Nguyễn Hiền,
nhạc, thơ tràn muôn lối
Anh
cho em mùa xuân
nhạc,
thơ tràn muôn lối
(Nguyễn
Hiền & Kim Tuấn)
“Hôm ấy là ngày mùng 5 Tết năm 1962, tôi đến sở làm trong lúc
đất trời vẫn còn hương vị Tết. Một người bạn rủ ra ngoài ăn sáng, lúc trở về,
thấy trên bàn giấy có một tập thơ mỏng, tôi bèn lật qua xem thử thì gặp bài thơ
năm chữ ‘Nụ hoa vàng ngày xuân’. Ðọc qua thấy hay hay và đang lúc trong lòng
còn hưng phấn với không khí xuân tràn trề, tôi nảy ra ý định phổ nhạc bài thơ ấy.
Giấy nhạc không có sẵn, tôi phải kẻ khuôn nhạc bằng tay, và chỉ độ một vài tiếng
là xong bài nhạc. Xong, tôi cất vào ngăn k o bàn làm việc.
Sáng hôm sau có anh chàng trẻ tuổi đến tìm tôi, tự giới thiệu
tên mình và cho biết, ‘Hôm qua em có đến tìm anh để biếu anh tập thơ bốn mươi
bài, nhưng không gặp được anh.’ Tôi nói, ‘Hóa ra anh là tác giả bài thơ xuân ấy!
Tôi vừa mới phổ nhạc bài thơ của anh xong.’ Anh ta ngạc nhiên và rất vui khi
tôi lấy bài nhạc trong ngăn k o ra và… hát cho anh ta nghe. Tôi lấy câu đầu của
bài thơ đặt tên cho bài nhạc, ‘Anh cho em mùa xuân’...”
Người kể câu chuyện trên là nhạc sĩ Nguyễn Hiền. “Anh chàng
trẻ tuổi” trong câu chuyện ấy là nhà thơ Kim Tuấn.
Câu chuyện từng được nhạc sĩ Nguyễn Hiền kể không ít lần ở
nơi này nơi khác, với người này người khác, những người muốn biết bài nhạc “Anh
cho em mùa xuân” được ra đời như thế nào.
Sau mỗi lần kể ấy ông đều kết luận, “Chuyện gì cũng có cái
‘duyên’ trong cuộc đời này.” Ông nói vậy và ông tin như vậy. Ông đã tin như vậy
trong suốt cuộc đời mình.
Trăng quê người, trăng quê mình
Cái “duyên” mà nhạc sĩ Nguyễn Hiền nói đến trong câu chuyện ấy
là gì, nếu không phải là mối duyên cho ông “gặp” được bài thơ ấy và tác giả bài
thơ ấy.
Nếu không có mối duyên ấy thì “Nụ hoa vàng ngày xuân” dẫu có
là bài thơ hay vẫn chỉ là bài thơ nằm im lìm trong những trang thơ.
Nếu không có mối duyên ấy thì sẽ không có “Anh cho em mùa xuân”,
một trong những bài nhạc xuân hay nhất của người Việt.
Nếu không có mối duyên ấy thì chàng trai trẻ trong câu chuyện
trên, tác giả “Nụ hoa vàng ngày xuân”, chắc sẽ không được nhiều nhạc sĩ tìm đến
thơ chàng để phổ nhạc (để mong có thêm được một “Anh cho em mùa xuân” khác).
Thế nhưng, “Anh cho em mùa xuân” có thực sự là một trong những
bài nhạc xuân hay nhất? Hầu như trước giờ chúng ta chưa từng làm công việc tuyển
chọn những bài hay nhất trong số những bài nhạc xuân; thế nhưng, ở trong nước
thì đã có làm. Tết Ðinh Hợi năm kia, báo chí trong nước (Tuổi Trẻ Online,
10/2/2007) đã tổ chức một cuộc thi gọi là “ Bình chọn ca khúc Xuân hay nhất”.
Cách bình chọn: độc giả chọn ra ca khúc mình yêu thích nhất trong một danh
sách... đã được chọn sẵn gồm 22 bài nhạc xuân. Ba bài có số phiếu bình chọn cao
nhất sẽ đạt danh hiệu “Những Ca Khúc Xuân Hay Nhất”. Trong danh sách ấy có 8
bài của các nhạc sĩ ở miền Nam trước năm 1975 (tất nhiên là không có những bài
chưa được phép phổ biến ở trong nước). Ðiều thú vị, kết quả cuộc bình chọn: ca
khúc đứng đầu trong số ba “ca khúc Xuân hay nhất” là “Anh cho em mùa xuân” của
Nguyễn Hiền, một nhạc sĩ của miền Nam, sống ở nước ngoài, và đã qua đời. (Hai
ca khúc xếp hạng nhì và ba thuộc về các nhạc sĩ ở trong nước).
Trước đó, “Anh cho em mùa xuân” cũng từng góp mặt trong “Tuyển
Tập Những Ca Khúc Hay Nhất Về Mùa Xuân” phát hành ở trong nước (nxb ũi Cà
au, 12/2004).
Người Việt ở ngoài nước hát “Anh cho em mùa xuân”, người Việt
ở trong nước cũng hát “Anh cho em mùa xuân” (và còn bình chọn là “Ca Khúc Xuân
Hay Nhất”).
Không chỉ là một trong những bài nhạc xuân hay nhất, “Anh cho
em mùa xuân” còn là một trong những bài nhạc phổ thơ hay nhất.
Khi làm công việc “lấy thơ gh p nhạc”, nhạc sĩ Nguyễn Hiền đã
không đổi một chữ nào trong ba đoạn thơ đầu của “Nụ hoa vàng ngày xuân” (từ câu
thơ đầu cho đến câu “Mùa xuân này tất cả / lộc non vừa trẩy lá...”). Ông nhớ lại,
“Thật là hứng thú khi tôi lấy ba câu thơ đầu, ‘Anh cho em mùa xuân / nụ hoa
vàng mới nở / chiều đông nào nhung nhớ’...
phổ thành một câu nhạc,
thấy đi rất ‘ngọt’ nên cứ thế mà phát triển bài thơ thành ca khúc.” Ðiều gì khiến
ông phổ nhạc rất “ngọt”, rất nhanh bài thơ ấy? Có phải vì ông “bắt” được “tình
thơ ý nhạc”? Có phải vì ông tìm thấy “trong thơ có nhạc” và ông chỉ làm công việc
ghi xuống những note, những ký hiệu âm thanh trên những dòng kẻ nhạc.
Công việc có vẻ đơn giản ấy (không phải là ai cũng làm được) đã chắp cho thơ
“đôi cánh nhạc”. Nhiều người viết nhạc chỉ mong phổ được một bài thơ như ông,
không chút gượng p, đi rất “ngọt”, đi rất ngon trớn, rất tự nhiên, như nguồn nhạc
hứng dâng trào, như nhạc và thơ chảy tràn như suối...
“Anh cho em mùa xuân” được nhà xuất bản Tinh Hoa ấn hành lần
đầu, được ca sĩ Lệ Thanh trình bày lần đầu qua dĩa nhựa và làn sóng đài phát
thanh Saigon, và cũng gắn liền tên tuổi cô vào “cái thuở ban đầu” của bài nhạc ấy.
Tuy nhiên, nhà thơ Kim Tuấn–trong một bài trả lời phỏng vấn trong nước (báo Thanh
Niên, 22/01/2006)–cho biết là ông “chịu” Hà Thanh hát bài ấy nhất, và muốn
được gửi đến ca sĩ ấy một lời cám ơn... muộn màng.
Trở lại chuyện “mối duyên trong cuộc đời này”, nói như nhạc
sĩ Nguyễn Hiền, tôi chắc nhiều người cũng tin như ông vậy. Nếu không có cái
“duyên” ấy thì dẫu có đi hết cuộc đời mình cũng chẳng ai gặp được ai, hay nếu
có gặp, có “đụng” phải nhau thì cũng lại dạt ra, mỗi người một hướng, mỗi người
một dòng chảy, cũng tựa như những anh chàng, những cô nàng vớ vẩn mà ta có lần
gặp gỡ phất phơ đâu đó trong đời này, nói dăm ba câu chuyện nắng mưa rồi chia
tay đường ai nấy đi, và chẳng bao giờ còn gặp lại lần thứ hai. Không phải chỉ
“duyên” thôi, tôi chắc nhạc sĩ Nguyễn Hiền còn tin cả vào... “duyên số”, hay
“duyên kiếp”, hay “duyên tơ” nữa. Nếu không có mối duyên tơ ấy, làm sao có được
cuộc hạnh ngộ hơn năm mươi năm về trước giữa chàng nghệ sĩ tài hoa và cô cháu
gái xinh đẹp của nhà thơ Tú Mỡ (khiến lòng nàng phải xao xuyến, khiến lòng
chàng phải bâng khuâng “trăm năm biết có duyên gì hay không?”). Nếu không có mối
duyên tơ ấy, làm sao có được “ngày lễ vàng” kỷ niệm 50 năm nên vợ thành chồng.
Trong một lần tiếp xúc với nhạc sĩ Nguyễn Hiền, tôi được nghe
ông nói thêm một chút về điều mà ông gọi là “cái ‘duyên’ trong cuộc đời này”.
“Đúng vào ngày đó giờ đó,” ông nói, “gặp người nào đó ở nơi nào đó, một quán
ăn, quán nước chẳng hạn, không phải là chuyện tình cờ, ngẫu nhiên như ta tưởng
mà mọi việc đều có bàn tay của ai đó sắp đặt. Đấy là bàn tay của định mệnh, hay
là ‘định mệnh đã an bài’.”
Những chuyện như thế từng xảy đến trong cuộc đời tôi, và tôi
thực sự tin vào điều ông nói. Tôi cũng muốn thêm rằng: thứ nhất, những mối
duyên kỳ ngộ ấy có khi dẫn chúng ta đến một lối rẽ khác trong cuộc đời; thứ
hai, đôi lúc có những con người, tuy chỉ gặp một lần thoáng qua trong đời–chẳng
biết có phải duyên hay không duyên–cũng làm ta nhớ mãi nhớ hoài. Những con người
đặc biệt. Cái “đặc biệt” ấy có thể là một vẻ đẹp thu hút, một nhân cách đáng
quý, một câu nói hàm xúc, một hành xử ý nghĩa… Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, tôi vẫn cho
rằng ông là một trong những người “đặc biệt” như thế.
Lần tiếp xúc duy nhất ấy
k o dài không quá... ba mươi phút nên chắc khó có thể gọi là “cái duyên” như
ông nói, nhưng khá thú vị và cũng cho tôi thấy được phần nào tính cách con người
ông; hơn thế nữa, còn gieo vào lòng tôi những cảm xúc sâu đậm. Tôi gặp ông
trong một tiệc cưới ở nhà hàng Dalat Bistro, đường Brookhurst, Nam CA
vào một đêm hè cuối tháng 7/2004. Ông đứng lên từ một bàn tiệc, cúi chào mọi
người khi nghe giới thiệu tên mình trong số “khách đặc biệt”. Một “khách đặc biệt”
khác tôi nhớ được là ca sĩ Ngọc Minh, chị hát một bài gì đó tặng cho đôi tân
hôn... Vào lúc nào đó gần cuối bữa tiệc, đầu óc váng vất vì có uống chút rượu,
tôi đứng dậy, bước ra cửa tìm chút thoáng gió bên ngoài. Trước mặt tôi là khoảng
parking rộng. Một bóng người đứng ở góc khuất. Người ấy quay lại, mỉm cười
khi nhìn thấy tôi. Khi bước lại gần, tôi nhận ra ông, nhạc sĩ Nguyễn Hiền. Ông
đứng đó một mình, hút thuốc (ông tưởng tôi cùng “phe” hút thuốc với ông chắc).
“Anh nói được lắm,” ông ngó tôi, nói, “ngắn gọn, ý nghĩa.” Khi ấy tôi mới hiểu
ra nụ cười của ông. Ông nhận ra tôi, người đại diện hai họ có “đôi lời phát biểu”
cùng khách mời trong tiệc cưới. Tôi nói cám ơn ông (ông không biết những lời ấy
tôi gần như... thuộc lòng vì từng nói đi nói lại nhiều lần) và hân hạnh được biết
ông. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên khi biết tôi từ nơi xa đến để làm chủ hôn cho đứa
cháu sống một thân một mình ở đây... Sau ít câu thăm hỏi xã giao, trong lúc ông
lặng yên nhìn ánh trăng trên ngọn cây, tôi nhắc đến câu hát Trăng s ng soi
liếp dừa trong bài “Anh cho em mùa xuân” của ông. Tôi cũng “tán” thêm là
tôi rất thích những câu hát mang theo hình ảnh hàng dừa, liếp dừa, như là:
Đêm trăng ướt lá
dừa
(“Tình quê hương”, Ðan Thọ & Phan Lạc Tuyên)
Hàng dừa nghiêng thương nhớ
(“Thuở ban đầu”, Phạm Ðình Chương)
Chiều xưa / gió êm lay nhẹ liếp dừa
(“ óng người đi”, Văn Phụng)
Gió mang mùa xuân tới / hôn liếp dừa lên hương
(“Mộng ban đầu”, Hoàng Trọng & Hồ Đình Phương)
“Còn nữa,” ông dụi tắt điếu thuốc. “Mắt xanh là bóng dừa
hoang dại, Phạm Ðình Chương phổ thơ Ðinh Hùng.”
“Hàng dừa mang hình ảnh rất... quê hương Việt Nam,” tôi nói.
“‘Hàng cau’ thì đúng hơn, theo tôi.”
Câu nói của ông làm tôi… “khựng” lại trong giây phút.
“Trăng s ng soi liếp dừa và Trăng lên bằng ngọn cau,”(1)
ông nói. “Hai trăng đều trăng cả, trăng nào ‘quê hương’ hơn?”
Tôi phải chịu là ông nói đúng. “Trăng nào ‘quê hương’ hơn?”…
Tôi chỉ nghĩ đến vẻ đẹp của những hàng dừa, liếp dừa, bóng dừa..., trong lúc
ông luôn cất giấu trong đáy tim hình bóng quê nhà. Ngọn cau, hàng cau, hoa cau,
hương cau…, đấy mới là quê hương. Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, ngay lúc ấy tôi nhận ra
nơi ông một điều, ông yêu quê hương hơn tôi và hơn rất nhiều người khác. Ông
yêu quê hương theo cách của ông.
Tôi cũng ngước nhìn trời. Trăng chưa thật tròn, nhưng thật
sáng. Vầng trăng như vừa xa xôi lại vừa gần gụi. Đêm bỗng trở nên yên tĩnh.
Trong lòng tôi khi ấy bỗng dâng lên một cảm xúc thật kỳ lạ. Tôi có cảm giác tựa
hồ đã lâu lắm, có khi là từ ngày đến Mỹ, lần đầu tiên tôi mới nhìn thấy lại bầu
trời và ánh trăng, và thấy trăng sáng đến như vậy. Bầu trời ấy vẫn có hằng đêm,
vầng trăng ấy còn theo tôi mãi, vậy mà bấy lâu tôi nào có để ý, cứ tưởng rằng
phải đi về một nơi chốn nào xa xôi lắm mới mong tìm gặp.
Bầu trời nào cũng chỉ một bầu trời, vầng trăng nào cũng chỉ một
vầng trăng, vậy mà con người nghệ sĩ tôi mới gặp lần đầu ấy, nhìn trăng viễn xứ
phương này lại mơ về bóng trăng soi phương nào.
Ông rút điếu thuốc khác, chìa gói thuốc về phía tôi. Tôi nói
đã lâu tôi không hút lại, nhưng nếu ông mời tôi xin hút với ông một điếu cho
vui. Trong những câu hát, câu thơ về “hàng cau” ông kể ra sau đó, tôi nhớ đại
khái ... Thương về mái tranh nghèo bên hàng cau (“Nhớ bến Ðà giang”, Văn
Phụng & Chiêu Tranh) và... Bóng tre ru bên mấy hàng cau, đồng quê
mơ màng (“Làng tôi”, Chung Quân). Nhất thời tôi không nhớ được bài nào, câu
nào để góp chuyện với ông, thế nhưng khi nghe ông đọc câu thơ Hàn Mặc Tử, “Sao
anh không về chơi thôn Vỹ / Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên”, tôi buột
miệng nói tôi biết một bài hát cũng nói đến “hàng cau” mà tôi rất thích, có thể
là ông quên, vì đã lâu lắm rồi.
“ Bài gì?” ông hỏi.
“‘Người em nhỏ’ của... Nguyễn Hiền,” tôi trả lời, hát khe khẽ,
“Ngày tôi đi
vàng nắng nghiêng nghiêng một hàng
cau
Mai ta về quê cũ
gửi lời về thương nhau”
“Làm sao mà quên được,” ông nói, sau vài giây im lặng, hạ thấp
giọng, như người nói một mình.
Tôi hiểu. Không ai quên được mối tình đầu. Bài nhạc đầu tay ấy
(của chàng trai 18 tuổi ấy), cũng tựa như mối tình đầu trong âm nhạc của Nguyễn
Hiền.
Tôi nhớ đã nói với ông, không phải chỉ riêng ông mà rất nhiều
người, trong số ấy có tôi, khó mà quên được “Người em nhỏ” (ông phổ từ thơ một
người bạn văn nghệ, Nguyễn Thiệu Giang). Đã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, mỗi
lần nghe lại câu hát ngày xưa ấy, những cảm xúc ở trong tôi vẫn còn nguyên vẹn,
như ở “thuở ban đầu” của bài hát qua giọng hát ấm áp của Ngọc Long.
Chiều nay buồn viễn xứ
nhớ người em g i xưa
Tôi thấy phương trời cũ
giăng giăng một hàng mưa
Và giờ đây, trong cuộc sống nổi trôi nơi xứ lạ quê người, tôi
chắc không ai nghe câu hát ấy mà không khỏi chạnh lòng. Trong một thoáng, tôi
hiểu được vì sao lâu nay tôi, và rất nhiều người, vẫn yêu thích nhạc của ông.
Thật dễ hiểu, trong những bài nhạc ấy tình yêu đôi lứa quyện lấy tình yêu quê
hương, đất nước.
Có một khoảng yên lặng giữa chúng tôi lúc ấy. Sau đó, có vẻ
như không muốn nói thêm về bài hát cũ ấy, ông trở lại chuyện “hàng dừa, hàng
cau” và nhắc đến câu hát trong bài “Lá thư gửi mẹ”, ông phổ từ bài thơ năm chữ của
Thái Thủy.
Con về tầm đẹp lứa / Mẹ cười vun khóm dâu
Mái tranh chiều vươn khói / Vườn thơm ng t hương cau
Những chuyện trò giữa ông và tôi là những câu chuyện lan man,
không đầu không đuôi, nhảy lung tung từ chuyện này sang chuyện nọ và... không
chuyện gì ra chuyện gì. Qua lối nói chuyện của ông và qua những lời ông nói,
tôi có cảm giác ông rất thành thực; và hơn thế nữa, rất thẳng thắn, theo cái
nghĩa chuyện gì biết thì ông nói biết, chuyện gì không biết thì ông nói không
biết. Tôi cũng để ý ông có lối nói chuyện thật chậm rãi, thật từ tốn, với một
giọng trầm trầm. Ông cũng tỏ ra chăm chú lắng nghe người đối thoại. Thật không
dễ gì đoán biết được một người biết chế ngự những cảm xúc như ông đang nghĩ gì
trong đầu. Ở nơi ông như toát ra một phong thái điềm tĩnh, một dáng vẻ trầm mặc
của người đang chìm đắm trong suy tưởng.
Tôi rất “chịu” những bài phổ thơ năm chữ của ông, tôi nhớ đã
nói với ông như vậy. Có một lúc, nhắc đến bài “Anh cho em mùa xuân”, tôi hỏi
ông về một “giai thoại” tôi nghe được từ... trước năm 1975: có đúng là ông đã đổi
một chữ trong câu thơ của Kim Tuấn, câu “Trong nắng vàng ban mai” thành ra “Rung
nắng vàng ban mai”, khiến tác giả bài thơ phải “khẩu phục, tâm phục”(?).
Ông mỉm cười, trả lời “Đúng mà không đúng”, và giải thích: đúng là ông đã đổi
ra thành Rung nắng vàng ban mai thật, nhưng câu thơ Kim Tuấn là “Nắng
vàng trên ngọn cây” chứ không phải “Trong nắng vàng ban mai”. Tôi nói dù đúng,
sai thế nào tôi cũng rất thán phục tài dùng chữ của ông, vì thật khó mà tìm ra
được chữ nào hay hơn chữ “rung” để đi với “xao xuyến” trong câu hát ấy.
Bài thơ còn xao xuyến
rung nắng vàng ban mai
Chữ “rung” ấy nghe mới “xao xuyến”, và mới “thơ” làm sao!
Chữ “rung” ấy được ông sử dụng không phải chỉ một lần.
Tìm đâu bàn tay che mái tóc huyền rung tơ mềm
“Trong bản nhạc ‘Tìm
đâu’ ấn hành lần đầu,” tôi nói, “chữ ‘rung’ đã bị in nhầm là ‘nung’.”
“Đúng thế,” ông tỏ ra ngạc nhiên tôi còn nhớ được chi tiết ấy.
“Cũng may là ca sĩ đã... tự điều chỉnh.”
Ông rút điếu thuốc khác. Tôi để ý thấy ông đốt thuốc hai lần
trong câu chuyện.
“Trong bài ‘Anh cho em mùa xuân’ có một câu tôi thích nhất,”
tôi nói, và ngừng một chút…, chờ ông hỏi “Câu nào?” Thế nhưng ông chưa kịp hỏi
và tôi chưa kịp nói thêm thì người nào đó từ trong nhà hàng bước ra tìm tôi,
nói có người cần gặp... Tôi xin lỗi ông, nói rất tiếc phải tạm ngưng câu chuyện.
Ông nói chờ một chút, và lấy từ trong ví ra tấm business card trao cho
tôi, nói lúc nào tiện gọi phone nói chuyện cho vui. Tôi trở vào. Lúc
cánh cửa vừa khép lại, tôi quay nhìn, thấy ông vẫn đứng đó, lặng lẽ như một cái
bóng. Chắc ông muốn hút cho xong điếu thuốc, tôi nghĩ. Và đấy là hình ảnh sau
cùng tôi còn giữ được về ông.
Tấm danh thiếp, gần như đấy là “kỷ vật” duy nhất tôi còn giữ
được của ông, trên đó tôi đọc thấy hàng chữ:
Hien Nguyen
Cultural Arts Commissioner
Tôi tưởng như một ông Hiền Nguyễn nào khác, không phải là nhạc
sĩ Nguyễn Hiền của “Anh cho em mùa xuân”, không phải là nhạc sĩ Nguyễn Hiền đứng
cạnh tôi giữa đêm trăng ấy.
“Bầy chim lùa vạt
nắng”
Đúng ra, tôi còn cuộc tiếp xúc khác với ông sau lần gặp ấy.
Tôi gọi phone đến ông vào một chiều cuối tuần để “nói chuyện cho vui”
như lời ông dặn (và nhận ra bốn con số cuối của số phone ông, 1496,
trùng với số phone nhà của tôi). Tiếc một điều, lần tiếp xúc này lại còn
ngắn hơn cả lần trước vì chỉ kéo dài có... một vài phút. Ông nhận ngay ra giọng
tôi khi tôi chưa kịp nói tên mình. Nghe giọng ông có vẻ vui. Sau ít câu thăm hỏi,
tôi hỏi ông có bận gì vào lúc ấy không, ông nói đang sửa soạn đi dự... đám cưới.
(Lại đám cưới, tôi chắc ông phải mất khá nhiều thì giờ cho những đám cưới vào
cuối tuần vì những mối giao tiếp bạn bè, công việc). Tuy vậy, ông cũng nói được
với tôi dăm ba câu cho đến lúc tôi xin gác máy để ông đi công chuyện. Ông nói sẽ
gọi lại tôi sau và có chuyện vui vui muốn kể tôi nghe. Tôi không đoán ra được
chuyện gì. Ít hôm sau ông gọi lại cho tôi thật và chỉ để lại... số phone của
ông trên caller ID, vì tôi vắng nhà.
Sau đó ít lâu tôi “thấy” ông xuất hiện trên sân khấu Paris
By Night (trong chương trình ca nhạc mang tên một nhạc phẩm quen thuộc của
ông, “Hoa bướm ngày xưa”), trả lời ít câu hỏi nhiều người muốn biết từ người dẫn
chương trình, và đệm đàn cho ca sĩ Lệ Thu hát “Mái tóc dạ hương”–một bài ông phổ
thơ Đinh Hùng–đưa người nghe về lại một mùa nào “hoa bướm ngày xưa”.
Một trong những bài nhạc
tiêu biểu của Nguyễn Hiền được giới thiệu trong chương trình ấy là “Anh cho em
mùa xuân”. Giọng hát, cách thể hiện của cô ca sĩ trẻ và giàn nhạc làm tôi thêm
nhớ cái “thuở ban đầu” của bài nhạc ấy. Ít nhất đã có hai thế hệ hát “Anh cho
em mùa xuân”. Các ca sĩ và ban nhạc của thế hệ thứ hai (ở trong và ngoài nước)
có khuynh hướng thay đổi tiết tấu của bài nhạc ấy bằng nhịp điệu nhanh, mạnh,
sôi nổi, như muốn làm rộn ràng hơn không khí mùa xuân. Việc “cải biên” này
cũng… tốt thôi, và cũng phù hợp với “phong cách trình diễn” trẻ trung, sống động
hiện đại, tuy rằng bài nhạc, với âm giai La trưởng và nhịp điệu Tango
Habanera dìu dặt, cũng đủ để mang về mùa xuân (mà không cần phải “đánh
nhanh, đánh mạnh” bằng điệu nhạc kích động để... mừng đón xuân về). Việc thay đổi
tiết tấu và cách trình diễn ấy có phần nào đánh mất khí hậu của bài hát là vẻ lắng
đọng của đất trời vừa mới sang xuân, pha lẫn chút thi vị ngọt ngào của bài
thơ còn xao xuyến, thể hiện qua từng lời thơ và từng nốt láy mềm mại ở cuối
những câu nhạc. Mùa xuân của “Anh cho em mùa xuân” là xuân của đất trời phút
giao mùa, là xuân mới của lộc non vừa trẩy lá, là vẻ e ấp của nụ hoa
vàng mới nở. Trong cái nắng sớm của ngày đầu xuân có chút se se lạnh của
chiều cuối đông còn rớt lại, có chút vấn vương của chiều đông nào nhung nhớ,
có chút hơi hướng của đông tàn, xuân mới vừa sang.
Đôi lúc việc thay đổi hoặc hát sai lời nhạc cũng làm giảm phần
nào cái đẹp và độ truyền cảm của bài nhạc gửi đến người nghe.
Đường lao xao lá đầy / Chân bước mòn vỉa phố
Mắt buồn vin ngọn cây
(Không phải là “Mắt buồn nhìn ngọn cây” hay “Mắt
buồn vương ngọn cây”)
Chữ “vin” ấy nghe rất “mới” và rất thơ. Những chữ “lao xao”
và “mòn” ấy nghe cũng rất thơ.
Hai câu hát trong bài được ca sĩ… hát sai nhiều nhất:
Đất mẹ gầy có lúa
Đồng ta xanh mấy mùa
Câu thứ nhất, Đất mẹ gầy có lúa, là ước mơ đơn sơ của
tác giả bài thơ gửi về quê mẹ Hà Tĩnh (vùng “đất cày lên sỏi đá”), được nhiều
ca sĩ đổi thành Đất mẹ gầy cỏ lúa, hoặc Đất mẹ gầy cỏ úa,
hoặc Đất mẹ... đầy cỏ lúa!
Câu thứ hai, Đồng ta xanh mấy mùa, ước mơ khác của nhà
thơ, được nhiều ca sĩ đổi thành Đồng xa xanh mấy mùa, hoặc... Đồng
xanh xa mấy mùa!
“Trong bài ‘Anh cho em mùa xuân’ có một câu tôi thích nhất,”
tôi nhớ đã nói với nhạc sĩ Nguyễn Hiền như vậy. Có thể là ông cũng muốn nghe,
muốn biết, nhưng tôi lại chưa có dịp nào (nay thì không còn dịp nào) để bộc lộ
với ông.
Bầy chim lùa vạt nắng
trong khói chiều chơi vơi
Bầy chim lùa vạt nắng , câu hát tôi thích nhất
trong bài hát ấy. “Lùa vạt nắng”, tôi chưa nghe ai nói thế bao giờ. Chữ “lùa” ấy
rất mới, rất đẹp, rất thơ. Làm sao mà ông lại có thể nghĩ ra được cái chữ tài
tình đến như vậy? Làm sao mà ông lại dùng chữ ấy chứ không phải là chữ nào
khác? (Bầy chim đùa vạt nắng chẳng hạn, như thế cũng là hay,
nhưng không thể hay bằng “... lùa vạt nắng”). Ngày ấy chưa ai viết những lời
như thế trong thơ, trong nhạc. Mãi về sau này ta mới nghe Lùa nắng cho buồn
vào tóc em (“Nắng thủy tinh”, Trịnh Công Sơn).
Điều thú vị, câu ấy không phải là câu thơ Kim Tuấn trong “Nụ
hoa vàng ngày xuân”, mà là thơ... Nguyễn Hiền.
“Con chim mừng ríu rít” trong bài thơ được ông đổi ra thành Bầy
chim lùa vạt nắng, để tương ứng với những nốt nhạc thấp cao, trầm bổng, vừa
giữ được ý thơ (vẫn “nghe” được tiếng chim “ríu rít” mừng vui), vừa “thơ” hơn
và giàu hình ảnh hơn.
Tôi yêu câu thơ “Mắt buồn vin ngọn cây” của Kim Tuấn và tôi
yêu câu hát Bầy chim lùa vạt nắng của Nguyễn Hiền. Câu thơ ấy rất “Kim
Tuấn”, câu hát ấy rất “Nguyễn Hiền”. Tôi cũng yêu lối sử dụng những động từ
“vin” và “lùa” trong kho tàng tiếng Việt ấy.
Nhạc chan hòa đây đó , câu hát ấy không thấy
trong thơ Kim Tuấn. Hơn thế nữa, Nhạc, thơ tràn muôn lối , câu hát cuối
của bài hát ấy cũng không thấy trong thơ Kim Tuấn. Trong bài thơ “Nụ hoa vàng
ngày xuân” không có câu nào nói đến “nhạc” cả. Vậy thì những câu ấy ở đâu ra, nếu
không phải là… thơ của Nguyễn Hiền. Trong nhạc có thơ, trong thơ có nhạc. Nhạc
quyện vào thơ, thơ quấn lấy nhạc. Nhạc thơ, thơ nhạc đã hòa làm một.
Anh cho em mùa xuân / Nhạc, thơ tràn muôn lối...
Câu kết ở phần coda ấy là một “biệt lệ” (hiếm khi được
sử dụng trong nhạc thuật của ông) trong số những bài nhạc vẫn được ông soạn
theo khuôn mẫu “cổ điển” với cấu trúc khá cân phương. Những chuỗi nốt nhạc rải
đều và nốt ngân cuối rướn cao như bay lên cùng mùa xuân và tan loãng trong
không, vẽ nên một nét nhạc đẹp. Cái hay của phần coda ấy là cái hay của
một kết thúc đẹp, tròn đầy, gói trọn tình ý của bài nhạc.
Việc ông không thay đổi câu, chữ nào suốt khổ thơ đầu của “Nụ
hoa vàng ngày xuân” làm nhớ tới những bài thơ ngũ ngôn khác từng được các nhạc
sĩ khác phổ thành ca khúc cũng rất là “ngọt”. Hoặc, giữ nguyên vẹn bài thơ, như
“Tiếng thu”, nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ bài thơ cùng tên của Lưu Trọng Lư. Hoặc,
chỉ đổi có... một chữ trong toàn bài thơ, như “Chiều”, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước
phổ từ “Màu cây trong khói” của Hồ Dzếnh (chỉ đổi câu thơ cuối “Khói xanh bay
lên cây” thành “Khói huyền bay lên cây”).
Sau câu thơ “Lộc non vừa trẩy lá”, những câu nào không giữ
nguyên được thì nhạc sĩ Nguyễn Hiền bèn thay đổi chút ít, trong lúc vẫn giữ ý
chính của câu thơ. Lạ một điều, những câu ông đổi nghe rất thơ, và có phần...
thơ hơn cả bài thơ. Chẳng hạn:
“Con chim mừng ríu rít” đổi thành Bầy chim lùa vạt nắng
“Ngoài đê diều thẳng cánh” đổi thành Ngoài đê diều căng
gió
“Câu hát hò vẳng đưa” đổi thành Thoảng câu hò đôi lứa
“Trẻ đùa vui nơi nơi” đổi thành Trẻ nô đ a khắp trời
“Nắng vàng trên ngọn cây” đổi thành Rung nắng vàng ban mai
Người nhạc sĩ đã “làm mới” thơ, đã làm thơ “thơ” thêm một lần
nữa.
Tâm hồn nhạc sĩ Nguyễn Hiền vốn nhạy bén với thơ, dễ bắt được
những tần số rung động của thơ. Ông đã “nâng” thơ lên, đã chắp cho thơ “đôi
cánh nhạc”, đã tặng thêm cho bài thơ một đời sống khác. Ngôn ngữ nhạc quyện lấy
ngôn ngữ thơ, khiến thơ bay lên, nhạc cũng bay lên. “Nụ hoa vàng ngày xuân” đã
bước ra khỏi những trang thơ để hóa thành một trong những bài nhạc xuân hay nhất.
Nếu được ph p “bình chọn ca khúc Xuân hay nhất” cho riêng
mình, “Anh cho em mùa xuân” chắc chắn là một trong vài bài nhạc xuân tôi yêu nhất
và luôn muốn được nghe đi nghe lại. Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao
nhiêu vật đổi sao dời, bài nhạc xuân ấy nghe vẫn cứ “mới”, như mùa xuân vẫn “mới”,
như những “nụ hoa vàng” vẫn nở trong nắng “mới” của một ngày đầu xuân.
Sau “Anh cho em mùa xuân”, ta còn có thêm những bài phổ thơ
Kim Tuấn khác của các nhạc sĩ khác, như “Những bước chân âm thầm” của Y Vân,
“Khi tôi về” của Phạm Duy, “Ta ở trời Tây, nhớ trời Đông” của Phạm Ðình Chương,
“Khi xa Saigon” của Lê Uyên Phương... và không ít những ca khúc khác của các nhạc
sĩ trong và ngoài nước. Hai ca khúc phổ biến nhất trong số ấy vẫn là “Anh cho
em mùa xuân” của Nguyễn Hiền và “Những bước chân âm thầm” của Y Vân (phổ từ bài
thơ “Kỷ niệm” của Kim Tuấn).
Tôi yêu thuở ban đầu của “Anh cho em mùa xuân”, như yêu tiếng
hát mềm mại và nũng nịu của Lệ Thanh, như yêu những nốt nhạc luyến láy của chiều
đông nào nhung nhớ, của ngoài đê diều căng gió / thoảng câu hò đôi lứa Tôi
cũng yêu thuở ban đầu của “Những bước chân âm thầm”, như yêu những tiếng hát trầm
ấm của Mai Trường-Trần Ngọc-Hồng Phúc (và của Ban hợp ca Thăng Long sau này),
như yêu vẻ trầm mặc của những rặng thông già lặng câm, như yêu những mối
tình nở muộn và những ngọn đèn thắp mờ bóng đêm. (Làm như có sự gần
gũi nào đó giữa hai bài thơ, giữa hai bài nhạc, giữa chân bước mòn vỉa phố và
từng bước, từng bước thầm...). Đó là những tiếng hát của một mùa kỷ niệm.
Đó là thời kỳ của những tiếng hát thực sự là những tiếng hát, chưa có những phô
diễn kỹ thuật và cũng chưa có những hòa âm phối khí tân kỳ.
Ðến nay thì cả Y Vân, Kim Tuấn và Nguyễn Hiền đều lần lượt đã
ra người thiên cổ (và cả Phạm Đình Chương, Lê Uyên Phương... nữa cũng đã ra người
thiên cổ), thế nhưng những khúc nhạc đẹp tựa bài thơ ấy sẽ còn đọng lại mãi
trong lòng người.
“Nhớ nhau khi
mây vương vương mầu tím...”
Không phải chỉ những ca khúc phổ thơ của Nguyễn Hiền mới là
những ca khúc “đẹp tựa bài thơ”. Có thể nói, những người yêu cái đẹp cũng sẽ dễ
dàng yêu những khúc nhạc êm êm, lâng lâng, yêu những khúc hát êm đềm, ngọt ngào
và đầy thi vị của người nhạc sĩ ấy. Những khúc hát đẹp và buồn như một nỗi tiếc
thương...
Về một hình bóng đã xa khuất, những ngày vui qua mau.
Chiều tím không gian mênh mang niềm nhớ
mây bay năm xưa còn đó / đâu tìm người hẹn hò
(“Ngàn năm mây bay”)
Tìm đâu bàn tay che m i tóc huyền rung tơ mềm
Tìm đâu muôn màu hoa nắng lung linh / vương chân êm
(“Tìm đâu”)
Nơi ấy bao ngày xanh qua / hồn thơ mơ màng qu
yêu những khung trời hoa bướm / với nắng tơ vàng êm
(“Hoa bướm ngày xưa”)
Về một sân trường kỷ niệm và một mùa nào lãng mạn.
a thu nh trăng dõi bên thềm...
nắng loang trên sân trường một m a nào
(“Từ giã thơ ngây”)
Thuở ấy không gian chìm lắng trong mơ
tà o em xanh / mầu mắt ngây thơ...
Tôi đi trong mơ / tìm bóng d ng yêu kiều
m a thu l rơi bên đường thật nhiều
(“Tiếng hát học trò”)
Về một “quê hương khuất bóng hoàng hôn” và những mùa xuân
thanh bình một thuở.
Cho nhớ thương về quê xưa / m a xuân không còn nữa
muôn c nh hoa đào phai úa / lối cũ rơi hững hờ
(“Hoa bướm ngày xưa”)
Âm nhạc Nguyễn Hiền, nói như ca sĩ Quỳnh Giao, “là sự mời gọi
trở về một không gian đã tắt, một thời gian đã lặng”. (Màu tím bên thềm năm
mới, báo Người Việt, 27/12/2005). Nghe nhạc Nguyễn Hiền là nghe những
lắng đọng, là đắm chìm trong một ký ức xa vời, là tìm về những đường xưa lối
không quên. Cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã dạo lên những khúc nhạc êm đềm
để giữ cho những giấc mơ ngọt ngào của chúng ta không bao giờ tắt hẳn.
Có lẽ vì n t nhạc lâng lâng gợi nỗi tiếc nhớ mênh mang ấy, những
bài của Nguyễn Hiền thường được các giọng nữ thể hiện nhiều hơn (mặc dầu ở vài
bài, giọng nam khá phù hợp). Chẳng hạn, “Lá thư gửi mẹ” với Thái Thanh, Khánh
Ngọc, Mỹ Thể, Lệ Thanh, Thái Hiền; “Mái tóc dạ hương” (phổ thơ Đinh Hùng, tựa
ban đầu là “Những phố không đèn”) với Hồng Vân, Lệ Thu, Thanh Lan, Ý Lan; “Anh
cho em mùa xuân” với Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ly, Lệ Thu; “Từ giã thơ ngây” với
Thanh Thúy, Hà Thanh, Xuân Thu, Hoàng Oanh; “Ngàn năm mây bay” với Kim Tước,
Mai Hương, Khánh Hà; “Người em nhỏ” với Lệ Thanh, Mỹ Thể, Mai Hương; “Tiếng hát
học trò” với Lệ Thanh, Thanh Lan, Hoàng Oanh; “Hoa bướm ngày xưa” với Trúc Mai,
Lệ Thu; “Thầm ước” với Thái Thanh, Hoàng Oanh; “Tìm đâu” với Lệ Thanh, Mai
Hương; “Em là vì sao sáng” với Hoàng Oanh, Hà Thanh; “Lá rơi bên thềm” với Kim
Tước, Mỹ Thể; “Hương thề” (phổ thơ Hoàng Ngọc Liên) với Thanh Thúy; “Hai mươi
câu của tuổi trẻ” (phổ thơ Song Hồ) với Lệ Thu; “Tiếng sáo diều” với Quỳnh
Giao; “Ý nhạc chiều” với Kim Tước; “Gửi một cánh chim” với Mai Hương…
Trong số những sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Hiền, ngoài những
bài phổ thơ, có những bài đến từ nguồn cảm hứng qua các tiểu thuyết hoặc phim ảnh
trong nước thời ấy, như “ uồn ga nhỏ” (từ một truyện cùng tên của Thanh Nam) hoặc
“Ngàn năm mây bay”, “Tiếng hát học trò” (từ các tiểu thuyết cùng tên của Văn
Quang, được các đạo diễn Thái Thúc Nha và Hoàng Anh Tuấn thực hiện thành phim).
Đôi lúc ông cũng viết nhạc chung với những người bạn nhạc sĩ
(như “ uồn ga nhỏ”, “Đã mấy thu rồi”, “Từ giã thơ ngây”, “Tiếng hát học trò” viết
chung với Minh Kỳ; “Hoa đào năm trước” viết chung với Lê Dinh; “Về đây anh” viết
chung với Nhật ằng; “Về bến xưa” viết chung với Thiện Huấn; “Tình trăng nước”
viết chung với Y Vân; “ ước chân dĩ vãng” viết chung với Lan Đài…). Có khi ông
viết nhạc, bạn ông viết lời (như những bài “Hoa bướm ngày xưa” và “Thanh bình
ca”, lời của Thanh Nam); có khi ông viết lời, bạn ông viết nhạc (như những bài
“Lá rơi bên thềm” và “Màu tím hoàng hôn”, nhạc của Lê Trọng Nguyễn).
Những người từng quen biết hoặc có dịp gần gũi với nhạc sĩ
Nguyễn Hiền, khi nhắc đến ông, đều bộc lộ sự cảm mến, quý trọng con người nghệ
sĩ tài hoa với kiến thức sâu rộng về âm nhạc đông và tây phương, thể hiện qua mẫu
người mực thước, trầm tĩnh và khiêm tốn; đồng thời, cũng tỏ lòng ngưỡng phục về
những cống hiến của ông đối với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật làm nổi bật bản
sắc của dân tộc, mang lại niềm tự hào cho cộng đồng người Việt.
* * *
“Gặp gỡ để chia phôi
cuộc đời như gió thoảng
còn chút tình trong tôi…”
Quả đúng là “cuộc đời như gió thoảng”, như câu thơ nhạc sĩ
Nguyễn Hiền viết gửi người bạn thiết, nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn (tác giả “Nắng
chiều”, “Sao đêm”, “ ến giang đầu”, “Chiều bên giáo đường”…), một năm sau ngày
bạn ông lặng lẽ “rời bỏ c i thế để an nghỉ trên đỉnh bình yên”. (2)
Ông gọi bạn mình là “một nghệ sĩ tài ba khiêm tốn rất mực”. (2)
Cái danh hiệu ông gán cho người bạn đã khuất, nay có đem… gán
cho ông chắc cũng không sai chút nào.
Nay thì cả ông và nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn đều đã như những
cánh l rơi bên thềm nhà vắng. Những chiếc lá dẫu đã lìa cành, những người
nhạc sĩ dẫu đã ngừng viết nhạc, thế nhưng những khúc nhạc ấy, những khúc nhạc
làm cuộc sống thêm ý nghĩa, vẫn luôn được yêu thích, vẫn được hát lên ở trong
nước ngoài nước, ở mọi nơi mọi chốn.
Nhạc sĩ Nguyễn Hiền, cho đến cả những phút cuối đời, những
phút chênh vênh giữa hai bờ tử sinh, những phút chạm tay vào lằn ranh sống chết,
vẫn bày tỏ nỗi niềm trăn trở và ước mơ về một vận hội mới về trên quê hương. Ngọn
nến leo lét tưởng chừng sắp tắt ấy trong giây phút cuối vẫn còn lóe sáng một niềm
tin.
Tin nhạc sĩ Nguyễn Hiền bị ung thư phổi nặng khá bất ngờ đối
với tôi và nhiều người, và cả… chính ông, vì trước đấy, hầu như không có dấu hiệu
xấu nào cho sức khỏe của ông. Ông qua đời chỉ ít tuần sau khi nhận được tin xấu
ấy, vì bệnh trạng đã ở vào thời kỳ “hết thuốc chữa”.
Tôi nhớ, vào một buổi tối, sau ngày ông mất, lúc đang ngồi ở
bàn computer tôi bỗng nghe một giọng hát cất lên. Chiều tím không
gian mênh mang niềm nhớ... Một bài của Nguyễn Hiền. Người ta đang cho phát
thanh lại một bài nhạc cũ của ông. Tôi ngồi yên lặng một lúc, lắng nghe... Bỗng
dưng tôi cảm thấy thèm hết sức một hơi thuốc. Tôi vẫn để gói thuốc lá trong
ngăn k o bàn làm việc, lâu lâu kéo một điếu khi bè bạn đến chơi. Có khi tôi
quên bẵng đi, khá lâu không đụng tới.
Tôi khẽ mở cửa sau, bước ra ngoài. Trời gây gây lạnh. Đêm tối
yên lặng quá. Tôi nhớ, đó là một đêm cuối năm. Tiếng hát vẫn như quấn lấy chân
tôi. Nhớ nhau khi mây vương vương mầu tím Tôi đốt một điếu thuốc, đứng
nhìn thật lâu vào khoảng không. Cứ mỗi lần hay tin một người quen nào đó vừa mới
qua đời, tôi lại có cảm giác thật hụt hẫng như vừa bước hụt vào khoảng không,
và nhận r được cái vô nghĩa mênh mông đến tột cùng của cuộc sống, của kiếp người.
Liệu có nghĩa gì, khi ai đó tạt ngang qua cuộc đời này, rồi bất ngờ… biến mất
khỏi mặt đất này! Trong bỗng chốc tôi thấy rõ, cuộc sống… không là gì cả. Cuộc
sống nhẹ tênh, như bóng mây qua, như… ngàn năm mây bay, mây vẫn bay.
Bỗng dưng tôi nhớ lại một đêm nào, tôi cũng mở cánh cửa, cũng
bước ra ngoài, và tôi... gặp ông. Tôi quăng điếu thuốc sau khi bập bập vài hơi,
chẳng thấy ngon lành gì cả, và cảm thấy thiếu thiếu một cái gì... Tôi ngước
nhìn trời đêm, và gặp ánh trăng. Trăng chưa tròn, nhưng thật sáng, và trông thật
gần. “Trăng nào ‘quê hương’ hơn?” tôi nhớ câu ông hỏi tôi. Tôi đã không trả lời
dù biết câu trả lời.
Tôi dõi mắt hướng về một ngôi sao xa nhất, khi ẩn khi hiện
trên nền trời đen thẫm, trông xa vẫn thấy lấp lánh như có một linh hồn. Tôi
không biết giờ này ông ở đâu, nhưng tôi tin rằng linh hồn ông–như cụm mây lững
lờ–đã bay về lại quê hương cũ, về lại nơi chốn có những thửa ruộng, có những mảnh
vườn thơm ng t hương cau, có những chiều ngoài đê diều căng gió,
có những đêm trăng s ng soi liếp dừa, có những bầy chim lùa vạt nắng và
có những mùa thu l rơi bên đường thật nhiều...
Tiếng hát vẫn như quấn lấy chân tôi. Ngàn kiếp mây bay
không phai niềm nhớ Tôi bước chậm trở vào, tiếng hát như cũng theo sau. ây
bay năm xưa còn đó / đâu tìm người hẹn hò
Bài hát ấy, “Ngàn năm mây bay” của Nguyễn Hiền, nói như nhà
văn ích Huyền, “là nỗi buồn thật đẹp, thật nhẹ nhàng, thật mênh mang như bức
tranh thủy mạc...” (3) Tại sao lại Ngàn kiếp mây bay không phai niềm nhớ mà
không phải là “ngàn năm mây bay” như cái tựa của bài hát ấy?...
Tôi hiểu, ông đã đổi một
chữ trong câu hát cho tương ứng với nốt nhạc trầm bổng. Tôi tự hỏi và tự trả lời.
Như ông đã đổi ít câu, ít chữ khi phổ nhạc bài thơ “Nụ hoa vàng ngày xuân”.
“Anh cho em tất cả
Tình yêu non nước này
ài thơ còn xao xuyến
Nắng vàng trên ngọn cây”
ài thơ đã làm ông “xao xuyến”. ài thơ ông đọc thấy tình yêu
đôi lứa quyện lấy tình yêu quê hương, đất nước. Tôi hiểu được vì sao ông đã chọn
bài thơ xuân ấy để phổ nhạc.
Người viết bài hát ấy đã đi xa, thế nhưng bài hát ấy, sau bao
nhiêu năm, vẫn còn ở lại, vẫn có một sức sống, vẫn không bao giờ cũ. Như ngàn
năm mây vẫn bay, như đất trời vẫn bốn mùa, như những lứa đôi vẫn yêu nhau, như
những nụ hoa vàng vẫn nở khi đất trời vừa mới sang xuân. Và cuộc sống nhờ thế,
nhờ có những bài xuân ca như thế, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
“Anh cho em mùa xuân”, bài nhạc xuân rất xuân, và rất thơ.
______________________
(1) Kỷ niệm, nhạc Phạm Duy
(2) Vài nét về nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, Nguyễn
Hiền (lời
giới thiệu Tuyển Tập Nhạc Lê Trọng Nguyễn, 6/2005)
(3) Ngàn năm mây bay, Bích Huyền (Câu chuyện
thơ-nhạc,
đài “Tiếng nói Hoa Kỳ”, 22/7/2006)
Xem Tiếp Phần 4 (click)==>Âm Nhạc Của Một Thời Phần 4: Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
Mời đọc trọn bộ (Click)==> Âm Nhạc của Một Thời-Lê Hữu - Phần 1: Hình tượng người lính qua dòng nhạc Việt
Xem Tiếp Phần 4 (click)==>Âm Nhạc Của Một Thời Phần 4: Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
Mời đọc trọn bộ (Click)==> Âm Nhạc của Một Thời-Lê Hữu - Phần 1: Hình tượng người lính qua dòng nhạc Việt
Âm Nhạc Của Môt Thời Phần 2: Đoàn Chuẩn–Từ Linh, Một Mùa Nào Lãng Mạn (Lê Hữu)
Âm Nhạc Của Một Thời Phần 3: Nguyễn Hiền, nhạc, thơ tràn muôn lối
Âm Nhạc Của Một Thời Phần 4: Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
No comments:
Post a Comment