Âm Nhạc của Một Thời-Lê Hữu
Tủ
Sách T.Vấn & Bạn Hữu
Giới
Thiệu
Âm
Nhạc của Một Thời là
tác phẩm làm nên tên tuổi Lê Hữu, một Lê Hữu có đôi mắt tinh tế, sắc bén, nhìn
thấu suốt đến từng chi tiết nhỏ nhất trong bất cứ vấn đề gì mà ông có hứng thú
bàn tới. Người đọc Lê Hữu sẽ không ai không ít nhất một lần ngạc nhiên với sự
phân tích của ông ở một đề tài mà mình tưởng chừng đã quá quen thuộc, đã từng
nghe, nói, viết đến từ lâu. Sau sự ra đời của sách giấy Âm Nhạc của Một Thời
do nhà xuất bản Giờ Ra Chơi ấn hành năm 2011 tại Hoa Kỳ, Lê Hữu đã gởi tới
độc giả tác phẩm thứ hai của mình Ngôn Ngữ Ngậm Ngùi dưới hình thức sách
điện tử do Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện năm 2016. Do tính cách thời sự
của đề tài (ngôn ngữ Việt trong và ngoài nước) và sự nhận định phóng khoáng vượt
lên trên mọi “taboo” chính trị, nên tác phẩm thứ hai của Lê Hữu được mọi thành
phần độc giả chú ý, nhất là độc giả ở trong nước (nhờ vào hình thức xuất bản điện
tử qua mạng lưới phát hành miễn phí của Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu).
Hiện nay, ở trong nước, xuất hiện nhiều
phong trào ‘tôn vinh” nền âm nhạc của miền Nam trước biến cố 1975, điển hình
qua các cuộc thi ca nhạc của các đài truyền hình tạo nên một làn sóng người người
hát nhạc cũ miền Nam, nhà nhà nghe nhạc cũ miền Nam. Hát công khai, nghe công
khai, kể cả những bài chưa được hệ thống kiểm duyệt nhà nước cho phép (hát).
Thiết tưởng, việc phổ biến một tác phẩm như quyển Âm Nhạc của Một Thời của
Lê Hữu nói về âm nhạc của miền Nam trước 1975 đến với công chúng ở trong nước
là một việc làm hữu ích và cần thiết, không chỉ cho nền âm nhạc đang được nói đến
mà còn cho công chúng thưởng ngoạn được biết thêm về những bài hát mà mình đang
yêu thích.
Tủ
Sách T.Vấn & Bạn Hữu, với quan niệm rằng mọi tác phẩm văn hóa có giá trị cần
được phổ biến ở nhiều nơi, nhiều lúc khác nhau để mọi thành phần độc giả đều có
cơ hội tiếp cận tác phẩm, hân hạnh được nhà văn Lê Hữu cho phép tái bản tác phẩm
Âm Nhạc Của Một Thời qua hình thức sách điện tử, để tác phẩm có thể dễ
dàng đến với độc giả trong nước (cũng như ngoài nước), đáp ứng nhu cầu tìm hiểu
âm nhạc miền Nam đang “nóng bỏng” hiện nay.
Xin
trân trọng giới thiệu Âm Nhạc Của Một Thời.
Tủ
Sách T.Vấn & Bạn Hữu
“The history of a people
is
found in its songs.”
~
George Jellinek
Lời Nói Đầu
(Ấn
bản sách giấy –Giờ Ra Chơi 2011)
Âm
nhạc, từ bao giờ, đã trở nên thân thiết với cuộc sống và làm giàu thêm đời sống
tinh thần của con người.
Nội
dung sách này là những mảng nhỏ trong bức tranh lớn nhiều màu sắc của nền tân
nhạc Việt ở miền Nam Việt Nam trước năm 1975. Nhạc Việt thời ấy còn là di sản
văn hóa quý giá của người Việt.
Ít
bài trong sách này đã phổ biến trên báo chí (có hiệu đính ít chi tiết) và nhận
được nhiều chia sẻ, góp ý của quý độc giả. Trong khuôn khổ giới hạn của cuốn
sách, người viết khó trình bày cho thật đầy đủ về mọi hoạt động về âm nhạc, nghệ
thuật. Các nhận định trong sách có tính cách cá nhân và chủ quan nên không
tránh được những sai sót, mong quý độc giả vui lòng lượng thứ.
Xin
thành thật cám ơn quý thân hữu đã hỗ trợ việc ấn hành và giới thiệu sách này đến
người đọc yêu âm nhạc.
Trân
trọng,
Lê
Hữu
Mục lục
Lê
Hữu và một thời âm nhạc (Tựa, Phạm Xuân Đài) 9
Hình
tượng người lính qua dòng nhạc Việt 16
Đoàn
Chuẩn-Từ Linh, một mùa nào lãng mạn 50
Nguyễn
Hiền, nhạc, thơ tràn muôn lối 93
Y
Vân và ảo ảnh cuộc đời 121
Tuấn
Khanh, chiếc vĩ cầm không có tuổi 152
Người
lính trong nhạc Nguyễn Văn Đông 179
Phạm
Duy, tôi còn yêu, tôi cứ yêu 209
Nỗi
buồn sông nước trong nhạc chiều Phạm Duy 248
Ảo
giác Trịnh Công Sơn 265
Hà
Nội, một thoáng dư âm 361
Nhật
Trường, hát về những giấc mơ 383
Nhạc
phổ thơ, thơ phổ nhạc (Phụ Lục) 416
Chút
duyên văn nghệ (Bích Huyền) 442
T ự a
PHẠM XUÂN ĐÀI
Lê Hữu và Một Thời Âm Nhạc
Viết
nhận định về âm nhạc là việc khó vì dùng ngôn ngữ viết để nói về thế giới âm
thanh. Những nhà viết tiểu thuyết, với ngôn ngữ nghệ thuật, thì dễ dàng hơn, có
thể chuyển đạt đến người đọc những đặc tính âm thanh mà mình muốn diễn tả, ví dụ
Nguyễn Du tả tiếng đàn của Kiều.
Tiếng
khoan như gió thoảng ngoài
Tiếng
mau sầm sập như trời đổ mưa
Tả như thế là tuyệt
khéo, gợi được một cách sinh động sự liên tưởng và hình dung của người đọc về
tiếng đàn của kẻ tài hoa. Người đọc tưởng là thưởng thức bài đàn của Kiều, kỳ
thực là thưởng thức tài văn chương của Tố Như. Mỗi người hình dung câu văn theo
chủ quan của mình, từ đó “nghe” tiếng đàn trổi lên một cách riêng trong tâm trí
của mình. Đây là phạm vi của nghệ thuật và tài năng của nhà văn.
Khi viết quyển Âm Nhạc Của Một Thời, tác giả Lê Hữu
không nhằm mô tả kiểu đó. Vì ông viết biên khảo chứ không phải tiểu thuyết. Ông
có sẵn một kho tư liệu, đó là những bản nhạc Việt Nam đã được sáng tác trong “một
thời”, dưới dạng ký âm và lời ca được in trên giấy và cả dạng âm thanh (có khi
cả hình ảnh trình diễn) của tiếng hát và của nhạc cụ, từ các công cụ điện tử là
băng, đĩa. Với vốn tư liệu sẵn có của riêng ông và chung của xã hội, ông viết về
âm nhạc của một thời với giả thiết rằng người đọc ông cũng đã nghe những bản nhạc
mà ông nói đến – hoặc chưa nghe mà muốn nghe thì có thể tìm một cách dễ dàng.
Vì thế ông gần như bỏ qua việc diễn tả giai điệu của bài nhạc, mà chỉ chú trọng
phân tích về ca từ. Và trong một số trường hợp, khảo sát kỹ lưỡng người nhạc sĩ
sáng tác.
Chữ “một thời” mà tác giả dùng trong nhan đề cuốn sách không
được tác giả định nghĩa là thời nào, nhưng có thể hiểu theo hai cách. Một, đó
là cuộc đời của tác giả; hai, suốt lịch sử của nền tân nhạc Việt Nam. Cách nào
cũng được, vì thực ra lịch sử của nền tân nhạc Việt Nam cũng không dài hơn tuổi
đời của tác giả là bao. “Một thời” chỉ là một cách nói, hoặc từ chủ quan của
tác giả, hoặc có thể từ khách quan của lịch sử, để nghiên cứu về một số nhạc sĩ
và nhạc phẩm mà tác giả quan tâm.
Nền tân nhạc Việt Nam, tức là âm nhạc theo phương pháp Tây
phương, khác với nền nhạc cổ truyền của dân tộc, hiện nay rất phong phú, nhưng
có một lịch sử chưa dài. Nhạc sĩ Phạm Duy, năm nay ngoài 90, là một trong những
người sáng tác trong thời kỳ đầu tiên, vậy tuổi nền tân nhạc của chúng ta tới
bây giờ cũng chỉ mới hơn bảy mươi. Nhưng phải công nhận nó trưởng thành rất
nhanh, phần lớn nhờ vào biến chuyển thời cuộc của thời gian thập niên 1940 tạo
ra cảm hứng mạnh cho sáng tác lẫn nhu cầu lớn về ca hát: chiến tranh thế giới
thứ hai với triển vọng vận động thoát ách nô lệ của Pháp, cách mạng tháng tám
1945, cuộc kháng chiến chống Pháp, rồi tiếp theo là chiến tranh Nam Bắc khốc liệt
kéo theo những biến chuyển lớn lao khác... Những biến cố lớn trong một xã hội
đương nhiên tác động đến tinh thần con người, và từ đó nảy ra những tác phẩm
nghệ thuật về đủ mọi loại tâm thức của thời đại. Chúng ta hãnh diện đến nay có
một gia tài âm nhạc Việt Nam nói chung đồ sộ và nhiều dáng vẻ.
Nhưng Lê Hữu không viết nhạc sử. Ông chỉ viết về một số nhạc
sĩ mà ông chọn lựa, ông tạo một thế giới riêng cho mỗi người theo những gì mà
âm nhạc của họ gây cảm hứng hoặc suy nghĩ nơi ông. Một số ít chương ông viết về
các đề tài riêng biệt liên quan đến âm nhạc mà ông thấy cần đề cập tới. Tác giả
lớn lên và trưởng thành trong khí hậu nghệ thuật của miền Nam thời đất nước
chia cắt, vì thế ta không lạ trong bảy nhạc sĩ được
chọn để viết chỉ có một (tuy về hình thức là hai) Đoàn Chuẩn-Từ Linh thuộc về miền Bắc, còn lại:
Nguyễn Hiền, Y Vân, Tuấn Khanh, Nguyễn Văn Đông, Phạm Duy, Trịnh Công Sơn đều
cư ngụ tại miền Nam. Nhưng Đoàn Chuẩn-Từ Linh tuy người thì ở Bắc, nhưng sự
nghiệp tinh thần thì lại “sống” tại miền Nam, vì thời 1954 – 1975 nhạc của ông
bị cấm ở miền Bắc trong khi tại miền Nam lại rất được ưa chuộng. Ngoài các
chương viết về từng tác giả, có ba chương viết riêng theo chủ đề: “Hình tượng người
lính qua dòng nhạc Việt”, “Hà Nội, một thoáng dư âm”, “Nhật Trường, hát về những
giấc mơ”, và một bài phỏng vấn trong Phụ lục: “Nhạc phổ thơ, thơ phổ nhạc”.
Có thể nói cuốn sách này được viết dựa trên tình yêu âm nhạc.
Có yêu thích mới nghe nhạc, có nghe mới cảm, và từ đó mới nhận định về nhạc sĩ
này, bài hát kia. Từ cái nền tảng tình cảm ấy, tác giả phát triển các bài viết
của mình tiến tới cung cách của một nhà nghiên cứu về ca khúc, vì những điều
tác giả trình bày không thuần túy là duy cảm, mà đã dựa trên vô số tài liệu, từ
các nhạc phẩm in trên giấy đến mỗi bản nhạc được trình bày bởi nhiều giọng hát
khác nhau, từ tiểu sử của nhạc sĩ đến những chuyện bên lề–những giai thoại–
trong đời sáng tác của người ấy, từ tình hình xã hội chính trị trong đó một bản
nhạc ra đời cho đến những dư luận báo chí đương thời hoặc sau này về các tác giả
và tác phẩm... Sự hiểu biết của tác giả về thế giới âm nhạc Việt Nam, đặc biệt
là miền Nam, rất rộng và sâu, tác giả lại là người kỹ lưỡng, sẵn sàng đặt dưới
kính hiển vi soi mói một tiếng hát sai của ca sĩ, hoặc một chữ in sai của nhà
xuất bản. Những ưu điểm ấy cho chúng ta một niềm
tin cậy về mặt tài liệu mà tác giả trưng dẫn trong sách, dù đó là văn bản ca từ
hay cuộc đời và giai thoại của giới nghệ sĩ.
Khó khăn lớn nhất của Lê Hữu trong việc biên soạn Âm Nhạc
Của Một Thời, và cũng là khó khăn chung cho những người viết nhận định về
ca khúc, là chỉ dùng chữ nghĩa để diễn đạt những gì thuộc thế giới âm thanh. Nếu
đây là những bài dẫn giải âm nhạc trên đài phát thanh hay truyền hình thì có lẽ
vấn đề sẽ đơn giản hơn nhiều, bởi lẽ thay vì trích dẫn các câu hát bằng chữ
trên giấy, chúng ta sẽ được nghe trực tiếp âm thanh. Đó là âm nhạc. Với ngôn ngữ
viết người ta có thể phần nào tạo nhạc tính trong văn thơ nhưng đó vẫn không phải
là âm nhạc. Những câu hát mà tác giả trích dẫn trong suốt cuốn sách này, chỉ thực
sự gây hiệu quả khi người đọc hình dung ngay trong đầu âm điệu của câu hát ấy.
Nếu người đọc không biết bài hát mà tác giả đang đề cập? Thì chỉ là đọc một số
câu chữ xơ cứng, văn không ra văn, thơ không ra thơ, lắm khi cũng mượt mà nhưng
có khi lại quá… bình thường. Nhưng nếu biết âm điệu của nó thì lập tức một thế
giới khác sẽ hiện ra trong đầu và cả tâm hồn người xem, và hiệu quả của luận cứ
của tác giả sẽ đến tức thì. Dĩ nhiên đi đôi với việc trích dẫn là lời dẫn giải
của tác giả, nhưng dù tài hoa cách mấy cũng không thể hoàn toàn thay thế âm nhạc
đích thực cho thưởng ngoạn.
Nhưng khó khăn đó chỉ là một trở ngại tự nó không thể ngăn cản
việc viết về âm nhạc. Trái lại những tác phẩm phê bình nhận định về nhạc sĩ nhạc
phẩm vẫn được viết, và nhờ đó, âm nhạc vẫn được hiểu, được cảm, có khi còn ngấm
sâu hơn là được dẫn giải với
phương tiện âm thanh. Xem ra trong học thuật, phương tiện âm thanh, ngay cả
trong lãnh vực âm nhạc, hãy còn mong manh theo ý nghĩa của câu tục ngữ ngày
xưa: “Nói bay, viết còn”...
Mỗi một nhạc sĩ sáng tác là một thế giới mênh mông, muốn hiểu
họ, cảm họ, phải lặn lội sâu vào cuộc đời và tác phẩm của họ, thậm chí phải len
vào những ngõ ngách bí hiểm ít ai biết. Từ trước tới giờ, về âm nhạc Việt Nam,
không mấy ai chịu khó như Lê Hữu trong công việc này. Nội một việc phải nghe hết
và nghe đi nghe lại các nhạc phẩm của một tác giả thì đã là một kỳ công, vì hầu
như chẳng ai khám phá được gì nếu chỉ thưởng thức hời hợt theo lối cưỡi ngựa
xem hoa. Từ niềm rung cảm của chính mình do bản nhạc đem lại, tác giả mới dần
dò ra từng đặc điểm của người sáng tác, rồi sắp xếp, phân loại, không những là
từng bài hát, mà có khi là từng cảm hứng lẻ loi nhưng đặc thù nằm rải rác trong
nhiều nhạc bản để từ đó dựng nên một chủ đề sáng tác. Không phải tự nhiên mà có
được một bài “Nỗi buồn sông nước trong nhạc chiều Phạm Duy”. Trong khối nhạc phẩm
đồ sộ của nhạc sĩ lớn này, Lê Hữu phải thoạt tiên nghe những bản nhạc về sông gặp
rải rác đó đây, và phát giác ra những giai điệu và lời ca gây buồn khi Phạm Duy
viết về sông nước. Và có lẽ phải qua một quá trình lâu dài nữa mới nhận ra vai
trò của buổi chiều, và từ đó thấy ra tính chất quyết định cho cả một chủ
đề: nỗi buồn – sông nước – buổi chiều. Phải viết làm sao cho người đọc cảm
ứng theo mình, cũng tức là theo nhạc sĩ, cái buồn trong khung cảnh chiều rơi,
bên dòng sông. Khi sáng tác, không mấy nghệ sĩ định trước chủ đề mà chỉ viết
theo cảm hứng, nhưng họ trở thành lớn lao khi tạo ra một nghệ phẩm tác động sâu
sắc vào trái tim của mọi người; và khi người nghiên cứu khoanh vùng được các đặc
sắc của tác phẩm để đặt để cho nó một chủ đề, người ấy cũng đạt được một lớn
lao không kém, với tư cách là người hiểu nhiều, cảm sâu và thông ngôn cho các
bí ẩn của tài năng sáng tạo ấy đến người khác.
Theo cung cách như vậy, Lê Hữu đã đến với một số nhạc sĩ, và
làm công việc trung gian tạo cảm thông và hiểu biết giữa giới sáng tác và người
thưởng ngoạn. Một công việc đòi hỏi năng lực thẩm định nghệ thuật mẫn nhuệ, sức
làm việc bền bỉ và sự thận trọng. Cũng đòi hỏi phải có thật nhiều tài liệu – bằng
cả chữ viết và âm thanh. Lê Hữu đã chứng tỏ mình có đầy đủ các đức tính để làm
công việc này, mà ưu điểm lớn nhất là lòng yêu nhạc ít ai bì kịp. Không có tình
yêu ấy thì tất nhiên không thể có tác phẩm này.
Little Saigon 10 tháng Tư, 2011
Phạm Xuân
Đài
Hình tượng người lính qua dòng nhạc
Việt
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
(“Tây tiến”, thơ Quang Dũng)
Xa nhìn thấp
thoáng trong mây
muôn bóng quân Nam chập ch ng (1)
Câu hát ấy, từ bao năm nay vẫn cứ theo tôi, theo tôi mãi.
Câu chuyện bắt đầu từ những ngày xa xưa, thuở tôi còn là cậu
học trò nhỏ vừa bước vào năm học đầu tiên của một trường trung học ở thành phố
cao nguyên có cái biệt danh nghe buồn buồn là “ uồn-muôn-thuở”. Cậu học trò ấy,
vào mỗi sáng thứ Hai, cùng chúng bạn đứng xếp hàng ngay ngắn trước sân cờ, nao
nức chờ đợi phút giây được tham dự vào nghi thức thượng kỳ đầu tuần trong bầu
không khí thật trang nghiêm giữa sân trường thuở ấy.
“Đứng thẳng người,” thầy tôi dặn, “ngực ưỡn ra, miệng hát lớn,
mắt hướng về lá quốc kỳ cho tới khi bài quốc ca chấm dứt.” Tôi đã làm theo đúng
lời thầy, mắt d i theo lá cờ từ từ, từ từ được k o lên, nhẹ bay trong gió. Lá cờ
màu vàng tươi phất phới bay trong nắng sớm giữa bầu trời lồng lộng, có từng cụm
mây trắng lững lờ... Bỗng nhiên, trong một thoáng, câu hát ấy–không phải câu
hát trong bài quốc ca–nghe vẳng lên trong đầu tôi.
Xa nhìn thấp
thoáng trong mây
muôn bóng quân Nam chập chùng…
Cùng lúc, tôi như nhìn thấy, thoáng ẩn thoáng hiện trong những
cụm mây nơi phía chân trời mờ xa, “chập chùng” những đoàn quân đang tiến bước.
Tôi không thể biết chắc những gì tôi nghe thấy và trông thấy ấy,
là tiếng nhạc ở trong đầu, là “bóng mây ảo giác”, hay là những bài hùng ca, những
bài học lịch sử mà chúng tôi học được từ những người thầy đã in hằn trong tâm
trí, khiến mỗi lần d i mắt trông theo lá cờ vàng phất phới trong nắng trong gió
là mỗi lần câu hát ấy lại vẳng lên và đoàn quân ấy lại thấp tho ng trong mây.
Chúng tôi trông đợi những sáng thứ Hai, trông đợi những phút
được đắm mình vào không khí đầy vẻ cuốn hút của buổi lễ thượng kỳ. Không khí ấy,
với tôi, như mang một vẻ gì thiêng liêng, như nhuốm một vẻ gì bi tráng của những
trang sử Việt hào hùng, của những chiến công thần kỳ và của những nợ máu xương
chồng chất. Trong những phút ấy, lòng tôi bỗng dâng lên những cảm xúc thật kỳ lạ,
vừa là niềm ngưỡng phục, vừa là nỗi tự hào, vừa ngùn ngụt hào khí trong máu
trong tim cậu học trò ở tuổi vừa lớn, hòa cùng tiếng nhạc trầm hùng như giục
giã những bước chân đi tới.
Công dân ơi au hiến thân dưới cờ!...
Những năm học nối tiếp theo nhau, và ngày tháng trôi đi bình
lặng.
Thế rồi, những năm tháng êm đềm vụt biến mất, cơn bão tàn khốc
của lịch sử đã cuốn phăng đi tất cả, cuốn phăng đi biết bao nhiêu là số phận.
Không còn nữa lá cờ vàng phất phới giữa bầu trời lồng
lộng, không còn nữa những đoàn quân thấp tho ng trong mây, không còn nữa
ngôi trường chúng tôi yêu quý. Chúng tôi tan tác như bầy chim hoảng loạn.
Thế nhưng câu hát ấy, bài hát ấy và những bài hát về người
lính, về những “đoàn quân ra đi”, từ bao năm nay vẫn cứ theo tôi, mãi mãi không
rời.
I. Hành trình của người lính
Đây đoàn quân ra đi nhịp nhàng
mang theo thiên hùng ca / thắm tươi trời Nam bốn phương Ta
anh h ng muôn quân ph tan cường binh chí tang bồng đem theo khắp nơi tung hoành
Những câu hát “hào khí ngút trời” ấy ở trong bài “Lục quân Việt
Nam” (1950) của Văn Giảng & Hương Việt. Những đoàn quân ra đi, những
thiên hùng ca, những anh hùng xông pha trận mạc ph tan cường
binh và khắp nơi tung hoành… đã làm dậy lên bầu máu nóng hừng hực và
lòng yêu nước nồng nàn của bao thanh niên thuở ấy, những muốn đem tài trai phụng
sự tổ quốc và vẫy vùng ngang dọc cho thỏa chí tang bồng
1. “Từng đoàn người trai đi viết sử xanh” (2)
ai ra đi không chút vấn vương
chiến trường kia tranh đấu
Là tài trai chí bốn phương / một lòng quyết lên đường
Tiến bước lên
Chiến đấu cho
đất Việt bừng s ng muôn đời
(“Quanh lửa hồng”, Nguyễn Thiện Tơ & Văn Khôi)
“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt / xếp bút nghiên theo việc
đao cung”.(3) Người trai ra đi với lời thề sắt son ghi trên báng súng. Màu
áo chiến binh thay cho màu áo học trò.
Xếp o thư sinh vui bước đăng trình
mười s u tròn trăng
Ghi trên b ng súng lời thề chinh nhân
t m hướng thành gần
(“Mười sáu trăng tròn”, Trần Thiện Thanh)
Phút tiễn đưa chỉ có ánh mắt vời vợi trông theo của mẹ già
như trao gửi nỗi niềm tin yêu.
Nhớ lúc lên đường đưa tiễn chân tôi
thương lên khoé mắt mẹ nhắn đôi lời,
“Diệt th lập công cho xứng tài trai
sắt son ghi lòng chớ phai”
(“ iệt kinh kỳ”, Minh Kỳ & Hoài Linh)
“Hành trang giã từ” chàng trai mang theo luôn có lời dặn dò,
nhắn nhủ thiết tha của người mẹ hiền yêu dấu.
Ra đi một s ng tinh sương ẹ ơi, con vẫn nhớ lời me khuyên,
“Con ơi, tình nước sâu hơn
hẹn ngày chiến thắng con về vinh quang”
(“Ai về quê tôi”, Tiến Đạt)
Những bà mẹ Việt Nam đều
giống nhau. Lòng thương con vô bờ nhưng tình nước sâu hơn, mẹ giấu đi nỗi
bịn rịn và giọt lệ tiễn đưa để đứa con yêu thong dong lên đường.
“Chàng trai đất Việt” trong câu hát của Thanh Châu được “minh
họa” r n t là chàng “thanh niên Quốc Gia”, ra đi vì lý tưởng Quốc Gia.
Hôm ấy tay cầm tay trong thiết tha
anh là thanh niên Quốc Gia / lên đường vui xa quê nhà
(“Dặn dò”, Thanh Châu)
Những chàng trai trẻ đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân, cả những
tháng năm tươi đẹp nhất của đời mình cho tình yêu đất nước. Những chàng trai trong
tim thì sôi máu / khóe mắt có trăng sao (“Kỷ niệm”, Phạm Duy), đi dưới một
“rừng cờ phấp phới”, một bầu “trời Việt mênh mang”.
Một đoàn người trai hiên ngang đeo trên vai nợ m u xương
vui ra đi không buồn nhớ thương
Một rừng cờ phấp phới
một mầu vàng chiêu dương
và một nền vinh quang bằng máu
Một trời Việt yêu dấu / một trời Việt mênh mang
giục đoàn người lên đường hiên ngang
(“Khởi hành”, Phạm Duy)
Những đoàn người nối tiếp những đoàn người, mang tổ quốc trên
vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường theo
tiếng gọi của non sông.
Người đi giúp núi sông
hàng hàng lớp lớp
chưa về / hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, Nguyễn Văn Đông)
Tiếng gọi giục giã, nao nức…
Em không nghe ngoài kia
trời đông đã lên rồi
bao lớp người đi
(“Hành trang giã từ”, Trường Sa)
“Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu”, ngưỡng cửa
đầu tiên các chàng trai phải vượt qua là những rèn luyện và thử thách của “đoạn
đường chiến binh” nơi các quân trường để trở thành người lính thực thụ.
Đây tiếng ca vang nơi quân trường đầy hào hùng
Vai s t vai / ta thi tài trong tình quân ngũ
Anh em ơi Anh em ơi
Đem sức trai nêu chí h ng / lưu tiếng ngàn thu
Cố lên! Cố lên! Dù nhọc nhằn
đem mồ hôi pha máu hồng / viết thành sử xanh
(“Thao trường vang tiếng gọi”, Trầm Tử Thiêng)
Như những mũi tên bắn
đi bốn phương tám hướng trong ngày lễ ra trường, những chàng trai đất Việt “lên
đường nhập ngũ tòng quân” vừa là đứng lên đ p lời sông núi, vừa để thỏa
chí tang bồng hồ thỉ, vẫy vùng ngang dọc.
Vì thương nước thương dân, thương quê hương mịt mờ khói lửa,
thương những kiếp người lầm than, những người trai hôm nay vào chiến dịch, nguyện
thề dâng cả đời trai với sa trường. Những nắm tay xiết chặt, những bước
chân đi tới, những ánh mắt rạng ngời.
Thương dân nghèo ruộng hoang cỏ cháy thấy nỗi xót xa của kiếp
đọa đày / Anh đi
Hành trang của người lính trong nhạc Phạm Đình Chương là lòng
yêu nước thương dân, là nòng súng nhân đạo cứu người lầm than. Hành
trang ấy là chính nghĩa, là lý tưởng của người lính miền Nam, là đối nghịch với
sắt máu, với bạo tàn.
Dẫu biết rằng “cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi”, người lính
chiến trên những tuyến đầu lửa đạn vẫn không hề nao núng lòng.
Không quên lời xưa đã ước thề
dâng cả đời trai với sa trường
Nam nhi cổ lai chinh chiến hề
nào ai ngại gì vì gió sương
(“Anh đi chiến dịch”, Phạm Đình Chương)
Nhạc điệu rộn ràng và hùng tráng như một khúc quân hành.
2. “Anh đi mai về
chiến thắng”
Người lính vẫn miệt mài đi, với lý tưởng phụng sự đất nước, với
tinh thần quyết chiến quyết thắng cho một ngày hòa bình về trên quê hương.
Anh đi xây chiến thắng / dưới màu cờ quật cường
cho loài người hòa bình
(“Dặn dò”, Thanh Châu)
Anh đi mai về chiến thắng
khi súng quân thù thôi vang trên non sông
Tươi thắm màu cờ vui reo trên kinh thành
(“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)
Những đoàn quân trùng trùng tiến bước, “chiến trường đi chẳng
tiếc đời xanh”.
Quân ra đi không luyến tiếc đời
Vui xa xôi xin nhớ phút về đem vinh quang tô thắm nước nhà Giờ
đây đoàn quân cứ tiến!
(“Khởi hành”, Phạm Duy)
Câu nhạc kết thúc với hai nốt nhạc cuối rướn cao đột ngột, mạnh
mẽ, như bước chân dồn dập xốc tới... Những trái tim bừng bừng cảm xúc, những
dòng máu sục sôi khí thế đã khơi nguồn nhạc hứng cho người nhạc sĩ để viết nên
những bài hùng ca đẹp nhất và “hùng” nhất làm nức lòng chiến sĩ.
Ngày bao hùng binh tiến lên
bờ cõi vang lừng câu “Quyết chiến ”
Bước oai nghiêm
theo tiếng súng đi tung hoành
Quân Việt Nam đi hồn non nước xây thành
Đi là đi chiến đấu Đi là đi chiến thắng!
Đi là mang linh hồn non sông
(“Xuất quân”, Phạm Duy)
“Xuất quân” của Phạm Duy là tiếng trống thúc quân dập dồn hòa
cùng nhịp bước quân hành.
“Thúc quân” của Văn Giảng & Hương Việt là điệu kèn xung
trận, là lời thúc giục bao trai tráng lên đường diệt tan giống tham tàn.
Nhìn trong hơi gió thoảng / bóng quân Nam lướt đi Thề cùng diệt
tan giống tham tàn thúc quân vùng lên! Nơi đây đất nước đang hiến bao đấng anh
linh
Xương trắng xây thành / cố tâm đền núi sông ơn nhà
“Chí làm trai dặm nghìn da ngựa / gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng
mao”, (3) người lính chiến vào sinh ra tử, luôn cận kề những bất trắc
hiểm nguy, tuy không da ngựa bọc thây nhưng cũng lắm khi đi không ai tìm x c
rơi như những người hùng không tên tuổi.
D thân này tan tành gói da ngựa cũng cam
Thề trọn niềm trung thành với sơn hà nước Nam
(“Việt Nam minh châu trời đông”, Hùng Lân)
Người lính can trường xông pha trận mạc với tinh thần quyết
chiến và quyết thắng, với khí thế “đánh một trận, sạch không kình ngạc / đánh
hai trận, tan tác chim muông” (4) làm khiếp đảm giặc
thù.
Tiếng súng ta
như mưa / khiến th gục đầu
dường như vẫn còn nghe
(“ ài ca chiến thắng”, Minh Duy)
Như người lính chiến ôm súng mơ ngày về quang vinh trong
nhạc Phạm Đình Chương, ngày vui chiến thắng, ngày thanh bình về trên quê hương
là nỗi khát khao của cả một dân tộc trong một đất nước chiến tranh ròng rã bao
năm.
Ngày mai ngày vui chiến thắng đón anh về nắng vàng gieo nơi
nơi Ðàn bé đ a nô trước thềm
Mẹ già vui / thôi hết khóc chia phôi
(“Gửi người giới tuyến”, Nhật Lệ)
Những đoàn quân ra đi năm nào với niềm tin tất thắng, nay trở
về ca khúc khải hoàn trong vinh quang chiến thắng.
Thủ đô ơi, thủ đô Đoàn quân ta đã về đây Sau bao nhiêu ngày
luôn ước mơ ngày chiến thắng quay về chốn xưa
“Bài ca chiến thắng” của Minh Duy là một trong những bài hùng
ca đẹp nhất làm dậy lên niềm tự hào về một quân lực đi là đi chiến đấu đi là
đi chiến thắng
Thủ đô ơi, thủ đô Đoàn quân ta đã về đây Tiếng reo vang, vang
dậy một trời
Lớp, lớp tinh kỳ bay trong gió
Vòng hoa chiến thắng mà người dân hậu phương choàng vào cổ những
người lính vừa trở về từ chiến trường lửa đạnlà vòng hoa của tình
quân dân thắm thiết, của lòng cảm phục, biết ơn và tin cậy.
Kìa đoàn quân chiến thắng trở về với xóm làng
thành công còn ghi dấu đầu súng
Những tấm gương kiêu h ng / phất phới vui trong lòng
Bầu trời thủ đô đón mừng
(“ ài ca chiến thắng”, Minh Duy)
Còn nỗi mừng vui nào lớn hơn, còn nỗi xúc động nào lớn hơn được
trông thấy lại lá cờ thân yêu bay lồng lộng giữa bầu trời tổ quốc, trên thành
phố quê ta vừa chiếm lại đêm qua bằng m u. Lá cờ thấm máu đào còn tươi
rói của những người lính kiêu hùng vừa ngã xuống đêm qua.
Cờ bay! Cờ bay oai hùng trên thành phố thân yêu
vừa chiếm lại đêm qua bằng m u
Cờ bay! Cờ bay tung trời ta về với quê hương
từng ngóng đợi quân ta tiến về
(“Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu”, Lê Kim Hoa)
Những người lính quả cảm dựng lại ngọn cờ vàng trên những thành
quách tan hoang sau trận chiến khốc liệt giành lại từng tấc đất quê hương là một
trong những cảnh tượng bi hùng nhất của những trang sử Việt.
“Lòng ta như thành này
Vinh quang trong tan nát!”
Câu thơ của Cao Tiêu là
cảm xúc thực lòng của người lính trong những phút lặng nhìn ngọn cờ chiến thắng
tung bay giữa hoang tàn đổ nát, khi chiến trận vừa kết thúc.
Vui bên nhau mắt lệ nghẹn ngào
quỳ hôn đất thân yêu
Quảng Trị ơi, chào quê hương giải phóng
(“Cờ ta bay trên Quảng Trị thân yêu”, Lê Kim Hoa)
Những hy sinh gian khổ, những máu xương người lính đổ ra nơi
tiền tuyến để giữ yên bờ c i và mang về cuộc sống yên lành, ấm êm cho hậu
phuơng vẫn luôn được người đời khắc ghi.
Anh về thủ đô biết bao là vui
đã để lại đây mến thương đầy vơi
Người dân nước Việt ghi ơn c c anh
đã hy sinh vì giống nòi
(“Anh về thủ đô”, Y Vân)
Chiến thắng nào, vinh
quang nào cũng phải trả giá. Cái giá đắt nhất người lính chiến phải trả là máu
xương, là xác thân mình. Có xác phơi thây chiến địa, dưới chiến hào hay trên bờ
tường. Có xác nằm lại trên đồi cao hay dưới vực sâu, bên khe suối hay cạnh bìa
rừng. Có xác của người chiến sĩ vô danh, máu thấm vào lòng đất mẹ, thịt xương
rã mục lẫn vào cỏ cây hoa lá. Làm sao kể hết được những hy sinh đền nợ nước của
những anh hùng liệt sĩ sống anh dũng, chết hiên ngang, “nhẹ xem tính mệnh như mầu
cỏ cây”. (3)
Ngày nào phơi x c nhớ không! Thây rơi mênh mông trên khắp phố
phường Thân ôm tường / đầu gục đâu Ai trên đường / người nhuộm máu
Thây rơi trong đêm khuya lấp chiến hào
(“Khởi hành”, Phạm Duy)
iết bao người lính đi không hẹn ngày về, đi không về lại nữa.
iết bao người lính đã để lại một phần thân thể mình trên khắp các mặt trận để đổi
lấy những chiến công rạng ngời.
Chàng về / chàng về nay đã cụt tay
u đào đã nhuốm trên thây bao nhiêu quân thù
(“Nhớ người thương binh”, Phạm Duy)
Người lính miền Nam đã chiến đấu can trường và hy sinh anh
dũng để gìn giữ từng tấc đất cha ông để lại và bảo vệ vùng trời, vùng biển quê
hương, cho dù máu xương có hòa lẫn vào lòng đất mẹ, cho dù xác thân có vùi sâu
dưới lòng biển cả hay tan biến vào không gian.
Chiều nao /
thương ôi rụng c nh đại bàng
Chiều nao huy hoàng / bụi vàng bay khắp không gian
(“Huyền sử ca một người mang tên Quốc”, Phạm Duy)
Biết bao nhiêu khúc hát về người lính, biết bao nhiêu khúc nhạc
hào hùng (chưa kể những khúc quân hành, những bài hùng ca, chiến đấu ca của các
quân binh chủng) ngợi ca tinh thần chiến đấu và hy sinh cao cả của người lính
chiến một lòng vì nước vì dân trong kho tàng âm nhạc Việt.
II. Bản trường ca về người lính
“Nhạc lính”, như cách gọi ở miền Nam Việt Nam từ những năm đầu
thập niên 1960’s, được hiểu là những bài nhạc nói về người lính và đời lính, hoặc
về những nỗi niềm, những tâm tình của người lính. Nhạc lính đã đi vào đời sống
của người dân trong một đất nước chiến tranh triền miên, trong đó người lính trở
thành hình ảnh thật quen thuộc trong mắt, và trong lòng mọi người.
1. Phác họa về người lính
Anh là người lính chiến
o bạc mầu đấu tranh
(“Tình quê hương”, Ðan Thọ & Phan Lạc Tuyên)
Câu hát ấy là một trong những n t ký họa hình ảnh người lính
trong số bao nhiêu người lính thời chiến tranh ta vẫn gặp đâu đó trên khắp các
nẻo đường đất nước.
Tôi lại gặp anh
/ người trai nơi chiến tuyến
súng trên vai bước về qua đường phố
(“Trăng tàn trên hè phố”, Phạm Thế Mỹ)
Người trai nơi chiến tuyến ấy, một chiều
nào trên bước đường hành quân, gh qua một thôn làng miền Trung. Làng quê nghèo
xơ xác, nhưng ấm áp tình người. Một vạt nắng vàng, một bóng trăng lung linh,
chút tình cảm vấn vương, xao xuyến.
Anh về qua xóm nhỏ / Em chờ dưới bóng dừa
Nắng chiều lên m i tóc / Tình quê hương đơn sơ
Tình quê hương đơn sơ như hạnh phúc thật đơn
sơ, thật êm đềm làm ấm lòng người lính chiến.
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ
là con của mẹ giữ quê hương
(“Tình quê hương”, Ðan Thọ & Phan Lạc Tuyên)
Là con của mẹ giữ quê hương, có hình tượng
nào gần gũi hơn, thân thiết hơn! Từ những mẹ già đến những em thơ, từ thành thị
đến thôn quê, chàng lính chiến luôn luôn là hình ảnh thân quen, luôn luôn được
nhắc đến với những tình cảm trìu mến, thương yêu và tin cậy. Người lính có thể
là người chồng, người cha, người con, người anh, người em, người bạn, người
tình…, những người đang nắm chắc tay súng giữ yên bờ c i, đem yên vui về cho
làng xóm ruộng vườn, cho người người được hít thở không khí tự do, cho nhà nhà
được đêm đêm tròn giấc ngủ.
Bờ tre quê hương tay súng anh gìn giữ
(“Trăng tàn trên hè phố”,
Phạm Thế Mỹ)
Những đêm “trăng treo đầu súng”, những đêm trăng di hành thay
cho những đêm trăng hò hẹn của những chuyện “tình thư sinh”.
Những đêm mười s u trăng tròn
vượt con đường mòn đi giữ làng thôn
(“Mười sáu trăng tròn”, Trần Thiện Thanh)
Tình quân dân thắm thiết qua những ánh mắt trao gửi, tin yêu,
d i theo bước chân của đoàn quân ra đi.
Bao em tôi đôi mắt s ng ngời
trông say sưa quân dồn bước tiến
Tóc bạc trắng đây là những me tôi
lòng già buồn
vui nhìn to n quân xa vời
(“Đoàn quân đi”, Việt Lang)
Cảm xúc lòng già buồn vui là cảm xúc nao nao của lòng
thương mến và nỗi tự hào về đàn con yêu hiến dâng đời mình cho tình yêu tổ quốc.
Trong trái tim mơ mộng của những cô gái đương xuân thuở ấy là
hình ảnh chàng lính chiến phong sương với nhịp bước oai h ng chàng tiến
trong tim em…
Chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ
ngoài chiến trường xa dãi nắng dầm mưa
Nhịp bước oai h ng chàng tiến trong tim em
trong khi vang ca say theo chiến thắng
(“Chiến sĩ của lòng em”, Trịnh Văn Ngân)
ài hát một thời rất được yêu chuộng qua những giọng Tâm Vấn,
Thái Thanh, Thúy Nga... (nhớ lối nhấn giọng ở hai nốt nhạc “đắm đuối” của Thúy
Nga trong câu hát Chiến sĩ của lòng em đắm đuối ước mơ, nghe rất là… đắm
đuối).
Những câu hát về nỗi lòng các cô gái là “người yêu của lính”
thuở ấy vẫn có những nhịp bước “oai hùng” như thế…
Chiều nay quân xuôi qua thôn vắng có cô em ngây thơ dừng gót
hồng nhìn theo anh binh tươi trong nắng / bước đi oai
hùng
(“Mơ người lính chiến”, Mai Sơn)
Anh / nơi biên th y xa / vắng muôn màu hoa
Không hề nao núng lòng / oai hùng nơi
chiến trường
(“Tôi nhớ tên anh”, Hoàng Thi Thơ) L Ê H Ữ U |
35
Vẫn có những khí phách
“hiên ngang” như thế…
Lòng em say vì nhớ đến chàng
đang hiên ngang tung hoành trong khói
súng
(“Chàng đi theo nước”, Hiếu Nghĩa)
Khi nước nhà phút ngả nghiêng
em mơ người trai anh dũng
mang thân thế hiến giang san
chí quật cường hiên ngang
(“Chiến sĩ của lòng em”, Trịnh Văn Ngân)
Tôi đi tìm anh / người lính qu hiên
ngang
cầm súng giữ giang san xây Cộng Hoà
(“Tìm anh”, Hoàng Thi Thơ)
Người lính quá hiên ngang trong những câu
hát ấy được “minh họa” r n t là người lính Cộng Hòa trên khắp nẻo đường đất nước.
Tôi đã “đi tìm” và… “tôi đã gặp”:
Tôi đã gặp anh / người anh qu hiên
ngang
đi xây cuộc đời / vì lứa tuổi đôi mươi.
Biên cương xa xôi / anh vì yêu sông núi
đem vinh quang gieo ngàn nơi
(“Tôi đã gặp”, Lê Dinh & Minh Kỳ)
Không chỉ “oai hùng”, “hiên ngang”, người “chiến sĩ của lòng
em” ngày ấy còn đượm những n t “phong trần”, “phong sương” của mưa rừng gió
núi, của nắng sớm sương chiều và những gian truân đời lính.
Ngắm em thơ ngập ngừng
nhìn người lính chiến phong trần
niềm thương dâng
lên mầu mắt
(“Chim trời chưa mỏi cánh”, Đào Duy)
Chợt thấy lòng lưu luyến / và tâm hồn xao xuyến
Trông anh trai phong sương / em thấy
mà thương
(“Đò chiều”, Trúc Phương)
Những đoàn quân ra đi trong tiếng nhạc hùng tráng, rộn rã,
thúc giục, và những “khăn hồng” tiễn đưa.
Ra biên cương Ra biên cương
Thiết tha lòng g i / hôm nay nâng khăn hồng
đưa chân anh h ng ngàn phương
(“Ðường ra biên ải”, Phạm Duy)
“Ðường ra biên ải” có thể xem là bài hát đầu tiên về những
“em gái hậu phương” tiễn đưa những anh trai tiền tuyến nô nức lên đường.
Ðoàn quân đi giữa sóng mến thương
Xuân về m a thắm
Tôi thấy những nàng khăn hồng lệ thắm
(“Đoàn quân đi”, Việt Lang)
Người ở lại vui trong nỗi đợi chờ, cầu mong người lính chiến
lập nhiều chiến công oai h ng, với giấc mơ mùa xuân nào thanh bình chàng
trở về chốn cũ, nơi lệ thắm khăn hồng tiễn đưa.
Rồi xuân đến dưới gốc mai xưa
nơi lệ thắm khăn hồng tiễn đưa Em chào đón chàng về vinh
quang bên chàng say đắm một trời xuân thanh bình
Em chúc cho
chàng lập chiến công oai hùng
Vang vang lời chiến thắng
muôn thu danh chàng lừng lẫy núi sông
(“Chàng đi theo nước”, Hiếu Nghĩa)
Người ra đi không hẹn ngày về, không vướng bận tình thê nhi.
Người ở lại vẫn một niềm son sắt thủy chung.
Anh ơi, anh cứ đi / mai về, em vẫn đợi
Anh cứ đi / anh cứ đi giết th
không vấn vương / không luyến thương
(“Lời người ở lại”, Hoàng Nguyên)
“Anh đi em ở lại nhà / Vườn dâu em hái, mẹ già em thương”. Nỗi
lòng người chinh phụ thuở xưa và những “cánh hoa thời loạn” đời nay không khác
nhau bao nhiêu.
Thương người gió lạnh đường xa
khuê phòng em đan o
Thương đời bé bỏng miền quê / anh giữ yên biên th y
(“Tình chàng ý thiếp”, Y Vân)
Phía sau những chiến tích vẻ vang của người lính luôn có bàn
tay góp sức của những người thân yêu, những người hy sinh hạnh phúc riêng tư,
gánh chịu mọi thiệt thòi, chấp nhận mọi mất mát, rủi ro và chia sớt những nhọc
nhằn của người lính trong cuộc chiến đấu cam go chống kẻ thù xâm lược.
2. Nỗi niềm người lính
Tôi là lính / âm thầm tôi nghĩ thế thôi
(“Lính nghĩ gì?”, Hoài Linh)
Câu hát ấy cho thấy người
lính vẫn có những nỗi niềm, những tâm sự đầy vơi trong những lúc “bạn cùng cây
súng”.
Những nỗi niềm ấy đọc thấy qua những dòng thư viết từ chiến
trường gửi về người mẹ hiền yêu dấu nơi chốn xa quê nhà, hẹn ngày về bên mẹ khi
non nước yên vui, khi quê hương không còn bóng giặc thù.
ẹ ơi thôi đừng khóc nữa
cho lòng già nặng sầu thương
Con đi say tình viễn xứ / đâu có quên niềm cố hương
Thương ngóng về quê cũ / gót th xéo thảm thê
Bầy trai thầm rơi lệ / súng gươm hẹn mai về
(“Lá thư gửi mẹ”, Nguyễn Hiền & Thái Thủy)
Hay trong những câu hát bày tỏ nỗi thương quê nhớ mẹ của người
lính xa nhà.
Đây những chiều hành quân / Xóm nghèo dừng chân
nhớ thương mẹ già nơi quê nhà xa xôi lắm
(“Chiều biên khu”, Tuấn Khanh & Châu Ngân)
Nhớ thương là vậy, thế nhưng… “Mẹ thà coi như chiếc lá bay” (7)
khi quê hương còn tiếng súng, khi những đồng đội còn đón xuân
ngoài chiến trường. Mẹ thương con xin đợi ngày mai , câu hát réo rắt cất
lên mỗi lần Tết đến xuân về, qua giọng chứa chan tình cảm của Duy Khánh làm chảy
nước mắt những bà mẹ già ngày ngày tựa cửa ngóng tin con.
Con biết không về mẹ chờ em trông
nhưng nếu con về bạn bè thương mong
Bao lứa trai cùng chào xuân chiến trường
không lẽ riêng mình êm ấm
Mẹ thương con
xin đợi ngày mai
(“Xuân này con không về”, Trịnh Lâm Ngân)
Những nỗi niềm ấy cũng gửi gấm trong lá thư kể chuyện đời
lính gửi về người em nho nhỏ quê nhà…
Đã c ch xa bao năm / sống cuộc đời quân nhân súng bên mình
nay mai rày đây đó Chiến đấu ngăn quân th
vì anh xót thương khi quê hương lầm than
(“Lá thư người chiến sĩ”, Phạm Đình Chương)
Cuộc đời quân nhân là cuộc chiến đấu gian
nan, là những cuộc hành quân lội suối băng rừng, là những đoạn đường chiến binh
người lính đã vượt qua và những trăn trở về một quê hương rách nát vì chiến
tranh.
Tôi thường đi đó đây / b n đen in dấu giày
Đêm đêm nằm đường
ngăn bước thù
Áo nhà binh thương lính / lính thương quê
vì đời mà đi
(“Trên bốn vùng chiến thuật”, Trúc Phương)
Những nỗi niềm ấy cũng là chuyện “buồn vui đời lính” của những
lần về ph p, những chuyến về thăm nhà.
Ngồi bên lửa bếp gia đình êm ấm
lặng nghe anh kể cuộc đời buồn vui
(“Chiều biên khu”, Tuấn Khanh & Châu Ngân)
Chuyện đời lính kể mãi kể hoài không hết, từ những mẩu chuyện
chiến trường đến nỗi nhớ thương quê nhà canh cánh bên lòng.
Ngày trở về trong bếp vui / anh nói chuyện nghe
chuyện đời chiến sĩ / sống say mê
đường xa lắm khi nương hồn về quê
(“Ngày trở về”, Phạm Duy)
Những nỗi niềm ấy cũng là lời giải bày với người vợ hiền đầu
gối tay ấp hay với người tình gắn bó thương yêu về những hoài bão và lý tưởng của
người trai thời chiến.
Nếu biết người đi vì sông núi
Cách chia này cho hạnh phúc mai sau
chắc em không buồn vì người đi cho lý tưởng
(“Kể chuyện trong đêm”, Hoàng Trang)
Chiến tranh là cách ngăn, chia lìa. Chút niềm riêng đành gác
lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa đôi.
Đời dâng cho núi sông
Lòng này thách với
tang bồng
đừng làm má thắm phai hồng / buồn lắm em ơi
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, Nguyễn Văn Đông)
Khi quê hương còn mịt mù khói súng, còn tơi bời lửa đạn thì
mơ chi chuyện lứa đôi.
Nếu hiểu rằng / anh đi vì lũ giặc tham tàn thì em ơi, em chớ
sầu thương chi Em thấy chăng khói súng của giặc thù
còn mịt mùng và còn che khuất mờ
(“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)
Lời hát, nhạc điệu nghe réo rắt, gợi nhớ tiếng hát đôi song
ca Ngọc Cẩm–Nguyễn Hữu Thiết quấn quyện vào nhau thật ngọt ngào, thật thiết tha
của một mùa nào chinh chiến.
Những lời vỗ về, nhắn nhủ ân cần, và hẹn một ngày về không
xa.
Em ơi, anh đi vì nước non mình đợi chờ
uôn quân đang reo / lửa khói tung ngập mầu cờ
Thân trai ra đi nợ nước đôi vai g nh nặng
Buồn chi c ch xa / vì ngày vui sẽ không xa
(“ uồn chi em ơi”, Lam Phương)
Những thoáng hạnh phúc hiếm hoi bên người mình thương yêu.
Đừng buồn khi xa nhau em nhé!
Thăm em đôi ngày rồi anh đi
(“Hoa soan bên thềm cũ”, Tuấn Khanh)
Những phút “tâm tình
bên nhau” thật ngắn ngủi, và chia tay vội vã.
Nụ cười đầu môi anh khẽ nói
“Về thăm em chiều nay thôi
sông hồ mai sớm lại đi”
(“Chiều mưa anh về”, Trần Thiện Thanh)
Con đường đấu tranh gian khổ còn dài, người lính chiến, những
chàng trai ôm mộng hải hồ, bạn cùng sương gió, dừng chân phút giây thôi rồi lại
lên đường, lại miệt mài đi trên những dặm sơn khê, trên khắp các nẻo đường đất
nước để mang về mùa xuân mới cho quê hương.
3. Giấc mơ người lính
Ai nói với em lính không sầu nhớ
không có tr i tim đắm say mộng mơ
(“Ai nói với em”, Minh Kỳ & Huy Cường)
Câu hát quen thuộc vẫn nghe trên các làn sóng phát thanh ở miền
Nam một thời nào, cho thấy hình ảnh “cổ điển” của những người lính lạnh l ng
vung gươm ra sa trường (“Chiến sĩ Việt Nam”, Văn Cao) đã… lỗi thời. Thay
vào đó là hình ảnh gần gũi, thân quen, đẹp và đôi lúc pha những n t… “lãng mạn
đời lính”.
Anh như ngàn gió / ham ngược xuôi theo đường mây Tóc tơi bời
lộng gió bốn phương
(“Mấy dặm sơn khê”, Nguyễn Văn Đông)
Trên “mấy dặm sơn khê”,
trên bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính. Cuộc đời
lính chiến và những năm dài chinh chiến điêu linh đã khiến cho những lứa đôi
yêu nhau phải… người ở một phương nhớ một phương.
Em biết chăng đời lính / nắng sớm với sương chiều
Gió rừng rồi mưa núi / đã làm anh vui nhiều
(“Niềm tin”, Anh Linh & Nhất Tuấn)
“Chí lớn chưa về bàn tay không” (5)
thì sá gì chút tình riêng. Người trai ra đi mang trong tim
hoài bão thiết tha phụng sự đất nước, nối chí người xưa để mang về một vận hội
mới cho quê hương.
Còn đây đêm cuối c ng nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, Nguyễn Văn Đông)
Những “em gái hậu phương”, như những đóa hồng bên những hầm hố
và hàng rào kẽm gai, vẫn mong được bàn tay người trai hùng đem tưới vun
trong vườn.
Xin anh che chở / tấm đời nhỏ bé hậu phương
như câu chuyện tình “Người h ng và giai nhân”
Những cánh hoa hồng / bên hàng rào kẽm hầm chông
vẫn mong bàn tay người đem tưới vun trong vườn
(“Cánh hoa thời loạn”, Y Vân)
Chàng lính chiến vui say đời quân ngũ ngoài chiến trường xa vẫn
có những phút thả hồn theo mây gió, trăng sao tìm về bên người mình yêu.
Bao th ng ngày
phong sương đường xa
vui chiến trường quên áo hào hoa
Tôi sẽ về tìm em / khi trời lấp l nh sao đêm
và gió trăng theo từng bước chân êm
(“Tôi sẽ về thăm em”, Hoàng Nguyên)
N t “lãng mạn đời lính” còn theo bước chân người lính trên những
dặm đường hành quân.
Ngày hành quân / anh đi về cánh rừng thưa
thấy sắc hoa tươi nên mơ màu o năm xưa
(“Màu kỷ niệm”, Phạm Đình Chương)
Hay trên những tiền đồn heo hút miền địa đầu giới tuyến.
Anh ở đồn biên giới / thương về một khung trời
(“Niềm tin”, Anh Linh & Nhất Tuấn)
Khung trời nào đây, nếu không phải là thành phố ấy, thành phố
cao nguyên đầy mây trắng và sương mù. Câu hát làm nhớ câu thơ của “người lính”
Vũ Thành.
“Nơi em về có gì vui
Nơi anh đồn trú suốt đời mây bay”
“Suốt đời mây bay” nên quên cả ngày tháng, quên cả bốn mùa,
cho đến lúc trông thấy những nụ mai vàng mới nở nơi bìa rừng mới biết rằng… mùa
xuân đang về.
Đồn anh đóng ven rừng mai
Nếu mai không nở / anh đâu biết xuân về hay chưa
(“Đồn vắng chiều xuân”, Trần Thiện Thanh)
Giữa đêm giao mùa, giữa
phiên gác đêm, giữa tiếng súng xa vang rền, người lính mơ về những ngày xuân êm
đềm.
X c hoa tàn rơi trên b ng súng
ngỡ rằng pháo tung bay / ngờ đâu hoa l rơi
(“Phiên gác đêm xuân”, Nguyễn Văn Đông)
Rồi đây, khi m a dứt chiến chinh / gió dâng khúc đàn thanh
bình, (6) là khi người chiến binh “giã từ vũ khí”, tìm về bên người yêu
dấu để tay trong tay đi xây lại chuyện tình và nối lại những giấc mơ chưa tròn.
Nếu một mai khi hòa bình
anh sẽ trở về như giấc mơ
cho từng ngón tay đan lại ái ân ngọt mềm
Từng đêm không còn tiếng súng
Ngủ đi em / ngủ cho yên
(“Lời cho người yêu nhỏ”, Trần Thiện Thanh)
Anh sẽ trở về như giấc mơ, câu hát thật
là đẹp! Giấc mơ ấy cũng thật là đẹp. Đêm không còn tiếng súng, quê mình
thôi hết chiến tranh, giấc mơ ấy không chỉ riêng của người lính mà của triệu
triệu người Việt, của cả một dân tộc khao khát tự do, mơ ước thanh bình sau bao
năm dài dằng dặc quê hương chìm ngập trong khói lửa chiến tranh.
ai đây núi sông yên vui
anh xong nhiệm vụ người trai
sẽ sống với em cuộc đời
hạnh phúc trong gió tự do muôn nơi
Em yêu, đợi chờ em ơi ...
(“Lá thư người chiến sĩ”, Phạm Đình Chương)
Em yêu, đợi chờ
em ơi ... Câu hát ấy, lời nhắn nhủ ấy nghe thiết tha đến chạnh lòng!
Như người mẹ già ngày ngày tựa cửa ngóng tin con, “người chinh phụ” đời nay vẫn
năm chờ tháng đợi mỏi mòn.
Người lính vẫn hẹn một ngày về, người vợ hiền ở miền quê xa
xôi–như bao người vợ hiền thuở ấy–vẫn cứ đợi chờ, đợi chờ mãi trong giấc mơ
ngày nào người lính trở về.
4. Màu cờ còn tươi, tình yêu còn thắm
Lòng yêu nước thương dân, tinh thần hy sinh gian khổ và chiến
đấu anh dũng vì lý tưởng tự do và sự sống còn của đất nước trong những hoàn cảnh
nghiệt ngã nhất, là những nét chính khắc họa nên hình tượng người lính Việt Nam
Cộng Hòa.
Chiến tranh đã đi qua nhưng những khúc hát về người lính quả
cảm từng cầm súng chiến đấu dưới màu cờ tổ quốc để bảo vệ từng tấc đất quê
hương, mỗi lần nghe lại vẫn nghe dậy lên niềm kiêu hãnh, nỗi tự hào về một
thiên anh hùng ca của dân tộc.
Những lời ca tiếng nhạc ấy, “bản trường ca về người lính” ấy,
hơn lúc nào hết trỗi dậy trong tôi vào một ngày thật khó quên, ngày tôi được gặp
lại lá cờ tôi yêu, gặp lại những người lính năm xưa “chiến trường đi chẳng tiếc
đời xanh”.
Những người lính năm xưa ấy, một số đã lìa đời, một số tóc đã
điểm sương hay đã bạc trắng mái đầu, tôi vẫn gặp đâu đó, vẫn sống lặng lẽ đâu
đó quanh đây trong buổi hoàng hôn của đời người.
Những người lính “một
thời ngang dọc” ấy, những người lính “nợ nước vai mang” ấy, từng phụng sự cho
những lý tưởng cao đẹp, từng trải những vinh quang và nhục nhằn của một thời kỳ
bi tráng nhất trong lịch sử dân tộc.
Những người lính ấy hẳn phải có trái tim rất lớn.
Sau những vẻ mặt lặng yên, tưởng như bình thản ấy, là những
tơi bời của lửa đạn đã im tiếng, là những giông bão của lịch sử đã lắng chìm.
Những người lính cũ tôi gặp lại hôm nay, lòng vẫn hướng về quê hương tội tình,
vẫn nhớ về những “mảnh đất chiến trường xưa” của một thời binh lửa, vẫn ngậm
ngùi một nỗi tiếc thương những đồng đội đi mãi không về.
Hơn bao giờ hết, tôi nhận r một điều, những người cựu chiến
binh ấy, những “người lính già” ấy “không bao giờ chết, họ chỉ nhạt mờ đi
thôi”. Những người lính dũng cảm của một quân lực dũng cảm vẫn đang sống và còn
sống mãi trong tâm tưởng người đời, như ngọn lửa vĩnh cửu vẫn tỏa sáng trên những
đài tưởng niệm chiến sĩ anh hùng, như ngọn cờ màu vàng tươi vẫn bay ngờm ngợp
trong nắng, trong gió giữa trời tự do.
Lá cờ phơi phới như mang theo niềm tin yêu mới.
Tôi hiểu được vì sao tôi vẫn gặp những người cựu chiến binh ấy
trong những lễ chào quốc kỳ. Tình yêu của họ dành cho lá cờ ấy vẫn còn nguyên vẹn,
vẫn không hề nhạt phai.
Ngước mắt trông theo lá cờ ấy, tôi vẫn còn trông thấy muôn
bóng quân Nam chập chùng, vẫn còn trông thấy thấp thoáng trong mây
những anh hùng tử sĩ, những chiến sĩ vô danh.
Ngước mắt trông theo lá cờ ấy, tôi vẫn còn trông thấy tình
yêu của biết bao người, những người tôi thương tôi yêu và tôi ngưỡng phục. Những
người đã dám sống và dám chết cho màu cờ ấy. Những người đã nằm xuống để giữ
cho tình yêu ấy còn nguyên vẹn màu cờ.
Tình yêu ấy không mất đi, như lá cờ ấy không mất đi. Tình yêu
ấy còn sống mãi, như lá cờ ấy còn sống mãi, còn bay bay mãi trong nắng sớm,
trong gió chiều.
Ôi những đoàn quân ra đi, ôi bao chiến sĩ hiên ngang đã hiến
thân dưới cờ để giữ cho màu cờ ấy còn tươi mãi, cho tình yêu ấy còn thắm
mãi.
Những trang sử Việt đời đời còn ghi mãi những chiến tích vẻ
vang, những chiến công lừng lẫy một thời của biết bao người lính đã chiến đấu
can trường, đã hiến dâng đời mình và cả máu xương mình cho tình yêu đất nước.
Nguồn sử xanh âm thầm vẫn sống Bao mối thương vang động trong
lòng (7)
__________________
(1) Lục quân Việt Nam, nhạc Văn Giảng &
Hương Việt
(2) Nếu một mai anh biệt kinh kỳ,
nhạc Minh Kỳ & Hoài Linh
(3) Chinh phụ ngâm khúc, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị
Ðiểm
(4) Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Trãi
(5) Tống biệt hành, thơ Thâm Tâm
(6) Tạ từ, nhạc Tô Vũ
(7) Hòn vọng phu III (Người chinh phu về),
nhạc Lê Thương