Ai Cứu Huỳnh Tấn Mẫm
Bạch Diện Thư Sinh
CHUYỆN 1:
LÀM
THẾ NÀO PTT NGUYỄN CAO KỲ
ĐÃ
CỨU SINH VIÊN VIỆT CỘNG HUỲNH TẤN MẪM
VÀI
HÀNG LỊCH SỬ ĐỂ HIỂU RÕ ĐỘNG CƠ
Cơ may đưa hai Tướng
Thiệu, Kỳ lên nắm chính quyền
Chính phủ Phan Huy
Quát chấp chính ngày 18 tháng 02 năm 1965.
Cuối tháng 5, đầu
tháng 6, có sự bất đồng lớn giữa Quốc trưởng Phan Khắc Sửu và Thủ tướng Phan
Huy Quát. Cuối cùng ông Phan Huy Quát tuyên bố từ chức, giải tán chính phủ và
giao quyền lãnh đạo đất nước vào tay giới quân nhân một lần nữa.
Ngày 12 tháng 6 năm
1965,Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia do Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu làm Chủ
tịch (coi như Quốc trưởng) và Ủy Ban Hành Pháp Trung
Ương do Thiếu tướng Nguyễn Cao Kỳ làm Chủ tịch (coi như
Thủ tướng) được thành lập.
Ngày 19 tháng 6 năm
1965, Tướng Nguyễn Cao Kỳ ra mắt nội các chiến tranh.
Cuối tháng 2 năm 1966
nổra Biến động Miền Trung. Nguyên do là sự bất hòa giữa Tướng Nguyễn Chánh Thi
và các tướng lãnh khác trong Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, phối hợp với sự chống
đối của Phật giáo miền Trung do TT Thích Trí Quang cầm đầu đã bị Cộng Sản xâm
nhập lèo lái. Họ phát động đấu tranh bạo loạn tại Huế và Đà Nẵng kéo theo cả
một sốquân nhân vô kỉ luật, quyết lật đổ chính quyền của hai ông Thiệu – Kỳ
bằng mọi giá.
Chính phủ trung ương
phải đưa quân ra miền Trung để đối phó tình hình đã trở nên quá tồi tệ. Nhờ
cuộc hành quân này, đến cuối tháng 5 năm 1966, trật tự an ninh được vãn hồi tại
thành phố Đà Nẵng. Hết tháng 6 năm 1966, tình hình tại Huế mới yên.
VNCH đang dần dần đi
vàoổn định.
Cuối tháng 2 năm 1967,
Quốc Hội Lập Hiến soạn thảo xong và biểu quyết chấp thuận bản dự thảo Hiến Pháp
mới còn gọi là Hiến Pháp Đệ Nhị Cộng Hòa.
Ngày 10 tháng 3 năm
1967,Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia duyệt bản dự thảo Hiến pháp lần chót và chấp
thuận. Hiến pháp mới tôn trọng hơn nguyên tắc phân quyền.
Từ đây phải tuân thủ
Hiến pháp cho nên sẽ tiến hành bấu cử Quốc hội Lập pháp và Tổng thống.
Liên danh Thiệu-Kỳ
Cuộc vận động bầu cử
Tổng thống sẽ bắt đầu vào tháng 7 năm 1967. Bên ngoài đã biết cả hai ông Thiệu
và ông Kỳ đều nhất quyết sẽ ra tranh cử chức vị Tổng thống.
Xét về khả năng đắc cử
thì ông Kỳ là Thủ tướng đương nhiệm cho nên nắm được guồng máy chính quyền từ
trung ương xuống tới xã ấp toàn quốc, đồng thời được nhóm tướng tá trẻ đang nắm
giữ những vị trí quyền lực then chốt ủng hộ. Đang khi đó, ông Thiệu với cá tính
chín chắn, thâm trầm nên được nhiều người cho là đáng tín cẩn hơn, vả lại dân
miền Nam dễ thiên về ông Thiệu là người Phan Rang ở giáp ranh với Lục tỉnh ‘Nam
Kì’ hơn là ông Kỳ là dân gốc ‘Bắc Kì’(1).
Dư luận lúc đó cho là
phía dân sự sẽ có nhiều liên danh ứng cử tổng thống, chẳng hạn như liên danh
Trần Văn Hương, liên danh Trương Đình Du…, nếu bên phía quân nhân, hai ông
Thiệu và Kỳ mỗi người đều ra ứng cử tổng thống thì có thể bị phía dân sự đánh
bại. Để có thể thắng, các tướng lãnh phải tìm cách để chỉ có một liên danh quân
nhân. Giữa lúc dư luận đồn đoán về ưu thế của Tướng Kỳ trong cuộc tranh chấp
này thì đột nhiên sau cuộc họp tướng lãnh vào ngày 30 tháng 6 năm 1967, chỉ một
ngày trước khi hết hạn nộp đơn ứng cử, liên danh Thiệu – Kỳ ra đời. Chẳng những
ông Thiệu không rút lui mà ông Kỳ còn phải đứng Phó trong liên danh của ông
Thiệu. Theo tác giảVõ Long Triều trong hồi kí Cái Mốc Lịch Sử kể lại thì chính
ông Nguyễn Cao Kỳ đã xác nhận với ông trong một bữa cơm tại nhà ông Kỳ ở
Hacienda, Los Angeles, về biến cố này như sau:
‘Moa
cho triệu tập tất cả tướng lãnh về Tổng Tham Mưu họp để bàn về việc của moa và
ông Thiệu cùng tranh cử chức vị Tổng Thống. Mọi việc được sắp xếp trước hết
rồi. Chiều hôm trước anh em thỏa thuận để cho ông Thiệu ra ứng cử với tư cách
tư nhân và dân sự. Có nghĩa là phải giải ngũ để ra ứng cử Tổng Thống. Ðiều này
chắc chắn đã lọt vào tai ông ta rồi. Ngày hôm sau các Tướng Lãnh họp tại Tổng
Tham Mưu, moa ngồi ngoài không tham dự để cho anh em thảo luận không phải ngại
ngùng vì sự có mặt của moa. Mục đích phiên họp là giao quyền Lãnh Ðạo Quốc Gia
lại cho Cao Văn Viên Xử Lý Thường Vụ. Có biên bản đường hoàng. Vì biết trước
kết quả rồi nên Nguyễn Văn Thiệu chần chừ khôngđến, đợi phải có người mời đến
ghi nhận kết quả thì “lủy” mới chịu đến. (tiếng Pháp: Lui có nghĩa là nó,ổng).
Trước mặt moa ông ta nói mà rơm rớm nước mắt, anh em quyết định sao thì ông ta
chịu vậy. Ông ta xin anh em cho phép ở lại với quân đội.’
Cao Văn Viên sắp đọc
biên bản, Kỳ ngang nhiên khoát tay bảo: ‘Không cần, tôi nhường cho anh
Thiệu ứng cử lần này, kỳ sau sẽ đến lượt tôi. Nhưng tôi yêu cầu anh Thiệu phải
duy trì Hội đồng Quân nhân. Mọi quyết định quan trọng yêu cầu anh phải tham
khảo ý kiến của các Tướng Lãnh…’
Thiển nghĩ ông Thiệu
có nằm mơ cũng không thể ngờ rằng ông Kỳ nhường vị trí ứng cử tổng thống cho
ông dễ dàng đến thế, vì vậy bây giờ ông Kỳ có đưa ra bất cứ điều kiện gì thì
ông Thiệu cũng chấp nhận ngay.
Thật ra ông Kỳ còn đưa
ra một điều kiện nữa là Thủ tướng sẽ do ông chọn lựa. (Đó là Thủ tướng Nguyễn Văn Lộc sau này).
Khi kể lại chuyện này,
ông Kỳ không dấu diếm: ‘Điều moa hối hận nhứt trong
đời là nhường quyền ứng cử và chịu đứng phó cho Nguyễn Văn Thiệu’ (2).
Ông Kỳ nói ông ‘hối hận nhất trong đời’ là phải, bởi vì ông đã
đem tình cảm vào để giải quyết chuyện chính trị hệ trọng tầm cỡ quốc gia đại
sự. Khi ông ‘quân tử tầu’ chịu đứng phó cho ông Thiệu, ông đâu có ngờ những
điều kiện ông đưa ra để ‘thủ thế’ sẽ không có cái nào thực hiện được hầu bảo vệ
ông. Bởi vì từ khi đắc cử tổng thống, ông Thiệu đã dựa vào Hiến Pháp mà làm
việc. Trong ‘mọi quyết định quan trọng’ ông không cần hỏi ý‘Hội đồng Quân nhân’
nào cả, và rồi ra sẽ thấy ông Kỳ không đương nhiên được‘đến lượt’ra ứng cử lần
sau. Nếu ông Kỳ muốn ứng cử thì cứ chiếu theo luật pháp mà ứng cử. Còn vị thủ
tướng do ông Kỳ tuyển chọn là Ls.Nguyễn Văn Lộc
thì không thành tích, không đủ tài cán cho nên chỉ tồn tại được một thời gian
ngắn.
Ngày 3 tháng 9 năm
1967, là ngày bầu cử. Có 6 triệu cử tri thì 5 triệu thực sự đi bỏ phiếu, đạt tỉ
lệ 80% . Hai ngày sau, tổng kết số phiếu: liên danh Thiệu – Kỳ đắc cử với 35%
tổng số phiếu, về nhì là liên danh Trương Đình Du được 17% số phiếu.
Rạn nứt lớn
Quyền hạn của một tổng
thống do Hiến pháp quy định đã cho phép ông Thiệu dần dần củng cố đuợc quyền
lực, loại bỏ tay chân của ông Kỳ và khi ở thế mạnh ông ta không ngần ngại chèn
ép ông Kỳ. Cả miền Nam lúc đó biết rõ ràng có sự rạn nứt trầm trọng trong hàng
ngũ lãnh đạo cao nhất.
Sự rạn nứt ấy làm suy
yếu nội lực quốc gia. Theo Ks. Võ Long Triều, nhân vật từng có mối giao hảo đặc
biệt với ông Kỳ, thì đã có tới 2 lần Tướng Kỳ muốn làm đảo chánh lật đổ ông
Thiệu: Một lần sau Tết Mậu Thân 1968, lần thứ hai sau khi Tướng Kỳ tham dự Hòa đàm
Paris trở về (3).
Dĩ nhiên, ông Kỳ đã
không làm được điều ông muốn. Những toan tính loại này chỉ biểu lộ cá tính hay
‘bốc’của ông. Muốn lật ông Thiệu phải coi xem ông có bản lãnh hơn ông Thiệu
không và phe ông có còn mạnh hơn phe ông Thiệu như trước nữa không; vả lại còn
một yếu tố hết sức quan trọng, đó là người Mĩ muốn cái gì và chọn ai để có thể
thực hiện kế hoạch của họ.
Tóm lược bối cảnh lịch
sử trên đây sẽ giúp người đọc hiểu rõ nguyên do câu chuyện đau lòng có liên
quan tới Phong trào Sinh viên đấu tranh xấy ra vào năm 1971. Đó là chuyện ông
Kỳ, vì thù ghét ông Thiệu cho nên muốn lợi dụng bọn sinh viên Việt Cộng để
‘chơi’ ông Thiệu, đã ra tay giải thoát cán bộ thành đoàn Huỳnh Tấn Mẫm và cho
bọn Mẫm dùng Dinh Quốc khách của Phó Tổng thống để làm trụ sở hoạt động chống
phá bầu cử.
PHÓ TỔNG THỐNG NGUYỄN
CAO KỲ
ĐÃ CỨU SINH VIÊN VIỆT
CỘNG HUỲNH TẤN MẪM NHƯ THẾ NÀO
Ngày 20 tháng 6 năm
1971, liên danh Lý Bửu Lâm (khuynh hướng quốc gia) đắc
cử trong cuộc bầu cử Ban chấp hành Tổng Hội Sinh Viên Sài Gòn, đánh bại liên
danh của nhóm sinh viên Việt Cộng, chấm dứt một thời gian dài tổ chức sinh viên
này bị Thành Đoàn khống chế (4).
Bị thất bại trong cuộc
bầu cử Tổng hội SVSG, ngày 28 tháng 7 năm 1971 tại Trụ sở Tổng vụ Thanh niên
Phật tử số 294 đường Công Lý, Thành đoàn chỉ đạo lập ra cái gọi là Ban Chấp
hành lâm thời Tổng Hội Sinh Viên Miền Nam Việt Nam (xưa nay chưa từng có tổ chức này), gồm có Huỳnh Tấn
Mẫm làm Chủ tịch, Tổng thư kí là Nguyễn Thị Yến, Phó Chủ tịch ngoại vụ là Lê
Văn Thuyên (Chủ tịch Tổng hội SV Huế), Phó Chủ tịch Nội vụ là
Phạm Văn Xinh (Chủ tịch Tổng Hội SV Cần Thơ). Lễ
ra mắt tổ chức tại Huế kết thúc bằng một cuộc biểu tình tuần hành phá phách,
chống quân sự học đường, chống bầu cử độc diễn, đòi Mĩ rút về nước, đòi hòa
bình cho VN.
Trong phần trình bầy
sơ lược bối cảnh lịch sử trên đây, chúng ta đã thấy sự rạn nứt trầm trọng giữa
hai ông Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và ông Phó tổng thống Nguyễn Cao Kỳ, đến
nỗi ông Kỳ nuôi ý đồ lật đổ ông Thiệu.
Lẽ tất nhiên Thành
đoàn biết rất rõ sự rạn nứt giữa ông Kỳ và ông Thiệu. Nhất là với sự hiện diện
của Dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận trong
buổi họp bàn chuyện đảo chánh của ông Kỳ tại trại Phi Long(Hồi kí Cái Mốc Lịch Sử của Võ Long Triều. Tập I, kỳ 6) thì
chắc chắn qua ông dân biểu thân Cộng này, Thành đoàn càng biết rõ ông Kỳ thâm
thù ông Thiệu đến đâu, hơn nữa họ còn biết cả những gì ông Kỳ đang âm mưu. Vì
thế Thành đoàn chỉ đạo cho Huỳnh Tấn Mẫm ‘tranh thủ’ ông Kỳ. Họ không gặp khó
khăn gì vì cũng chính dân biểu thân Cộng Hồ Ngọc Nhuận đã giúp cho họ được ông
Kỳ tiếp kiến tại tư dinh trong trại Phi Long. Cuộc tiếp kiến diễn ra vào khoảng
đầu tháng 9 năm 1971. Phái đoàn sinh viên học sinh Việt Cộng do Huỳnh Tấn Mẫm
cầm đầu còn có Nguyễn Thị Yến (Văn khoa), Hạ Đình
Nguyên (Văn khoa), Võ Như Lanh (Vạn
Hạnh), Lê Văn Nuôi (học sinh Cao Thắng) (5), Phạm Văn Xinh và Trần Hoài.
Chắc chắn ông Kỳ đã
từng được báo cáo về các hoạt động phá rối của bọn Huỳnh Tấn Mẫm, cho nên mở
đầu ông hỏi ngay: ‘Các anh chị có phải là Việt Cộng không?’ Mẫm
thấy khó trả lời cho nên y đặt ngược một câu hỏi thăm dò:‘Thưa Phó Tổng thống, theo Phó tổng thống thì chúng tôi có phải là
Việt Cộng không?’ Ông Kỳ hỏi chỉ là để hỏi, ông không cần câu trả
lời. Lúc này đối với ông, bọn Huỳnh Tấn Mẫm là ai không quan trọng cho bằng bọn
chúng có khả năng quậy phá đối thủ của ông là TT. Nguyễn Văn Thiệu.
Thấy ông Kỳ vui vẻ và
không theo đuổi câu hỏi, Huỳnh Thấn Mẫm chớp thời cơ nêu kiến nghị bãi bỏ
Chương trình Quân sự Học đường, viện cớ nay chiến sự đã lùi ra khỏi Thủ đô và
sinh viên cần thời giờ học thi. Chương trình Quân sự Học đường do ông Kỳ thành
lập cho nên ông không chấp nhận bãi bỏ, nhưng để lấy lòng bọn Huỳnh Thấn Mẫm,
ông hứa sẽ cho hoãn quân sự học đường vào mùa Hè là mùa thi cử.
Mặc dù liên danh Lý
Bửu Lâm đã đắc cử Ban Đại Diện Tổng hội SVSG mãi từ ngày 20/6/1971 nhưng ông Kỳ
vẫn rút ra tờ truyền đơn tranh cử của liên danh Lý Bửu Lâm, Lê Khắc Sinh Nhật
và nói ông không ủng hộ liên danh này vì là liên danh thân chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu và không có thực lực bằng bọn Huỳnh Tấn Mẫm cho nên ông vẫn tiếp tục
ủng hộ nhóm Huỳnh Tấn Mẫm.
Biết được thâm ý muốn
lợi dụng của ông Kỳ, Mẫm đưa yêu sách xin ông Kỳ cấp cho bọn họ một trụ sở, bởi
vì trụ sở Tổng hội SVSG số 207 đường Hồng Bàng, Chợ Lớn đã bị Cảnh Sát Quận 5
phong tỏa.
Ông Kỳ bảo ông không
có nhà để cấp cho bọn Mẫm, nhưng ông có thể cho họ mượn một phần trong Dinh
Quốc khách số 4 đường Tú Xương thuộc quyền xử dụng của Phó Tổng thống (ngày nay là Nhà Văn hoá Thiếu nhi thành phố) để họ
dùng làm trụ sở.
Thành đoàn đánh giá họ
đã đạt được thắng lợi trong cuộc gặp gỡ với ông Kỳ. Để chứng tỏ họ có sức mạnh,
2 ngày sau cuộc hội kiến, Thành đoàn chỉ thị cho bọn Mẫm tổ chức một cuộc xuống
đường xô xát mạnh với Cảnh sát Dã chiến trên đường Cường Để. Nghe tin có biểu
tình, ông Kỳ lái trực thăng tới ‘lược trận’. Ngay ngày hôm sau, ông Kỳ giao
Dinh Quốc Khách cho bọn Mẫm, lại còn cung cấp máy đánh chữ, giấy in truyền đơn;
nguy hiểm hơn nữa, theo yêu cầu của họ, ‘nhóm tham mưu của Kỳ’ còn cấp cho họ
cả lựu đạn MK3 để phá các thùng phiếu (lựu đạn MK3 thường được dùng
để huấn luyện, tiếng nổ lớn, không gây sát thương) (6).
Ngày 19 tháng 9 năm
1971, bọn Mẫm phối hợp với Tổng hội SV Vạn Hạnh và Tổng đoàn Học sinh Sài Gòn
tổ chức cuộc biểu tình từ trong khuôn viên Đại học Vạn Hạnh đường Trương Minh
Giảng. Toán xung kích ném lựu đạn MK3 vào địa điểm bầu phiếu, dùng bút lông sửa
các bích chương liên danh ứng cử tổng thống Thiệu – Hương: liên danh ‘1’thành liên danh ‘lì’, ‘dân chủ’ thành ‘dân
chửi’ và ‘Thiệu’ thành ‘Thẹo’. Họ còn đốt vỏ xe, dựng lên
những bàn chông, hình đầu lâu và lựu đạn với hàng chữ cảnh cáo ‘nguy hiểm chết
người không vượt qua’ làm cho giao thông tắc nghẽn.
Để vãn hồi trật tự,
Giám đốc Cảnh sát Đô Thành Trang Sĩ Tấn ra lệnh tấn công vào trường Vạn Hạnh
dẹp tan cuộc biểu tình.
Tuy biết những trò
chơi nguy hiểm của ông Kỳ nhưng vì gần tới ngày bầu cử, phía chính quyền không
muốn gây thêm chuyện với ông. Cảnh Sát chỉ muốn bắt giữ tên đầu xỏ Huỳnh Tấn
Mẫm.
Cuối tháng 9/1971,
Huỳnh Tấn Mẫm tới khách sạn Caravelle đường Tự Do để trả lời phóng vấn đài BBC.
Sau đó Mẫm trở về Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử số 294 đường Công Lí (nay là Nam Kì Khởi Nghĩa). Vì biết đang bị theo
dõi, cho nên vừa về tới Trụ sở Tổng vụ, Mẫm chạy vội lên tầng cao nhất, nhưng
Cảnh Sát đã kịp thời bao vây chung quanh trụ sở. Mẫm đang lúng túng tìm cách
thoát thân thì Ngô Thế Lý, Đoàn trưởng Đoàn sinh viên Phật tử Đà Lạt, tới đưa
Mẫm vào một căn phòng và khoá kín y ở trong đó.
Thấy nguy cho Mẫm,
Nguyễn Thị Yến vội gọi điện thoại cầu cứu dân biểu Hồ Ngọc Nhuận và dân biểu
Kiều Mộng Thu. Ông Nhuận gọi ngay cho Phó Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ xin giúp
giải vây cho Mẫm. Ông Kỳ liền phái 2 sĩ quan cấp tá lái 2 xe ‘jeep’ tức tốc tới
Trụ sở Tổng vụ Thanh niên Phật tử. Hồ Ngọc Nhuận cũng đi xe LaDalat tới. Cảnh
Sát không dám ngăn cản xe quân đội của 2 viên sĩ quan cấp tá và xe của một vị
dân biểu cho nên cả 3 vào được bên trong Trụ sở Tổng vụ.
Hai sĩ quan lên lầu
tìm Mẫm. Ngô Thế Lý mở khoá phòng nơi Mẫm đang trốn. Một sĩ quan khoác vội cho
Mẫm một cái áo nhà binh rồi đưa y và một số sinh viên lên 2 chiếc xe ‘jeep’. Xe
của dân biểu Hồ Ngọc Nhuận che kín làm ‘kế nghi binh’ để nhử Cảnh sát đuổi
theo, kì thực trên xe không có sinh viên nào. Cả 3 chiếc xe vội vã ra đi. Xe
ông Nhuận ra trước, kế là chiếc ‘jeep’chở Mẫm, cuối cùng là chiếc ‘jeep’thứ
hai. Họ chạy về hướng phi trường Tân Sơn Nhất. Xe Cảnh Sát hụ còi bám sát. Tới
ngã tư Trương Tấn Bửu (nay là Trần Huy Liệu, rồi Đỗ
Tấn Phong), chỉ mình xe dân biểu Nhuận tiếp tục chạy về hướng
Lăng Cha Cả, còn 2 xe ‘jeep’ghẹo trái về hướng Trương Minh Giảng (nay là Lê Văn Sỹ), rồi chạy thẳng về trung tâm thành
phố. Đoàn xe Cảnh Sát cũng chia hai đuổi theo.
Trời sắp tối,
chiếc‘jeep’đi sau cố ý lạng qua lạng lại cản không cho xe Cảnh Sát vượt lên.
Chiếc‘jeep’đi trước, trên có chở Mẫm, vọt lẹ bỏ xa xe Cảnh Sát. Tới khu chợ Bến
Thành đông người, viên sĩ quan thả Mẫm xuống. Mẫm mau chóng len lỏi giữa chợ và
tìm tới nấp vào trong quầy bán trái cây của ‘má’ Tám Ảnh ở cửa Bắc chợ Bến
Thành (7). ‘Má’ Tám
liền phái người đi báo cho ‘má’ Văn Hoa là chủ tiệm may Văn Hoa số 100 đường Lê
Thánh Tôn để chuẩn bị cho Mẫm được tá túc qua đêm ở đấy (8).
CHUYỆN 2:
ĐẠI
TƯỚNG DƯƠNG VĂN MINH ĐÃ CƯU MANG HUỲNH TẤN MẪM 6 THÁNG TRỜI
DIỄN TIẾN
Tại tiệm may Văn Hoa,
Mẫm gọi điện thoại kêu Nguyễn Thị Yến nhờ dân biểu Hồ Ngọc Nhuận tìm chỗ trú ẩn
cho y. Dân biểu Nhuận vội gọi văn phòng Tướng Dương Văn Minh. Đến trưa hôm sau,
Tướng Minh phái Thiếu tá Trịnh Bá Lộc mặc thường phục lái xe tới đón Mẫm tại điểm
hẹn ngã tư Nguyễn Trung Trực – Lê Thánh Tôn, cách nhà may Văn Hoa độ 100 mét và
đưa thẳng về Dinh Hoa Lan của Tướng Minh số 3, Trần Qúy Cáp. Tướng Minh cho Mẫm
ở trong một căn phòng tương đối đầy đủ tiện nghi, có cả điện thoại và nhà vệ
sinh. Để bảo mật, Mẫm không tiếp xúc với bất cứ ai trong dinh, ngoại trừ Thiếu
tá Trịnh Bá Lộc là người ‘cung cấp thực phẩm’ cho y. Trong bài Huỳnh Tấn Mẫm và
Cái Gọi Là ‘Saigon et Moi’, Thiếu tá Trịnh Bá Lộc xác nhận: ‘Về Sinh Viên Huỳnh Tấn Mẩm: Tôi được biết anh Mẫm vào thời gian ở
Việt Nam đang chuẩn bị vận động bầu cử Tổng Thống VNCH nhiệm kỳ II, năm 1971.
Lúc đó anh là Chủ Tịch Tổng hội Sinh Viên Sài Gòn. Anh hoạt động chống chánh
quyền của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Anh bi truy nã. Một nhân vật trong Bộ
Tham mưu chánh trị của Đai Tướng Dương Văn Minh giới thiệu anh và xin cho anh
được lánh nạn trong căn nhà dùng làm văn phòng trong thời gian hoạt động tranh
cử của Đại Tướng Dương Văn Minh. Đề nghị được chấp thuận với điều kiện anh
không được đi ra ngoài và không được liên lạc với bên ngoài khu vực số 3 Trần
Quý Cáp Sài Gòn. Vì nhà tôi cũng ở trong khu vực này nên tôi được yêu cầu của
cấp trên cung cấp thực phẩm cho anh. Do đó, chúng tôi có dịp tiếp xúc hàng ngày
trong các bữa cơm gia đình’(9).
Nhờ có điện thoại
riêng, Mẫm dùng ngụy danh là Hoàng để tiếp xúc với đồng bọn bên ngoài. Tướng
Minh chứa chấp Huỳnh Tấn Mẫm gần 6 tháng. Mẫm chỉ bí mật rời Dinh Hoa Lan vào
đầu tháng 01/1972 để ra ngoài chuẩn bị cho cuộc bầu cử Ban Đại diện Sinh viên Y
khoa niên khoá 1971 – 1972.
Ngày 05/01/1972, sau
phiên họp tại Y khoa, Nguyễn Văn Lang (Phó Chủ tịch Ban Đại diện Y
khoa) chở Mẫm về Đại học xá Minh Mạng. Vừa tới ngang cổng Bệnh
viện Hồng Bàng (nay là Bv. Phạm Ngọc Thạch) Mẫm
bị nhân viên công lực chận bắt được.
Thời gian tung hoành
chống phá của Mẫm (1969-1972) coi như chấm dứt
từ đây.
Mẫm bị giam giữ cho
tới khi có Hiệp định Paris 1973 thì được đưa lên Lộc Ninh để trao trả cùng
với Huỳnh văn Trọng, Nguyễn Long,Cao Thị Quế Hương, Trần Thị Lan, Trần
Thị Huệ, Nguyễn Thành Công. Nhưng do Việt Cộng còn muốn lợi dụng Mẫm
hoạt động với tư thế hợp pháp công khai cho nên họ không nhận Mẫm, lấy lí do
Mẫm không thuộc ‘thành phần quân sự’ nghĩa là tù binh, còn chính Mẫm phải miễn
cưỡng chấp hành mệnh lệnh cho nên đã nại ra lí do chỉ là sinh viên thuần túy và
kiên quyết đòi thả y về với gia đình. Mẫm chỉ thật sự được tự do vào sáng ngày
29/4/1975 khi chính tướng Cảnh Sát Bùi Văn Nhu đích thân lái xe đưa Mẫm tới tư
dinh tướng Dương Văn Minh.
ĐỘNG LỰC NÀO KHIẾN ÔNG
DƯƠNG VĂN MINH CHỨA CHẤP HUỲNH TẤN MẪM
Nếu lí do tướng Kỳ cứu
Huỳnh Tấn Mẫm là vì thù ghét và muốn ‘phá đám’ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu thì
lí do khiến Tướng Minh cưu mang Huỳnh Tấn Mẫm chẳng những vì muốn chống TT.
Nguyễn Văn Thiệu, mà còn vì ông Minh tin vào giải pháp hoà giải dân tộc, ngả sang
tả và sẵn sàng bắt tay với phía Cộng Sản.
01/11/1963, Hội Đồng
Quân Nhân Cách Mạng do Trung tướng Dương Văn Minh lãnh đạo đảo chánh giết chết
Tổng thống Ngô Đình Diệm.
30/01/1964, khi Tướng
Nguyễn Khánh từ vùng I I về làm cuộc ‘chỉnh lí’ thành công thì ‘Tam đầu
chế’xuất hiện ở cấp lãnh đạo Miền Nam, gồm có Tướng Dương Văn Minh, Tướng Trần
Thiện Khiêm và Tướng Nguyễn Khánh.
Vì tham vọng nắm trọn
quyền lực cho nên, ngày 01/10/1964, Tướng Khánh tìm cách ép buộc Tướng Khiêm
phải đi làm đại sứ tại Hoa Kì. Ngày 12/11/1964 đến lượt Tướng Minh phải rời Sài
Gòn để ‘công cán ngoại quốc’, thực ra là đi lưu vong tại Thái Lan.
Trong cuốn Hồi Ký
Không Tên, tác giả cựu dân biểu đối lập Lý Quí Chung kể lại, nhân chuyến đi
Bangkok (Thái Lan) để dự Hội nghi APU(Hiệp hội Dân biểu Nghị sĩ Á châu), ông đã gặp Tướng
Dương Văn Minh để chuyển lời của Cụ Trần Văn Hương yêu cầu Tướng Minh lên tiếng
ủng hộ liên danh ứng cử tổng thống Trần Văn Hương – Mai Thọ Truyền (Lý Quí Chung là đại diện báo chí cho liên danh Trần Văn Hương
trong kì bầu cử này).
Có lẽ vì ơn nghĩa đó
cho nên năm 1969, Phó Tổng thống Trần Văn Hương mới can thiệp để Tướng Dương
Văn Minh được hồi hương. Tướng Minh cư ngụ tại tư dinh có biệt hiệu là Dinh Hoa
Lan trên đường Hồng Thập Tự (nguyễn Thị Minh Khai).
Về đây, ông Minh tiếp tục mê 3 thứ: chơi
hoa lan, cá kiểng và đánh quần vợt.
Từ 1970, nơi đây trở
thành trung tâm quy tụ những nhân vật mang lập trường phản chiến, chủ hòa không
tưởng, mĩ danh là ‘hoà hợp hòa giải dân tộc’. Nhóm này đề nghị Tướng Minh ra tranh cử tổng
thống vào năm 1971 và ông đã chấp nhận.
Nhóm ông Minh công
khai đối lập với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, chống sự can thiệp của Mĩ ở Việt
Nam, chủ trương hòa hợp hòa giải dân tộc, đòi thi hành Hiệp định Paris.
Nhóm này gồm có những
nhân vật chính yếu như sau: Ls. Trần Ngọc Liễng, Gs. Vũ Văn
Mẫu, Tướng Mai Hữu Xuân, Gs. Lý Chánh Trung (10), Bs. Hồ Văn Minh, Lm. Nguyễn
Ngọc Lan (11), Dân biểu Lý Quí Chung, Dân biểu Nguyễn Hữu Chung, Dân biểu Dương
Văn Ba, cán bộ công đoàn Nguyễn Văn Cước, cựu chủ tịch Tổng hội SV Sài Gòn
1963-64 Nguyễn Hữu Thái (12)…
Về chủ trương và gốc
gác thành phần của nhóm được Lý Quí Chung thuật lại như sau: ‘Xét về ‘gốc tích’ thành phần của nhóm ông Minh…lộ ra sau 1975,
chúng ta sẽ không ngạc nhiên về sự chuyển dịch lập trường của nhóm ông Minh từ
‘ở giữa’ chuyển sang tả, rồi hướng đến sự sẵn sàng thỏa hiệp, liên kết với Mặt
Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam(MTDTGPMN )và Hà Nội. Gần phân nửa thành viên
trong nhóm có quan hệ với MTDTGPM như ông Cước, anh Nhuận, giáo sư Trung, linh
mục Lan, luật sư Liễng…khi Hiệp định Parisđược ký kết, nhóm ông Minh ủng hộ
triệt để sự thi hành Hiệp định. Bản thân tôi cũng tham gia Lực lượng Hòa giải
Dân tộc (HGDT)do luật sư Vũ Văn Mẫu đứng đầu; lực lượng này được Phật giáo Ấn
Quang hậu thuẫn và có chủ trương đòi tổng thống Thiệu tôn trọng và thi hành
Hiệp định. Lực lượng HGDT tổ chức nhiều cuộc hội thảo và thuyết trình về Hiệp
định Paris tại chùa Ấn Quang và tại nhiều địa điểm khác tại miền Trung như Huế,
Đà Nẵng, Quảng Ngãi…Luật sư Liễng thì thành lập Tổ chức đòi thi hành Hiệp định
Paris với sựtham gia của linh mục Nguyễn Ngọc Lan, thẩm phán Triệu Quốc Mạnh,
nhà văn ThếNguyên (báo Trình Bày), nhà hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước v.v…’(13).
Với lập trường chính
trịchủ hòa thiên tả, việc ông Minh cưu mang sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm
đương nhiên phải xẩy ra bởi vì ông đang đóng vai hợp pháp công khai để bao che,
bảo vệ một ‘người anh em’, một ‘đồng chí’. Thực ra lúc đó ông Minh không chỉ
chứa chấp sinh viên Việt Cộng Huỳnh Tấn Mẫm, ông còn cho 2 cựu dân biểu thân
Cộng Dương Văn Ba và Phan Xuân Huy, kí giả Kỳ Sơn (Nguyễn Đình Nam) đang bị truy nã và cán bộCộng
Sản hoạt động công đoàn Nguyễn Văn Cước ẩn náu tại tư dinh của ông.
NHẬN XÉT
Cả hai ông Kỳ và Minh
đều là những nhân vật chức cao quyền trọng một thời, thuộc hàng lãnh đạo quốc
gia. Việc làm và tư tưởng của họ có ảnh hưởng tới nhiều người, có thể là nhiều
thếhệ. Vấn đề là cả hai ông này dường như không có lập trường (?). Bởi vì lập trường thì khó thay đổi. Xem ra
hai ông chỉ có những quan niệm và thái độ chính trị.Quan niệm và thái độ có
tính cách giai đoạn, giai đoạn sau trái ngược hẳn giaiđoạn trước, nói cách khác
là tiền hậu bất nhất, gió chiều nào che chiều ấy cho nên nhận xét về họ không
đơn giản. Chúng ta đã được đọc nhiều tác giả viết vềhai nhân vật này.
Hai câu chuyện vừa kể
trên tuy là chuyện nhỏ nhưng phần nào phản ánh tính khí, bản chất và tinh thần
trách nhiệm ra sao của hai ông đối với quân dân miền Nam tự do.
Ks. Võ Long Triều từng
sát cánh với ông Kỳ nhận xét: ‘Những gì tôi biết, hình như có
hai Nguyễn Cao Kỳ, một Nguyễn Cao Kỳ phản bội đồng đội, phản bội chính mình… Và
một Nguyễn Cao Kỳ Từ 1966 đến 1975, có lòng với đất nước, muốn đội đá vá trời
nhưng không thành, vì thiếu hiểu biết việc quốc gia đại sự, biến chuyển quốc
tế, thế chiến lược toàn cầu, vai trò của Việt Nam trong hoàn cảnh đó và nhứt là
vì những đàn em dựa hơi phá bĩnh hay nhóm “Lương Sơn Bạc” cùng ăn thề uống máu
với ông ỷ thế làm hư việc’(14).
Về ông Minh, Kissinger
đã từng phê ông ‘là con người yếu mềm nhất trong các bộ mặt
chính trị’; còn TT. Thích Trí Quang lại bảo ‘Ông Minh không phải là một người làm chính trị sắc bén’. Vậy
mà hoàn cảnh nghiệt ngã của đất nước đã mấy phen đưa ông trở thành kẻ phất
cờ,kẻ cầm lái mặc dù ông không biết phất cờ, cũng không biết bến bờ con thuyền
quốc gia phải tới! Thậm chí ngay cả khi ông không còn quyền lực, ông vẫn
hưởng‘đặc miễn’ là kẻ bất khả xâm phạm, bất chấp luật pháp quốc gia. Đúng như
Lý Quí Chung, kẻ thân tín của ông, đã viết: ‘Dù biết rất rõ Dinh Hoa Lan đã
trở thành trung tâm hoạt động nhằm lật đổ mình, nhưng ông Thiệu và tay chân vẫn
không làm gì để vô hiệu hoá trung tâm này. Ông Thiệu có thể tố cáo Dinh Hoa Lan
chứa chấp nhiều phần tử đang bị chính quyền truy nã và có thể xin lệnh tòa án
lục soát Dinh Hoa Lan để làm ‘bể mặt’ ông Minh. Nhưng ông chẳng làm gì hết. Tại
sao? sự im lặng của ông Thiệu có thể được giải thích: Ông Minh là tướng lãnh
đàn anh của ông Thiệu dù gì ông vẫn phải nhân nhượng; mặt khác ‘tấn công’ vào
Dinh Hoa Lan là một xì căng đan chính trị hoàn toàn bất lợi cho ông. Ông Thiệu
biết rằng‘đụng’’ vào Dinh Hoa Lan sẽ không được tòa đại sứ Mỹ tán đồng và làm
bùng nổ sựchống đối ông mạnh mẽ hơn’ (15).
Miền Nam tự do mất đã
hơn 30 năm, mỗi khi có dịp nhắc lại những chuyện như thế này, bản thân ‘thất
phu’ chỉcòn biết thốt lên lời tuyệt vọng bi phẫn:
Hãy khóc lên hỡi quê
hương yêu dấu!
Ôi! Phận nước sao điêu
linh, khốn khổ đến nỗi vận mạng toàn dân, toàn quân miền Nam lại bị rơi vào tay
những cấp lãnh đạo như thế đấy!