn trong tôi lên tới tột độ.
     
     
Bàng hoàng như mất một người thân thuộc. O mon Dieu, mais pourquoi, pourquoi, pourquoi? Tôi thầm hỏi Thượng Đế và cho riêng tôi như một lời thở than, đột nhiên –như năm xưa khi đọc tin chị cô, Lệ Thủy, người bạn trẻ thuộc Nhóm Thanh Sinh Công, đã chết trong một tai nạn xe hơi cũng thảm khốc, cũng bất ngờ không kém– vẳng lên từ đáy tiềm thức trước nỗi tuyệt vọng khôn cùng. Mặc dù tôi chưa hề một lần gặp gỡ Lệ Quyên, chưa hề thấy một bức hình nào của cô trước kia, chưa hề một lần nghe nhắc đến tên cô, ngoại trừ trong bản thảo hồi ký của mẹ cô, bà quả phụ Ngô Đình Nhu. Cô rời Việt Nam năm 1963, lúc mới bốn tuổi, một tháng sau khi cha và bác bị thảm sát bởi những bàn tay tanh tưởi mùi máu và mùi đô la, nên những người thuộc thế hệ già chúng tôi không để ý lắm. Chỉ hai hôm nay thôi, tôi mới được biết Lệ Quyên đã nhiều năm đặc trách giúp đỡ những người di dân khắp thế giới trong cơ quan Caritas của thành phố Roma, nơi cô đã sống gần nửa thế kỷ thầm lặng dấn thân. Và đã chết trong một khoảnh khắc kinh hoàng. Nằm chết cô đơn giữa dòng xe xuôi ngược, giữa dòng đời như thản nhiên đến vô tình. Chết một cách bi thảm, tức tưởi, trong vô vàn thương tiếc muộn màng của biết bao người không có mặt sáng ấy trên đường Pontina, Roma.
                               
                         Khi sao phong gấm rủ là
                        Giờ sao tan tác như hoa giữa đường

   
Chúa ơi, tại sao, tại sao, tại sao? Tôi tự hỏi. Có lời giải đáp nào cho sự bí ẩn siêu hình phi lý này không? Nếu người bị nạn không phải là con ông bà Ngô Đình Nhu, em của Ngô Đình Lệ Thủy, cháu của một tổng thống và một tổng giám mục, em họ của một hồng y, nếu cô không thuộc dòng tộc quyền quý, cao sang, nổi tiếng vào bậc nhất của lịch sử Việt Nam cận đại, thì câu hỏi này đâu cần thiết nữa. Có người trả lời, bằng cách so sánh dòng họ Ngô Đình với dòng họ Kennedy –cũng chịu nhiều oan trái tương tự. Phần tôi không nghĩ như thế. John F. Kennedy, những đồng lõa Mỹ và tay sai Việt Nam, năm 1963, rõ ràng là thủ phạm trực tiếp hay gián tiếp giết chết ba anh em nhà Ngô, để sau đó ào ạt đổ quân vào Việt Nam, gây ra những xáo trộn, khủng hoảng chính trị, quân sự, và cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ của cả Miền Nam, mười hai năm sau. Thủ phạm làm sao có thể đồng hóa với nạn nhân? Rồi nữa, làm sao so sánh ba anh em nhà Kennedy với ba anh em họ Ngô Đình về tư cách và đạo đức cá nhân?   
   
     
Những kẻ căm ghét chế độ Ngô Đình Diệm, trái lại, ưa trích câu “ác giả ác báo” để giải thích tai nạn xảy ra theo quan niệm tôn giáo và bài học luân lý sơ đẳng, đúng hơn theo thuyết karma (nhân quả) quen thuộc. Tôi cũng không nghĩ như thế. Lệ Thủy, Lệ Quyên, hoặc xa hơn John Kennedy Jr., đã làm gì nên tội, mà bị Trời “phạt” về những lỗi của người lớn, nếu có? Nếu thuyết nhân quả đúng, tại sao Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Lê Duẩn, hay Staline, Mao Trạch Đông, Pol Pot v.v..., những tên đại gian, đại ác nổi tiếng, đã sát hại biết bao sinh linh lại được chết già an lành, trong khi hàng triệu nạn nhân hiền lành, vô tội bị giết oan, chết thảm? Ông trời quả có mắt thật không? Gần nhất, những tên Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân v.v... tay đã nhúng máu của hàng ngàn đồng bào ở Huế dịp Tết Mậu Thân mà vẫn còn sống nhơn nhơn. Tại sao?

     
Mới đây, lần đầu được thấy những bức ảnh của Lệ Quyên, với đôi mắt sâu đen thăm thẳm, nét mặt cương nghị, phảng phất một nỗi buồn xa vắng, tôi chợt nhớ đến dáng vẻ kiêu hãnh và sắc đẹp bi thảm (tragique) tương tự của một nữ tài tử Hy Lạp đóng vai nhân vật Antigone trong cuốn phim cùng tên. Antigone (442BC), vở bi kịch bất hủ của nhà soạn kịch Hy Lạp lừng danh, Sophocle, kể những thảm họa phủ xuống Oedipe và gia đình bởi mệnh số khắc nghiệt và độc đoán. Nhân vật Antigone, cũng như Electre, Phèdre của kịch tác gia Euripide, và Hermione, Oreste, Pyrrhus... trong các vở bi kịch khác nữa mà Racine, thế kỷ XVII văn học Pháp, đã mô phỏng, đều là những nạn nhân của định mệnh nghiệt ngã dành cho con người vốn yếu đuối, bất lực trước thần linh, những thế lực siêu hình, hoặc đam mê tàn bạo. Chỉ có cái chết mới hóa giải mọi oan nghiệt. “Evil strikes at it down the generations wave after wave, like seas that batter a headland...” (Bất hạnh dập xuống qua các thế hệ theo từng đợt sóng tiếp nối, như biển vỗ vào bờ đất cao...” (Sophocle, Antigone). Trong một bối cảnh khác, thi hào Nguyễn Du há đã chẳng viết cho những hồng nhan bạc phận: “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” hoặc “Tài tình chi lắm cho trời đất ghen”, và về uy quyền tối thượng của Trời, thế lực trên cao:

                          Ngẫm hay muôn sự tại trời,
                      Trời kia đã bắt làm người có thân.
                          Bắt phong trần phải phong trần,
                      Cho thanh cao mới được phần thanh cao.
 

   
Người Công giáo xem những bất hạnh trên đời là do sự Quan Phòng (Providence) của Thiên Chúa toàn năng, là thử thách dành cho những người công chính, như ông Job trong Kinh Thánh đã phải chịu trăm bề đớn đau, khổ nhục.

   
Dù được cắt nghĩa thế nào, cái chết đột ngột của Lệ Quyên làm tôi vừa cảm thương vừa kính phục vừa thấy hãnh diện về cô. Cảm thương, như Thúy Kiều ngày nào bên mộ Đạm Tiên không quen, khéo dư nước mắt khóc người đời xưa. Hãnh diện, vì cô được báo chí ngoại quốc nhắc đến trong tư cách người Việt Nam đến Ý tỵ nạn chính trị từ bé, sau đó giữ chức vụ quan trọng trong Hội Caritas Roma, đã yêu thương, giúp đỡ tha nhân và những người cùng khổ, và hết lòng thờ phượng Chúa. Kính phục, vì dù có bằng tiến sĩ Luật, mà bởi nhất quyết không chịu vào quốc tịch Ý, cô không được đi dạy đại học, và cô cũng chẳng cần. Kính phục, vì tuy lấy chồng người Ý cô vẫn đặt tên con là Ngô Đình Sơn. Một phụ nữ Việt Nam muốn mãi mãi giữ căn cước và bản chất Việt Nam –xin hiểu VNCH. Còn gì cao đẹp hơn? Cũng như mẹ và hai anh, cô chưa một lần trở về thăm cố hương –bây giờ đang nằm trong nanh vuốt của Hận Thù, của Dối Trá, của Bất Công, của Tàn Bạo. Và cũng như mẹ cô, chưa một lần nói một lời, viết một câu hằn học kết án cá nhân những kẻ đã sát hại cha, bác, chú của mình. Cô đã quên và tha thứ tất cả.
   
   
Và như thế, tôi nghĩ rằng, trong bao năm sống kín đáo, khiêm nhường, làm việc, lặng lẽ như một bóng mờ –không còn ai nhắc đến– giữa chốn bụi hồng lao xao, biết đâu cô muốn chống lại, hoặc ít ra xoay đổi, định mệnh khắc nghiệt đè nặng lên gia đình, dòng họ, theo cách riêng của cô. Cũng như Antigone, theo cách riêng của nàng, khi đúng trước vua Créon, cãi lại lệnh cấm không được ai chôn xác người anh nổi loạn, Polynice, và qua đó, thách đố mệnh trời cứ đeo đẳng trừng phạt gia đình Oedipe, cha nàng. Bị kết án tử hình, nàng ngẩng cao đầu và kiêu hãnh “xem cái chết như một điều tốt khi con người sống giữa bao nhiêu điều bất hạnh, khổ đau...” Những tưởng Ngô Đình Lệ Quyên từ nay sẽ được giải thoát khỏi lời nguyền của định mệnh.
   
   
Ngờ đâu, định mệnh không buông tha. Và một sáng, cô đã gục ngã. Đầu hàng, bất lực. Như một nữ nhân vật đích thực trong những vở bi kịch của một Hy Lạp huyễn mơ mà tôi đọc say mê từ ngày còn đi học...

   
Tôi ca tụng và tiếc thương cô biết mấy cho vừa. Thôi, cô hãy ngủ giấc bình an ngàn năm, tự do từ đây, hỡi Lệ Quyên, Antigone của lòng tôi.
 
Portland, 17/4/2012
Kim Thanh
Nguồn: http://www.saungon.net/tbl/item_1706.html