Có nên uống 'vitamin tổng hợp' mỗi ngày?
30/08/2018
Thính giả Dat Tran
hỏi:
"Thưa Bác sĩ,
Bây giờ có rất nhiều
thuốc vitamin tổng hợp bán trên thị trường.
Xin hỏi Bác sĩ mọi
người có cần hay có nên uống vitamin tổng hợp đó mỗi ngày hay không?
Làm sao mình biết được
bản thân mình thiếu vitamin loại gì để uống đúng loại vitamin đó?
Làm sao nhận biết được
hiệu quả sau khi uống vitamin?
Chân thành cảm ơn Bác
sĩ.”
Bác sĩ Hồ Văn Hiền:
Năm 1912, nhà bác học
người Ba Lan ( Poland), Casimir Funk (1884-1967), tạo ra danh từ “vitamine” để
gọi một chất mà ông khám phá có thể chữa bịnh beri-beri trong gạo lứt, chưa xay
thành gạo trắng. Trước đó, ông đọc công bố của một bác học Hoà Lan nhận xét
rằng người ăn gạo lứt ít bị bịnh beri-beri hơn người ăn gạo đã xay thành gạo
trắng. Beriberi là một bịnh gồm những triệu chứng thần kinh như đau nhức tay
chân, yếu cơ, triệu chứng thần kinh, triệu chứng hệ tuần hoàn, tim đập nhanh,
tim lớn, phù thũng (phù nề) đi đến suy tim và chết. Bịnh này từng được mô tả
hàng ngàn năm ở châu Á. Đến cuối thế kỷ thứ 19, beri- beri trở thành phổ biến
hơn sau khi người ta càng ngày càng xử lý lúa gạo thành gạo trắng thay vì chỉ
dã thô sơ thành gạo lứt như trước đây. Trong vitamin, “vita” là đời sống, amine
vì trong chất ông khám phá có nhóm amin. Chất mà Funk tìm ra đầu tiên và tưởng
là chống beri beri thật ra là chất niacin (vitamin B3), và sau này chất vitamin
giải quyết được bịnh beri-beri mới là chất thiamine, gọi là vitamin B1. Ông
cũng đưa ra giả thuyết là sẽ có những vitamin trị
- bịnh rickets, hay
“còi xương” và co giật, sau này được khám phá là do do thiếu vitamin D,
- bịnh ngoài da
pellagra, cùng với các triệu chứng: tiêu hoá như tiêu chảy, lở miệng; rối loạn
tâm trí; sau này được khám phá là do do thiếu niacin hay Vitamin B3,
- và bịnh scurvy: lở
miệng lở nướu răng, chảy máu ngoài da, đau nhức, yếu tay chân, vết thương khó
lành; sau này được khám phá là do do thiếu chất vitamin C (ascorbic acid)
thường thấy trong trái cây tươi.
Ý niệm vitamin là
những chất tối cần thiết cho sức khỏe của cơ thể là một "cách mạng"
trong y khoa thời đó, lúc mà quan niệm thịnh hành là bịnh tật do vi trùng gây
ra và cơ thể chỉ cần 4 yếu tố chính: protein, đường và tinh bột (carbohydrate),
mỡ và các chất khoáng (minerals).
Sau đó những vitamin
khác được khám phá. Năm 1912, nhà hoá học người Anh tên Frederick Gowland
Hopkins khám phá trong sữa những chất giúp cho chuột tăng trưởng. Sau đó người
ta cô lập được các chất này và đặt tên là “vitamin A”. Hopkins được giải Nobel
Y khoa năm 1929. Những chất beta-carotene/carotenoid trong thực phẩm như cà
rốt, rau xanh, các trái có màu vàng, đỏ (đu đủ, cam, dưa hấu, bí rợ) được cơ
thể biến đổi thành vitamin A. Vitamin A tan trong mỡ và 80-90% tích trữ trong
gan, cho nên người không hấp thụ mỡ hay người bịnh gan có thể thiếu Vitamin A.
Vitamin A cần cho sức khoẻ các tế bào thị giác trong võng mô (retina). Vitamin
A cần cho tổng hợp chất rhodopsin phụ trách tiếp nhận ánh sáng. Người thiếu
vitamin A có thể bị bịnh quáng gà (không nhìn thấy rõ ban đêm, night
blindness); khô mắt và lở loét, có thể gây mù. Người Đông, Nam Châu Á nếu chỉ
ăn cơm mà không có rau, hoa quả dễ bị thiếu vitamin A vì gạo không chứa chất
beta-carotene hay carotenoid là tiền thân của vitamin A.
Vitamin A được dùng
nhiều trong các bịnh ngoài da.
Trẻ em bị ban đỏ cần
được cho 2 liều cao vitamin A (cách 24 giờ) để bịnh lành nhanh hơn và giảm tỷ
lệ tử vong. Con của phụ nữ HIV(+) cần được cho vitamin A (50.000 IU) trong vòng
48 giờ sau khi mới sanh.
Một vitamin mà người
Việt thích dùng trong mấy chục năm qua là vitamin B12. Khoảng thập niên 1970,
bịnh nhân thích đến phòng mạch yêu cầu được chích một mũi "B douze"
(tiếng Pháp : vitamine B12) “cho khoẻ”. Từ thế kỷ thứ 19, bác sĩ người Anh
Addison từng mô tả bịnh "pernicious anemia' (bịnh thiếu máu ác tính) gồm
bịnh thiếu máu, viêm lưỡi, tê tay chân (dị cảm, paresthesia) và đi đứng không
vững và thiếu acid trong dạ dày. Sau này người ta nhận xét cho bịnh nhân ăn gan
chữa được một số trường hợp pernicious anemia nhưng không hiểu chất trong gan
làm khỏi bịnh là chất gì. Mãi đến năm 1948, Karl Folkers và cọng sự tại công ty
dược phẩm Merck, và nhóm của E Lester-Smith tại Glaxo mới cô lập được tinh thể
chất này và gọi nó là vitamin B12. Đến năm 1971, Robert Woodward (Nobel 1965)
tổng hợp được vitamin B12 (cyanocobalamin). Bịnh pernicious anemia có thể gây
chết người nay được giải quyết bằng vài mũi chích vitamin B12. Tuy nhiên hiện
nay bác sĩ ít khi chích thuốc này ở người bình thường, "cho khoẻ" như
ở VN trước đây. Thuốc uống vitamin B12 trung bình 1000 microgram/ngày. Chỉ một
phần B12 rất nhỏ được hấp thụ qua ruột nhưng cũng đủ tác dụng..
Những câu hỏi của vị
thính giả về vitamin
- mọi người có cần hay
có nên uống vitamin tổng hợp đó mỗi ngày hay không?
- làm sao mình biết được bản thân mình thiếu vitamin loại gì để uống đúng loại
vitamin đó?
- làm sao nhận biết được hiệu quả sau khi uống vitamin?
Chưa có câu trả lời
dứt khoát căn cứ trên bằng chứng khách quan khoa học và là những lãnh vực gây
tranh cãi trong giới y học. Một khảo cứu năm 1988 cho thấy y bác sĩ chỉ biên
toa hay khuyến cáo bịnh nhân dùng Multivitamin trong 1% các lần thăm khám bịnh.
Nhiều nhất là các bác sĩ “primary care” trong những lần khám sức khỏe tổng quát
mà thôi.
Chúng ta chỉ bàn đến
một số điểm chính mà thôi.
1) Nếu hiểu
"vitamin tổng hợp" là những loại thuốc thường gọi là
"multivitamin/mineral supplements" (MVM) chứa từ >3 vitamin hay
khoáng chất khác nhau, mỗi năm có chừng 1/3 người Mỹ dùng MVM, chi phí chừng 6
tỷ đô la, nghĩa là rất nhiều người dùng loại thuốc này. Chi phí cho MVM chiếm
hết 1/6 các chất "bổ sung dinh dưỡng " (nutritional
supplements") mà chúng ta có thể gọi là “thuốc bổ” dùng ở Mỹ.
Nói chung, dùng MVM
phổ biến hơn ở phụ nữ (nhiều hơn nam giới), tầng lớp khá giả, có học thức, có
nếp sống lành mạnh (như ăn uống điều độ, không mập, thể thao đều đặn), và con
cái những người dùng MVM.
2) Thường những MVM
này, uống 1 viên/ ngày chứa các chất khác nhau ở mức tương đương, hoặc xấp xỉ
với các mức gọi là "giá trị hàng ngày" hay Daily Values (DVs), Lượng
được khuyến cáo trong chế độ ăn uống" Recommended Dietary Allowances
(RDAs) hay " Lượng ăn phù hợp" Adequate Intakes (AIs). Chất nào được
lựa chọn vào thành phần viên thuốc là tùy theo nhà sản xuất, tuỳ theo thành
phần người tiêu thụ mà họ nhắm vào như trẻ em hay người lớn, phái nam nay nữ,
người lớn tuổi, người có thai có nhu cầu khác nhau.
3) Một số MVM có chứa một số chất ở mức thật cao so với RDA, DA, cao hơn cả mức
tối đa an toàn được khuyến cáo, gọi là UL (Upper Limits) kèm theo một số chất
đặc biệt hay dược thảo.
4) Một số viên thuốc
được chế biến để nhắm vào một mục tiêu nào đó: specialized MVM , ví dụ tăng
"sinh lực" (energy) cho đàn ông, giảm các triệu chứng thời tắt kinh
của phụ nữ, "bổ mắt", giúp sức khỏe tuyến tiền liệt, vv. Có thuốc
chứa các chất probiotic để "cải thiện" hệ miễn nhiễm, các hormon thực
vật sterols, coenzyme Q10 (hy vọng tăng sinh lực, bớt mệt mỏi) . Một số thuốc
gọi là "chống oxy-hoá" (antioxidant) có thể chứa các chất vitamins C,
E, selenium, và beta-carotene ngoài các vitamin thông thường và khoáng chất.
Có thể uống 2-3
viên/ngày, thay vì 1 viên mỗi ngày.
Nói tóm lại các
"specialized MVM" nay thay đổi theo từng nhà sản xuất, đa số không có
bằng chứng khoa học được y khoa chính thống công nhận, nhưng vẫn được người
tiêu dùng tin cậy , tin tưởng theo lời quảng cáo, hay theo khuyến cáo của bác
sĩ, hay chuyên viên về sức khoẻ, các người hướng dẫn trên các báo chí, internet
nói về y học phổ thông.
5) Ở Mỹ, chừng 3/4 dân
số được cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng trong thức ăn uống hàng ngày và
không cần phải uống thêm MVM. Tuy nhiên những chất như vitamin E, potassium,
calcium có thể thiếu trong một số người và các viên MVM có thể bảo đảm cho nhu
cầu các chất này. Uống MVM cũng kèm theo cái cơ nguy nhỏ là mình uống một số
chất quá nhiều. Những người uống MVM có thể được cung cấp quá nhiều vitamin A,
chất sắt (Fe) và niacin. Một điểm khá thú vị là những người uống MVM hàng ngày
có khuynh hướng uống các loại viên vitamin riêng-rẻ khác (như vitamin B, C, D)
kèm theo, hoặc trong thức ăn uống của họ cũng đã có vitamin đầy đủ rồi, cho nên
họ có khuynh hướng dư thừa vitamin. Trong lúc đó, những người không uống
multivitamin lại thường có tình trạng dinh dưỡng kém hơn và lại có khuynh hướng
thiếu một số vitamin cần thiết.
Đối với trẻ em dưới 4
tuổi ở Mỹ, đa số đạt nhu cầu qua thức ăn uống, tuy có thể thiếu chất sắt, zinc
ở các trẻ nhỏ, vitamin E và potassium ở một số trẻ lớn hơn. Ngược lại trẻ uống
MVM có khuynh hướng dư thừa vitamin A, folic acid và zinc.
Có những khảo cứu trên
nhiều năm đưa đến kết luận MVM làm giảm cơ nguy ung thư và tử vong ở người dùng
(nam giới, nhưng nữ giới thì không) ở Pháp; giảm tiểu đường sau 4 tháng dùng
MVM với zinc 24mg/ngày ở Sri Lanka; giảm thoái hoá võng mô ở người dùng MVM với
hàm lượng cao các chất vitamin C (500 mg), vitamin E (400 international units
[IU]), beta-carotene (15 mg), zinc (80 mg), copper (2 mg). Tuy nhiên đa số các
khảo cứu lớn không đi đến kết luận nào dứt khoát về khả năng làm giảm tỷ số
bịnh tim mạch, bịnh tiểu đường, ung thư hay loãng xương.
Trả lời câu hỏi của vị
thính giả, nếu quan niệm MVM như là một phương tiện "bảo hiểm" chung
chung để mình không thiếu những chất dinh dưỡng thông thường, có lẽ loại MVM
theo các RDA tương đối hợp lý, có thể chọn theo nhóm đàn ông , phụ nữ, người
cao tuổi, nam hay nữ, phụ nữ có thai. Các MVM "chuyên khoa", cần phải
chọn theo nhu cầu hoàn cảnh riêng của mình.
Nhân dịp chúng ta bàn
về các viên multivitamin, xin nhắc lại ở đây vài điểm sau:
1) Multivitamin cung
cấp một số chất dinh dưỡng mà chúng ta không được cung cấp đầy đủ trong thức ăn
uống. Ví dụ người ta thấy phần đông người Mỹ ăn không đủ calcium, potassium,
vitamin D và vitamin B12.
2)Tuy nhiên, đừng tin
cậy quá nhiều vào những lời quảng cáo, nhà bào chế có thể gợi ý là thuốc của họ
chữa bịnh này bịnh nọ, nhưng họ không nói trắng ra vì FDA không cho phép vì
không có bằng chứng cho các chất thuốc bổ "nutritional supplements".
Tuy nhiên FDA không trực tiếp quản lý (regulate) các loại thuốc bổ này nên
người tiêu thụ cần tìm hiểu để đừng bị lường gạt.
3) Nên uống đều đặn,
nhưng coi chừng uống nhiều thứ cùng một lúc có thể chồng chéo lên nhau. Không
phải càng nhiều càng tốt. Ví dụ uống quá nhiều vitamin A có thể gây tật bẩm
sinh (birth defect) nếu người phụ nữ có bầu. Trên 50 tuổi nam cũng như nữ
thường không cần uống thêm chất sắt.
4) Ăn những thức ăn tươi, lành mạnh, đa dạng vẫn là nguồn dinh dưỡng tốt nhất.
5) Những người có cách
ăn uống riêng như ăn chay, không uống sữa, ăn kén, ăn ít để sụt cân nên tìm
hiểu xem trong thực đơn mình thiếu những chất gì. Ví dụ người không uống sữa,
ăn bơ, phô-mai (dairy products) có thể cần uống thêm Calcium và vitamin D.
6) Phụ nữ đang tuổi có
thể có con cần được cung cấp đầy đủ chất folic acid (một loại vitamin B) tìm
thấy trong lentils, peas, rau xanh đậm (dark green vegetables, ví dụ: broccoli,
spinach, collard or turnip greens, okra, and asparagus). Thiếu folic acid làm
hệ thần kinh bào thai phát triển không bình thường ( khuyết tật do ống thần
kinh / neural tube defects). Từ 1998, ở Mỹ FDA khuyến cáo cho thêm folic acid
vào bánh mì và cereal. các thuốc như Centrum for women có chứa chất này đủ theo
mức khuyến cáo là 400 microgram/ ngày. Các thuốc bổ dành cho các bà có bầu (prenatal
pills) chứa gấp đôi số lượng trên , là 800 microgram/ ngày.
6) Người hút thuốc và,
có thể, những người hút thuốc trước đây nên tránh các sản phẩm MVM cung cấp một
lượng lớn beta-carotene hoặc vitamin A vì hai nghiên cứu đã liên kết các chất
dinh dưỡng này với sự gia tăng nguy cơ ung thư phổi ở người hút thuốc. Trong
một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng (randomized controlled trial),
những người hút thuốc ở nam Phần Lan (Finland) dùng bổ sung beta-carotene (20
mg / ngày) có tỷ lệ ung thư phổi cao hơn 18% so với những người hút thuốc dùng
placebo (giả dược) trong 5-8 năm theo dõi. Trong một nghiên cứu khác, những
người hút thuốc, người hút thuốc trước đây và những người phơi nhiễm amiăng
(asbestos) dùng kết hợp [beta-carotene 30 mg / ngày + vitamin A (retinol)
25.000 IU / ngày] có nguy cơ ung thư phổi tăng 28% sau thời gian theo dõi trung
bình 4 năm, so với những người tham gia dùng placebo (giả dược).
7)Thường thuốc MVM
không can thiệp với các thuốc khác. Ngoại lệ quan trọng, nếu bạn uống thuốc để
làm máu khó đông hơn (chống đông máu, anticoagulant, “blood-thinner”) ví dụ như
warfarin (Coumarin), không nên uống thuốc MVM có chứa vitamin K vì vitamin K sẽ
đi ngược tác dụng các thuốc này. Cần hỏi bác sĩ vì liều warfarin tuỳ thuộc vào
lượng vitamin K được bịnh nhân tiêu thụ.
8) Acid trong dạ dày
cần cho việc "giải phóng" B12 từ thức ăn; 10-30% những người trên 50
tuổi, người uống thuốc ức chế bơm proton (proton pump inhibitor/PPI) như
Prilosec (omeprazole) vì ợ chua, xót dạ dày, có thể thiếu acid và hấp thụ B12
kém. B12 chỉ có trong thực phẩm động vật (thịt, cá, trứng sữa). Vitamin B12
trong các viên MVM hay từ các thực phẩm chế biến có thêm B12 có thể được hấp
thụ khá tốt ở những người thiếu acid dạ dày.
Cần thêm chất
intrinsic factor của dạ dày sản xuất kết hợp với Vitamin 12 thì ruột non mới
hấp thụ Vitamin B12 vào máu được. Những người bị bịnh thiếu máu ác tính vì tế
bào dạ dày của họ bị hư hại do một bịnh tự miễn nhiễm. Người bị cắt dạ dày hay
thu hẹp dạ dày để xuống cân có thể thiếu vitamin B12.
Chúc thính giả may
mắn.
Bác sĩ Hồ Văn Hiền
Ngày 29 tháng 8 năm 2018
1) Multivitamin/mineral Supplements
Fact Sheet for Health Professionals
https://ods.od.nih.gov/factsheets/MVMS-HealthProfessional/
2)The discovery of the
vitamins.
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/23798048
3) Casimir Funk in
Wikipedia
https://en.wikipedia.org/wiki/Casimir_Funk
4) Vitamin A History
https://www.news-medical.net/health/Vitamin-A-History.aspx
5)http://www.active-b12.com/b12-deficiency-and-history/
6)Prescription and
recommendation of multivitamins by physicians in office based ambulatory care
in the united states
https://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S0271531788801143