ĐẠO
HỒI LÀ ĐỨC TIN CỦA CHIẾN TRANH VÀ BẠO LỰC
Charlie
Nguyễn
Trong
lịch sử thế giới, chưa từng có một tôn giáo nào bành trướng một cách mạnh mẽ và
nhanh chóng cho bằng đạo Hồi. Từ một nhóm người du mục sống trong một ốc đảo
heo hút giữa sa mạc Syro-Arabia đã mau chóng biến thành những con người đầy
quyền lực tung hoành từ Cận Đông đến Âu Châu và từ Bắc Phi đến tận các nước
Châu Á:
-
Chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày giáo chủ Muhammad qua đời (632-642) quân Hồi
Giáo Ả Rập đã chiếm trọn bán đảo Arabia (rộng gấp 8 lần Việt Nam), chiếm Iraq,
Syria, Palestine, Ai Cập và phía Tây nước Iran.
-
Trong 2 năm (648-649), quân Hồi chiếm Carthage, Tunisia.
Một
điều làm cho cả thế giới kinh ngạc là lần đầu tiên người Ả Rập chiếm một nước
Âu Châu, đó là Hy Lạp.
-
Thừa thắng xông lên, người Hồi Giáo Ả Rập mở cuộc chiến tranh đánh Tây Ban Nha.
Sau 5 năm, người Hồi chiến thắng đã chiếm trọn nước Âu Châu rộng lớn và nổi
tiếng sùng đạo Công Giáo nhất thời bấy giờ.
-
Năm 712, quân Hồi Giáo chiếm trọn Iran (Ba Tư) và dùng nước này làm bàn đạp
tiến quân đánh chiếm các nước Trung Á ở phía nam nước Nga, chiếm vùng Bắc Ấn
rộng lớn (nay là Pakistan và Afganistan) và xâm nhập phía Tây Trung Quốc - Quân
Hồi bị quân nhà Đường chận lại tại sông Talas nên phải rút về Trung Á.
Sự
xuất hiện và bành trướng của đạo Hồi trong thế kỷ 7 hung bạo dữ dội như cơn gió
xoáy (tornado) khiến cho cả thế giới phải kinh hoàng.
Chúng
ta thử tìm hiểu những nguyên nhân nào đã khiến cho đạo Hồi có thể bành trướng
với tốc độ vũ bão như vậy. Các sử gia đã phân tích 3 nguyên nhân sau đây:
Nguyên
nhân 1: Qua
nhiều ngàn năm sống trên các cánh đồng cỏ ở sa mạc Syro-Arabia, kiếp sống lang
thang của những người Ả Rập càng ngày càng trở nên khó khăn vì đất đai ngày
càng trở nên khô cằn. Từ thế kỷ 6, bộ lạc Quraysh (tổ tiên của Muhammad) có
sáng kiến bỏ nghề du mục để chuyển hẳn sang nghề thương mại. Họ tổ chức các
cuộc đi buôn đường xa với những đoàn lữ hành (caravans) gồm hàng trăm người và
rất nhiều ngựa, lạc đà để chở hàng hóa lương thực, lều vải, vũ khí... Dần dần,
thị trường ngày càng được mở rộng, nhu cầu thương mại gia tăng, những đoàn lữ
hành có thể gia tăng lên tới nhiều ngàn người.
Do
nhu cầu tự vệ, mọi người trong đoàn lữ hành đều phải học cưỡi ngựa, cưỡi lạc
đà, luyện tập sử dụng các thứ vũ khí như gươm giáo cung tên, kể cả võ thuật và
chiến thuật quân sự. Ngoài ra, họ học nói nhiều ngoại ngữ, học cả địa lý và
phong tục tập quán của các nước lân cận để gia tăng khả năng giao dịch thương
mại. Trải qua nhiều thập niên, những thương gia (traders) Ả Rập trở thành những
người đa tài, đa năng và đa hiệu. Họ chẳng những là những thương gia rành nghề
mà còn là những quân nhân thiện chiến, kỹ luật và còn là những người lãnh đạo
quần chúng.
Vào
đầu thế kỷ 7, Mecca là thủ phủ của những người Quraysh đã trở nên một trung tâm
thương mại lớn nhất tại Trung Đông. Những người Quraysh không còn có dáng dấp
quê mùa nghèo khổ của thế kỷ trước nữa trái lại họ đã trở thành những người văn
minh giàu có. Điều đó làm cho nhiều bộ lạc Ả Rập khác phải thèm muốn và cố gắng
noi theo. Một trong những bộ lạc nổi tiếng hung dữ là bộ lạc Bedouins bắt chước
bộ lạc Quraysh đã bỏ nghề du mục và tham gia vào các đoàn caravans của Mecca.
Vào
giữa thế kỷ 7, gặp cơ hội đạo Hồi phát triển, các bộ lạc Ả Rập, nhất là Quraysh
và Bedouin, đã nô nức nhập cuộc dùng tôn giáo làm phương tiện bành trướng lãnh
thổ để thay đổi môi trường sống tại bán đảo Ả Rập quá cằn cỗi.
Nguyên
nhân 2: Từ
thế kỷ 4 đến thế kỷ 7, toàn vùng Trung Đông và Bắc Phi bị hai đế quốc Byzantine
và Sassanian thay phiên nhau thống trị. Đế quốc Byzantine là hậu thân của đế
quốc La Mã, được Đại Đế Constantine thành lập năm 330, đặt thủ phủ tại hải cảng
Byzantine của Hy Lạp. Từ đời Constantine (thế kỷ 4) đến đời hoàng đế cuối cùng
của đế quốc Byzantine vào giữa thế kỷ 15, tất cả đều là những hoàng đế theo Ki
Tô Giáo Đông Phương (Eastern Christian Church) sau này trở thành Chính Thống
Giáo. Đế Quốc Sassanian là đế quốc Ba Tư, tồn tại 427 năm (từ năm 224 đến 651).
Các hoàng đế của đế quốc Sassanian đều theo đạo Hỏa Giáo (Zoroastrianism). Cả
hai đế quốc nói trên đánh nhau liên miên suốt 4 thế kỷ, đến đầu thế kỷ 7 thì cả
hai đế quốc này đều bị kiệt quệ tạo nên một khoảng trống quyền lực (a power
vacuum) tại Trung Đông và Bắc Phi. Do đó, những đoàn kỵ binh của Hồi Giáo Ả Rập
đã tiến vào lãnh thổ của cả hai đế quốc này như tiến vào chỗ không người.
Nguyên
nhân 3: Giáo
lý đạo Hồi là sản phẩm của người Ả Rập nên được người Ả Rập đón nhận một cách
dễ dàng và tự nhiên. Từ thời xa xưa, người Ả Rập đã chấp nhận niềm tin của
Abraham, nghĩa là tin có Thiên Chúa (tiếng Ả Rập gọi là Allah) tin có Thiên
đàng, Hỏa ngục, tin có các thiên thần v.v... Cho nên người Ả Rập không coi Hồi
Giáo như một đạo ngoại lai mà là đạo cổ truyền của dân tộc. Văn thơ trong kinh
Koran đối với người Ả Rập là những áng thơ văn tuyệt tác. Mỗi khi họ đọc kinh
Koran là một dịp họ ngâm thơ, họ cảm thấy những vần thơ đó rất hấp dẫn vì rất
hợp với khiếu thẩm mỹ văn chương của họ. Ý niệm thánh chiến (Jihad) và ý niệm
tử đạo (martyrdom) hoàn toàn phù hợp với tâm lý vốn hung bạo của người Ả Rập vì
họ rất quen thuộc với cuộc sống đầy bất trắc tại sa mạc. Kinh Koran mô tả thiên
đàng rất hấp dẫn đối với các chiến binh trẻ tuổi: Sau khi chết trận, được coi
như tử đạo, sẽ được Chúa cho lên thiên đàng để hưởng đủ lạc thú cho đến muôn
đời. Lạc thú độc đáo nhất mà chỉ đạo Hồi mới có, đó là những người chết trận
hoặc tử đạo đều được những cô gái trinh tuyệt đẹp đón tiếp và phục vụ lạc thú
tình dục cho đến muôn đời vì mọi người ở thiên đàng đều trẻ mãi không già! Niềm
tin đặc biệt này đã là một yếu tố tâm lý quan trọng khiến cho những người lính
Hồi Giáo trở thành những chiến sĩ rất dũng cảm trong các cuộc thánh chiến. Chỉ
vì cuồng tín, những đoàn quân Hồi Giáo đã lập nên những chiến công oanh liệt
như những kỳ tích vượt xa sự dự tưởng của mọi người.
Những
cuộc chiến tranh mở rộng nước Chúa của Hồi Giáo (Kingdom of Allah) từ ngày lập
đạo tới nay có thể được chia ra làm hai thời kỳ:
- Thời
kỳ I- từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 13: Đạo Hồi bành trướng và phát triển tạo
thành một số quốc gia theo đạo Hồi, đứng đầu cộng đồng Hồi Giáo là một vị vua
được gọi là Caliph, có nghĩa là "người kế vị giáo chủ Muhammad về phương
diện thế quyền ". Xin ghi thêm ở đây là đạo Hồi tin giáo chủ Muhammad là
thiên sứ cuối cùng của Allah cho nên không một ai có quyền tự xưng là kẻ thừa
kế của Ngài về phương diện thần quyền.
- Thời
kỳ II- từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20: Do những biến cố đặc biệt của thế giới
đã đưa đến sự hình thành ba đế quốc Hồi Giáo. Trước hết là sự xâm lăng của quân
Mông Cổ chiếm các nước Trung Đông và sau đó chiếm các nước Bắc Ấn và nhiều nước
Á Châu khác tạo thành một đế quốc Mông Cổ rộng lớn. Từ cuối thế kỷ 13, nhiều
hoàng đế Mông Cổ theo đạo Hồi đã tạo nên đế quốc Hồi Giáo Mughul (do chữ Mongol
mà ra). Trong thế kỷ 15, tại Âu Châu, người Thổ Nhĩ Kỳ Hồi Giáo chế ra thuốc
súng và lập ra binh chủng pháo binh đầu tiên trên thế giới. Dựa vào sức mạnh
quân sự, người Thổ Hồi Giáo xua quân đánh chiếm nhiều nước trên cả 3 lục địa
Âu, Á, Phi và lập nên đế quốc Ottoman. Cuối cùng, dân tộc Azerbaizan ở tây nam
biển Caspian bỗng nhiên trở nên hùng mạnh vào đầu thế kỷ 16, cất quân đánh
chiếm nhiều nước Âu Châu và Trung Đông tạo thành đế quốc Safavids theo giáo
phái Shiite.
I.
THỜI KỲ CAI TRỊ CỦA CÁC CALIPHS (The Caliphate Rulers)
A. Bốn
người kế vị đầu tiên của Muhammad (632-661):
Danh
từ Hồi Giáo Ả Rập gọi chung cả bốn vị thừa kế đầu tiên của giáo chủ Muhammad là
RASHIDUN - Họ được coi là 4 trụ cột của Hồi Giáo trong thời kỳ sơ khai. Họ đã
lần lượt thay thế nhau trong 29 năm kể từ khi Muhammad qua đời, nhưng những
việc làm của họ đã có những ảnh hưởng hết sức lớn lao cho sự tồn vong của đạo
Hồi. Bốn vị đó là : Abu Bakr, Umar Khattab, Uthman Affan và Ali Talib.
1. Abu
Bakr (632-634). Sau khi Muhammad qua đời, cộng đồng Hồi Giáo non trẻ lâm
vào tình trạng hỗn loạn vì không có lãnh đạo. Không một ai được đa số tín đồ
Hồi Giáo tín nhiệm bầu lên làm nguời kế vị Muhammad. Trước tình thế bế tắc đó,
Abu Bakr tự động đứng lên dành quyền lãnh đạo. Ông là một thương gia giàu có và
có uy tín bậc nhất ở Mecca. Ông đã nghiêm khắc ra 2 lệnh cấm khẩn cấp để bảo vệ
đạo Hồi và cộng đồng Hồi Giáo:
-
Tuyệt đối cấm không một tín đồ nào được rời bỏ cộng đồng Hồi Giáo (Islamic
confederacy)
-
Không một ai được tự xưng là tiên tri vì Muhammad là vị tiên tri cuối cùng của
Thiên Chúa trên thế gian này.
Abu
Bakr đã mau chóng phá tan các âm mưu chia rẽ cộng đồng Hồi Giáo và chỉ sau 2
năm, toàn bán đảo Ả Rập đã theo đạo Hồi. Bán đảo Ả Rập rất rộng lớn, (gấp 8 lần
diện tích Việt Nam) hiện được chia thành nhiều quốc gia độc lập: Saudi Arabia,
Yemen, Quatar, Omar và Emerite.
2. Umar
Khattab (634-644). Sau khi Abu Bakr qua đời, Umar được bầu làm người kế vị
(Caliph) cai quản cả một cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trên toàn bán đảo Ả Rập.
Umar
là một thiên tài quân sự kiệt xuất trong lịch sử Hồi Giáo. Ông đã ban hành trên
toàn lãnh thổ Ả Rập những biện pháp sau đây:
-
Để bảo toàn lực lượng Hồi Giáo, các bộ lạc trong Cộng đồng đạo Hồi tuyệt đối
không được đánh nhau.
-
Mọi người nam giới trong các bộ lạc trên lãnh thổ bán đảo Ả Rập đều là các binh
sĩ, tất cả đều được huấn luyện quân sự và được sắp xếp thành các đơn vị quân
đội. Umar tự xưng là "Tư lệnh của các tín đồ" (The commander of the
faithful). Sau hai năm huấn luyện các binh sĩ và trang bị vũ khí đầy đủ, Umar
bắt đầu mở mang nước Chúa bằng sức mạnh quân sự:
*
Năm 636, Umar đích thân chỉ huy quân Hồi Giáo chiếm Iraq và Syria.
*
Năm 637, Umar chiếm toàn lãnh thổ của đế quốc Sassanian (Ba Tư) và chiếm thành
phố lớn nhất của đế quốc Byzantine là Anatolia.
*
Năm 638, Umar xua quân chiếm Palestine và thánh địa Jerusalem.
*
Năm 641, Umar chiếm toàn bộ các nước Bắc Phi gồm Ai Cập, Algeria, Tunisa và
Maroc.
Một
điều đáng chú ý là những đoàn quân Hồi Giáo đã tiến chiếm những vùng đất xa xôi
thuộc nhiều hướng khác nhau nhưng vị chỉ huy tối cao là Umar vẫn đặt bản doanh
ở Medina, một ốc đảo trong sa mạc Syro - Arabia. Ông chỉ huy các đoàn quân Hồi
Giáo trên những sa bàn và những bản đồ tại văn phòng của ông. Dưới sự lãnh đạo
kiệt xuất của Umar trong 10 năm, Hồi Giáo từ một giáo phái nhỏ ở sa mạc đã biến
thành một đế quốc rộng lớn. Các tín đồ Hồi Giáo cho đó là một phép lạ của
Allah, trong khi Âu Châu bắt đầu cảm thấy e ngại trước sự lớn mạnh của một tôn
giáo mới.
Họ
gọi đạo Hồi là "đức tin của bạo lực" (A violent faith) hoặc là một
"tôn giáo quân phiệt" (a militaristic religion). Vào một ngày định
mệnh trong tháng 11 năm 644, trong khi Umar đang cầu nguyện trong đền thờ tại
Medina thì bị một tù binh người Ba Tư đâm chết.
3. Uthman
(644-656). Uthman là cánh tay mặt và phục vụ dưới trướng của Umar 10 năm.
Uthman đã học hỏi được nhiều kinh nghiệm về tài thao lược quân sự của người
tiền nhiệm. Vào lúc nầy, Hồi Giáo là một quyền lực quân sự lớn ở trong vùng vì
họ đã tịch thu được rất nhiều chiến lợi phẩm quân sự và tích lũy được rất nhiều
tài nguyên kinh tế dự trữ tại các vùng chiếm đóng. Dưới sự lãnh đạo tài ba của
Uthman trong 12 năm, quân Hồi đã lập nên nhiều kỳ tích chưa từng thấy:
-
Trước hết, quân Hồi chiếm Hy Lạp và nhiều nước phía đông Địa Trung Hải.
-
Mấy năm sau, một cánh quân tiến về phía Tây chiếm Libya.
-
Một cánh quân khác tiến về phía đông chiếm nước Âu Châu Armenia, tiến vào miền
Caucase của Nga. Trong khi đó một cánh quân khác tràn xuống phía nam đánh chiếm
Bắc Ấn Độ (tức Afganistan và Pakistan ngày nay).
Tới
lúc này, Hồi Giáo đã thành một đế quốc mênh mông kéo dài từ Âu sang Á tới Bắc
Phi. Những quân lính Ả Rập Hồi Giáo hầu hết đều đã xa nhà trên 10 năm, phần
đông đều cảm thấy chán nản. Nhiều tướng lãnh Hồi Giáo xa chủ tướng đã quá lâu
nên cũng mất đi tình thân ban đầu.
Năm
656, một nhóm tướng và binh sĩ bất mãn đã bất thần trở về Medina vây bắt và
giết chết Uthman tại chỗ. Nhóm này đưa Ali Talib lên làm vị Caliph thứ tư của
Hồi Giáo.
4. Ali
Talib (656-662). Vụ sát hại Uthman để đưa Ali lên thay là một biến cố vô
cùng tai hại cho Hồi Giáo trong suốt nhiều thế kỷ qua và có thể còn kéo dài mãi
mãi về sau. Ali là em họ và đồng thời là con rể của Muhammad. Khi vừa được bầu
lên làm Caliph, Ali đã gặp phải sự chống đối của Muawiyah là người nhà của
Uthman. Muawiyah lúc đó là quan toàn quyền Hồi Giáo cai trị Syria lên tiếng chỉ
trích Ali đã không trừng phạt kẻ sát hại Uthman. Ali mang quân đến đánh
Muawiyah nhưng hai bên đánh nhau khá lâu không phân thắng bại nên phải ngưng
chiến. Năm 662, Ali bị ám sát chết. Muawiyah tự cho mình là người đang nắm
quyền lực quân sự mạnh nhất nên tự xưng là Caliph lãnh đạo cộng đồng Hồi Giáo.
Y tự ý dời thủ đô Hồi Giáo từ Medina về Damacus lúc đó là thủ đô của Syria.
Muawiyah mở đầu cho một triều đại Hồi Giáo kéo dài tới 6 thế kỷ. Đó là triều
đại Umayyad (Umayyad Dynasty) gồm những vị vua cai trị các nước Hồi Giáo, tất
cả đều tự xưng là Caliph (661-1250). Do đó, tất cả các vua Hồi Giáo thuộc triều
đại Umayyad đều được gọi chung là "Caliphate Rulers", có nghĩa là các
nhà lãnh đạo cộng đồng với tư cách là người kế vị Muhammad.
Riêng
cá nhân Muawiyah cai trị toàn bộ cộng đồng Hồi Giáo rộng lớn trong 19 năm. Ông
biến những người theo ông thành một giai cấp quí tộc mới, nói đúng hơn là một
giai cấp thống trị (a ruling class). Chủ thuyết của Muawiyah là cai trị dân
bằng sức mạnh quân sự (military aristocracy). Muawiyah chết vì bệnh năm 680.
Trong
thời gian đó, những người Hồi Giáo thân Ali đã lập ra một giáo phái mới là giáo
phái Shiite. Số tín đồ Hồi Giáo còn lại được gọi chung là Sunni, có nghĩa là Đa
số. Năm 680, vua Yazid (con của Muawiyah) đến Medina chặn bắt con trai của Ali
là Husayn và giết nhiều người thuộc giáo phái Shiite. Năm sau (681), Yazid mang
quân trở lại Medina (nơi ở cuối cùng của Muhammad) tàn phá và dìm thành phố
thánh địa này trong biển máu. Để trả thù, giáo phái Shiite mang quân chiếm
thánh địa Mecca và tàn phá nặng nề thành phố này. Từ đó đến nay, trải qua trên
13 thế kỷ, hai giáo phái Sunni và Shiite thường xuyên xung đột nhau nhiều trận
đẫm máu. Số người tử trận cả hai bên có thể lên tới nhiều chục triệu người. Đây
là một thảm họa lớn nhất trong lịch sử thế giới Hồi Giáo.
II.
THỜI KỲ CỦA NHỮNG ĐẾ QUỐC HỒI GIÁO - TỪ THẾ KỶ 13 ĐẾN THẾ KỶ 20.
1. Đế
Quốc Mughul :
Mughul
là tiếng phiên âm Ả Rập để gọi người Mông Cổ (Mongol). Người sáng lập đế quốc
Mông Cổ là Thành Cát Tư Hãn (Genghis Khan 1162-1227). Thoạt đầu ông thống nhất
các bộ lạc du mục Mông Cổ vốn có tài cưỡi ngựa và bắn cung. Sau đó ông huấn
luyện và tổ chức họ thành quân ngũ và biến họ thành những đoàn kỵ binh bách
chiến bách thắng. Với đoàn quân hùng mạnh này, Thành Cát Tư Hãn đã lần lượt
đánh chiếm nhiều nước từ Á sang Âu tới tận Trung Đông và Phi Châu. Luật tác
chiến rất nổi tiếng của Thành Cát Tư Hãn là : Hễ tới nơi nào ngoan ngoãn đầu
hàng thì tha, bất cứ một thành phố hay làng mạc nào chống cự đều bị phá bình
địa và tất cả mọi người dân không kể già trẻ lớn bé đều phải chết!
-
Năm 1219, quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn đánh chiếm Thổ Nhĩ Kỳ. Vua Thổ cùng
đoàn tùy tùng bỏ chạy bị quân Mông Cổ truy kích qua Iran tới tận Azerbaizan thì
bị bắt. Quân Mông Cổ tới đâu đều để lại phía sau sự đổ nát hoang tàn.
-
Năm 1231, hàng loạt các thành phố nổi tiếng của Hồi Giáo như Baghdad, Bukhara,
Damacus... đều bị đốt phá bình địa với những xác chết la liệt trên đường phố.
Dân chúng sợ hãi lũ lượt kéo nhau chạy qua các nước lân cận.
-
Năm 1255, Mông Cổ hoàn thành một đế quốc rộng lớn bao la bao gồm Trung Quốc,
Cao Ly, Ngoại Mông, hàng chục nước Trung Á và Bắc Ấn Độ, Syria, Palestine, Thổ
Nhĩ Kỳ.
Nhưng
một biến cố quan trọng đã xảy ra cho cả Hồi Giáo lẫn Mông Cổ, đó là vào năm
1295, hoàng đế Mông Cổ Ghazan Khan theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Từ đó về
sau, các hoàng đế Mông Cổ đều theo đạo Hồi. Càng về sau, các quan và cả triều
đình Mông Cổ trong đế quốc đều thành những tín đồ Hồi Giáo thành tín. Các học
sĩ Hồi Giáo Ả Rập (Ulama) được trọng dụng, nhất là trong việc soạn thảo các bộ
luật hình sự và dân sự phỏng theo luật Hồi Giáo Sharia.
Hoàng
đế Mông Cổ Timur Lenk đóng đô tại Thổ Nhĩ Kỳ xua quân đánh chiếm Iran năm 1387,
chiếm hải cảng Golden Horde của Nga năm 1395, chiếm Ấn Độ năm 1398, tàn phá thủ
đô New Delhi và giết hàng chục ngàn tù binh Hindu tại đây. Năm 1400,Timur chiếm
hai nước Iran và Iraq. Tại đây, Timur ra lệnh tàn sát hàng triệu người thuộc
giáo phái Shiite. Vì quá say máu chiến thắng, năm 1404, Timur kéo quân ngược về
phía Trung Á rồi vượt biên giới tiến đánh vào phía Tây Trung Quốc. Cuộc chiến
kéo dài qua năm sau, Trung Quốc phản công giết quân Mông Cổ rất nhiều và bản
thân Timur cũng bị tử trận trong năm 1405.
Những
hoàng đế Mông Cổ kế tiếp chú trọng việc mở rộng đế quốc ở Châu Á:
-
Năm 1478, đế quốc Mughul chiếm Indonesia và biến nước này thành nước Hồi Giáo.
Ngày nay, Indonesia là một nước đông dân nhất của thế giới đạo Hồi với trên 200
triệu dân.
-
Từ 1520 đến 1837, đế quốc Mughul cai trị toàn Ấn Độ. (Ấn Độ mang tên Mughul
Empire of India). Hoàng đế Mông Cổ đóng đô tại New Delhi. Năm 1643, hoàng đế
Mông Cổ cho xây ngôi mộ của hoàng hậu ở ngoại ô New Delhi rất nổi tiếng, đó là
ngôi mộ Taj Mahal..
-
Năm 1747, đế quốc Mughul chiếm Afganistan và cai trị nước này 100 năm.
Năm
1831, người Anh chiếm Ấn Độ và chấm dứt đế quốc Mughul trên lục địa Châu Á.
2.
Đế quốc Ottoman (1289-1924)
Danh
từ Ottoman xuất phát từ tên của một bộ lạc du mục là OSMAN ở phía tây Thổ Nhĩ
Kỳ. Bộ lạc này bắt đầu khởi binh từ năm 1280. Chỉ trong 9 năm, họ chiếm một
vùng lãnh thổ rộng lớn gồm có Tây Nam Á Châu, Đông Nam Âu Châu và Đông Bắc Phi
Châu. Họ gọi đế quốc của họ là OTTOMAN. Những người lãnh đạo đế quốc này đều
theo đạo Hồi thuộc giáo phái Sunni. Họ chẳng những nổi tiếng về tài năng thao
lược quân sự mà còn nổi tiếng về khả năng chính trị rất khéo léo của họ. Nhờ
vậy, đế quốc Ottoman đã tồn tại qua 7 thế kỷ.
-
Năm 1389, quân Ottoman chiếm Albania và Kosovo, biến vùng này thành những nước
theo Hồi Giáo.
-
Năm 1444, quân Ottoman đánh tan Thập Tự Quân của giáo hoàng La Mã tại Bulgaria.
-
Tháng 4.1453, quân Hồi Giáo Ottoman xóa sổ đế quốc Byzantine, tức đế quốc Ki Tô
Giáo Đông Phương và chiếm thủ đô của đế quốc này là thành phố Constantinople.
Điểm son của Ottoman là sau khi chiếm Constantinople và nhiều lãnh thổ của
Byzantine, Ottoman công bố chính sách khoan dung tôn giáo đối với Do Thái Giáo
và Ki Tô Giáo. Nhờ vậy, trong nhiều thế kỷ sau, Ottoman đã mở rộng thương mại
với các nước Âu Châu Ki Tô Giáo và trong lãnh thổ đế quốc không có một cuộc nổi
loạn nào. Tuy nhiên, đối với giáo phái Shiite, Ottoman có một chính sách quyết
liệt không khoan nhượng.
-
Năm 1467, Ottoman công bố thánh chiến với giáo phái Shiite, các tín đồ Shiite
trong đế quốc bị lùng giết.
-
Từ 1467 đến 1520, quân Ottoman tiến chiếm Syria, Ai Cập, Bắc Phi và toàn bán
đảo Arabia.
-
Từ 1520 đến 1534, quân Ottoman chiếm Nam Tư và một phần Âu Châu tới thủ đô
Vienne của Áo.
-
Năm 1606, Ottoman chiếm Romania, Hungaria, Ba Lan và Tiệp Khắc. Tới lúc này, đế
quốc Ottoman trở thành siêu cường quốc tế (World Power).
Từ
đầu thế kỷ 19, các cường quốc Âu Châu (Anh, Pháp, Đức) bắt đầu xâm chiếm các
phần đất của Ottoman và dồn đế quốc này vào chỗ suy tàn.
3. Đế
quốc Safavids của giáo phái Shiite (1501-1779)
Thoạt
đầu Safavids là một nhánh của giáo phái Shiite xuất phát tại nước Azerbaizan ở
tây nam biển Caspian.
Năm
1501, lãnh tụ của giáo phái Safavids là Esmail khởi binh chiếm luôn cả nước
Azerbaizan. Esmail tự xưng là "Vua Hồi Giáo" (Sha/Sultan) và ra lệnh
cho toàn dân phải theo đạo Hồi (giáo phái Shiite). Ít lâu sau, Esmail xua quân
đánh chiếm các nước lân cận theo Chính Thống Giáo là Armenia, Georgia và vùng
núi Caucase của Nga. Trong thời gian chiếm đóng, quân Hồi Safavids đã giết hại
rất nhiều người Chính Thống Giáo. Riêng tại Armenia, số tín đồ Chính Thống Giáo
bị giết lên tới một triệu người. Sau đó quân Safavids chuyển qua phía đông tấn
công thành phố Anatolia để dằn mặt đế quốc Ottoman theo giáo phái Sunni. Trong
khi đó, một nhóm khác thuộc giáo phái Shiite ở Ba Tư nỗi lên cướp chính quyền
của giáo phái Sunni. Nhóm nổi loạn ra lệnh cho cả nước Ba Tư phải theo Shiite,
ai bất tuân lệnh đều bị giết. Tất cả các học sĩ (Ulamas) lãnh đạo giáo phái
Sunni đều bị chém đầu, không sót một ai. Kể từ đó, nước Ba Tư (Iran) trở thành
một quốc gia toàn tòng theo giáo phái Shiite. Các vua Hồi Giáo Ba Tư được gọi
là SHA, vừa là vua vừa là giáo chủ, phần đông đều cực đoan và hung dữ.
Phần
đông các học sĩ Hồi Giáo Ba Tư đều theo môn phái triết học thần bí (mystical
philosophy) tóm tắt như sau: "Chính trị và tôn giáo là một, không thể tách
rời. Mọi cải cách xã hội không thể vượt quá tư tưởng tôn giáo".
Với
bản chất cuồng tín cực đoan cố hữu của giáo phái Shiite, nay lại có thêm chủ
thuyết thần bí của các Mullahs (học sĩ) giáo phái Shiite càng ngày càng trở nên
cực đoan nguy hiểm. Họ luôn luôn có thái độ bất khoan dung với các tôn giáo
khác, nhất là đối với giáo phái Hồi Giáo Sunni, chiếm 80% dân số đạo Hồi.
* *
*
Như
đã trình bày trên đây, từ thế kỷ 13 đến thế kỷ 20, trong thế giới Hồi Giáo đã
xuất hiện ba đế quốc riêng biệt và luôn tranh chấp với nhau. Cả ba đế quốc Hồi
Giáo đã được thành lập và suy tàn vào những thời điểm khác nhau:
-
Đế quốc Mughul thành lập đầu thế kỷ 13, suy tàn cuối thế kỷ 19.
-
Đế quốc Ottoman thành lập cuối thế kỷ 13, suy tàn đầu thế kỷ 20.
-
Đế quốc Safavids thành lập đầu thế kỷ 16, suy tàn trong thế kỷ 18.
Như
vậy, hai đế quốc Hồi Giáo lớn mạnh nhất là Ottoman và Mughul đã cùng tồn tại
song hành và chia nhau thống trị thế giới Hồi Giáo bao la trong 7 thế kỷ. Ít
nhất là trong 200 năm, từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, cả ba đế quốc Mughul,
Ottoman và Safavids cùng tồn tại trong thế giới đạo Hồi (The Islamic World).
Từ
thế kỷ 18 trở đi, các nước Âu Châu trở nên hùng cường mọi mặt đã đẩy lùi các đế
quốc Hồi Giáo đến chỗ suy tàn. Khởi đầu là nước Nga đánh tan quân Ottoman ở
vùng Biển Đen năm 1774, chiếm lại Armenia và vùng núi Caucase. Năm 1792, Nga
chiếm Georgia và Romania từ tay Ottoman.
Đầu
thế kỷ 19, Nga chiếm toàn bộ miền Trung Á gồm nhiều nước theo đạo Hồi thuộc đế
quốc Mughul.
(Sau
Cuộc Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, các nước Hồi Giáo Trung Á đều biến
thành các tiểu bang thuộc Liên Bang Xô Viết).
-
Cũng trong đầu thế kỷ 19, Hòa Lan chiếm Indonesia và Mã Lai. Anh chiếm Ấn Độ
bao gồm cả một tiểu lục địa (sau 1947, Ấn Độ bị chia thành nhiều nước:
Pakistan, Bangladesh, Tích Lan và Ấn Độ).
-
Cuối thế kỷ 19, Anh chiếm Ai Cập và Sudan. Pháp chiếm Algeria, Tunisia và
Maroc.
-
Đầu thế kỷ 20, Ý chiếm Lybia. Anh và Pháp chiếm Palestine, Jordan, Iraq, Syria
và Liban.
Tóm
lại, từ đầu thế kỷ 20, chỉ ngoại trừ một nước duy nhất là Thổ Nhĩ Kỳ, còn lại
toàn bộ thế giới Hồi Giáo đều trở thành những thuộc địa của chủ nghĩa thực dân
Âu Châu.
Lịch
sử bành trướng và phát triển của đạo Hồi luôn luôn gắn liền với chiến tranh và
bạo lực. Vì thế đạo Hồi nổi tiếng là "tôn giáo của lưỡi gươm"
(Religion of Sword) hoặc "tôn giáo quân phiệt" (Militaristic
Religion). Kinh Thánh Koran của Hồi Giáo được gọi là "Cuốn sách của tử
thần" (The Book of Death) và đức tin Hồi Giáo là: "đức tin hung
bạo" (a violent faith). Trong hơn một thế kỷ qua, thế giới Hồi Giáo đã bị
Tây Phuơng dồn vào thế suy kiệt mọi mặt. Họ không còn con đường nào khác hơn là
thực hiện chủ nghĩa khủng bố. Về hình thức thì ngày nay chiến tranh có khác với
ngày xưa, nhưng về thực chất thì chủ nghĩa khủng bố cũng là một hình thái của
chiến tranh và bạo lực. Chỉ khác một điều: chủ nghĩa khủng bố là hình thái
chiến tranh của những kẻ đã bị dồn vào thế yếu nhưng buộc phải chiến đấu với kẻ
thù lớn mạnh hơn mình để tồn tại.
Nhìn
về tương lai, chúng ta khó đoán được cuộc chiến tranh khủng bố sẽ đưa nhân loại
đi về đâu, nhưng nhìn về quá khứ chúng ta phải công nhận sức mạnh của Hồi Giáo
đã tạo nên nhiều thành tích quan trọng:
-
Trong thế kỷ 7, Hồi Giáo Ả Rập tiêu diệt đế quốc Sassanian đã từng làm mưa làm
gió ở Trung Đông trong 10 thế kỷ trước đó.
-
Trong thế kỷ 15, Hồi Giáo Thổ Nhĩ Kỳ tiêu diệt đế quốc Ki Tô Giáo Byzantine
(hậu thân của đế quốc La Mã) chặn đứng sự bành trướng của Ki Tô Giáo xuống bán
đảo Ả Rập và Trung Đông.
-
Nói chung, sự xuất hiện và phát triển lớn mạnh của đạo Hồi đã tạo nên một đối
trọng ngang ngửa với Ki Tô Giáo và tựu trung Hồi Giáo đã phá tan tham vọng bá
chủ toàn cầu của đế quốc Vatican.
Nguồn: http://www.sachhiem.net/CHARLIE/CN_TCCG/DaoHoi.php
No comments:
Post a Comment