Tuesday, December 5, 2017

VÔ NGÃ VÔ ƯU-Ni sư Ayya Khema

VÔ NGÃ VÔ ƯU
Thiền Quán Về Phật Đạo
Tác Giả: Ni sư Ayya Khema
Người Dịch: Diệu Liên Lý Thu Linh
Dịch từ bản tiếng Anh: Being Nobody, Going Nowhere - Meditations On
The Buddhist Path
Wisdom Publications 1987
Nguồn
http://thuvienhoasen.org
Chuyển sang ebook 28-7-2009
Người thực hiện : Nam Thiên – namthien@gmail.com
Link Audio Tại Website http://www.phatphaponline.org
Mục Lục
Lời Tựa
Lời Người Dịch
Chương 1 - Thiền: Lý Do Và Phương Pháp.
Chương 2 - Ảnh Hưởng của Thiền đến đời sống chúng ta.
Chương 3 - Thanh tịnh Và Tĩnh Giác
Chương 4 - Tứ Vô Lượng Tâm
Chương 5 - Từ Bi Quán
Chương 6 - Năm Chướng Ngại
Chương 7 - Nghiệp và Luân Hồi
Chương 8 - Kinh Từ Bi
Chương 9 - Bốn Hỉ Lạc
Chương 10 - Ngũ Uẩn
Chương 11 - Muời Điều Thiện
Chương 12 - Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo
Chương 13 - Một Cuộc Bắt Đầu Mới
---o0o---
Lời Tựa
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự
bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức
Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người. Bất cứ ai với lòng quyết tâm và
thiện ý đều có thể đi trên con đường nầy để đạt được tự do, giải thoát cho
thân tâm. Cuộc hành trình nầy đòi hỏi người tham dự phải trang bị cả thân
và tâm để được giải thoát khỏi “cái Ngã”. Tâm để nhận biết, tổng kết, phân
loại, và thân để cảm nhận.
Khi chúng ta có thể giải thoát khỏi các phản ứng tình cảm và chỉ trú ngụ
trong lòng từ bi, tâm ta sẽ rộng mở để đón nhận những sự thật vĩ đại về ý
nghĩa của vũ trụ. Chúng ta càng hướng về những sự thật nầy, chúng ta càng
dễ đạt đến sự giải thoát tâm linh. Hy vọng là quyển sách nầy sẽ giúp bạn
tiến bước trên con đường Đạo, theo giáo lý của Đức Phật và giúp cuộc hành
trình tìm Đạo của bạn nhẹ nhàng hơn.
Dưới đây là tổng hợp các bài giảng của Ni sư trong khóa tu Thiền mười
ngày ở Kundasale, Sri Lanka. Cuốn sách đã được thành hình với sự góp sức
của nhiều người.
Về Tác Giả:
Vào ngày 2 tháng 11, 1997, Ni sư Ayya Khema (1923- 1997) đã qua đời
vì bịnh ung thư ở tuổi 74. Pháp danh của Ni sư có nghĩa là ‘An lành và Yên
ổn’. Ni sư là tác giả của khoảng 25 đầu sách về Thiền và giáo lý của Đức
Phật. Quyển “Being Nobody, Going Nowhere” là một trong những quyển
sách về Phật giáo bán rất chạy (best-seller) ở Mỹ, và đã được giải thưởng
Christmas Humphrey dành cho sách tôn giáo hay nhất trong năm 1988.
Ni sư thọ giới xuất gia ở Sri Lanka vào năm 1979 và là một trong những
người tiên phong trong việc tranh đấu cho nữ giới trong tăng đoàn.
Ayya Khema sinh năm 1923, cha mẹ theo đạo Do Thái. Bà sống ở Bá
Linh cho đến khi cuộc chiến bắt đầu, bà trốn thoát sang Tô Cách Lan. Sau
đến sống ở Thượng Hải, ở đó bà và gia đình bị quân đội Nhật cầm tù trong
các trại giam dành cho tù nhân chiến tranh. Cha bà đã mất trong lúc bị giam
cầm. Sau chiến tranh, bà chu du khắp nơi ở châu Á, nhất là các nước vùng
Hy Mã Lạp sơn, và tu Thiền.
Năm 1964 bà di cư sang Mỹ cùng chồng và hai con. Sau đó bà bắt đầu
truyền dạy Thiền khắp thế giới. Năm 1978, Ni sư thành lập thiền viện
Buddha Dhamma theo truyền thống Theravada, trong một khu rừng, gần
Sydney, Uùc. Ni sư cũng thành lập Trung Tâm Nữ Phật Tử Quốc Tế
(International Buddhist Women’s Center) và Parappuduwa Nuns’ Island,
dành cho nữ Phật tử muốn tu học chuyên sâu hay muốn thọ giới xuất gia.
Vào năm 1987, Ni sư tham gia tổ chức hội thảo quốc tế đầu tiên cho Ni
giới, nơi Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đọc bài diễnvăn chủ yếu. Cũng trong năm
đó, Ni sư là người đầu tiên phát biểu về Phật giáo ở Liên Hiệp Quốc.
Ni sư Ayya Khema cũng là giám đốc đỡ đầu cho Buddha-Haus thành lập ở
Đức, năm 1989, và năm 1996 Ni sư chứng minh cho sự thành lập Tăng đoàn
của tu viện Western Forest Monastery Tradition, là tòng lâm viện Phật giáo
đầu tiên ở Đức.
---o0o---
Lời Người Dịch
Tôi chọn dịch quyển Being Nobody, Going Nowhere của Ni sư Ayya
Khema vì sự đơn giản, gần gủi với cuộc sống thực tế của chúng ta.
Mục đích chính của công việc dịch thuật nầy là một cách để tôi, người mới
được biết đến Phật pháp, học hỏi thêm về giáo lý của Đức Phật. Vì thấy
quyển sách rất hữu ích cho bản thân, tôi nghĩ nó cũng có thể giúp ích cho
người thân, bạn bè hay những bạn đạo cũng vừa tập tểnh những bước chân
đầu đến với Phật giáo như tôi, nên tôi mạo muội gửi đến các bạn bản dịch
hẳn là còn nhiều thiếu sót.
Những sai sót là do sự hiểu biết hạn hẹp của người dịch, hoàn toàn không
phản ảnh quyển sách toàn bích của Ni sư Ayya Khema. Kính xin Ni Sư
niệm thứ cho sự mạo muội nầy.
Xin chân thành ghi ơn Ni Sư đã để lại cho đời bao quyển sách Phật giáo
quý báu. Xin dâng lên giác linh của Ni sư lòng biết ơn sâu xa vì đã gia hộ
cho con hoàn tất việc dịch thuật quyển sách nầy, cũng như duyên lành để
quyển sách có thể đến tay nhiều người dưới dạng ấn tống. Rất mong nhận
được sự phê bình, góp ý của quý độc giả, đạo hữu, quý tôn sư để quyền sách
được hoàn thiện hơn trong những lần in sau.
Nguyện đem công đức nầy hướng về khắp tất cả,
đệ tử và chúng sanh, đều trọn thành Phật đạo.
Diệu Liên-Lý Thu Linh
Hiệu Đính Lần II 4/2005
---o0o---
    Chương 1 - Thiền: Lý Do Và Phương Pháp.
Tại sao phải hành Thiền? Thiền có gì quan trọng? Hẳn là bạn cũng muốn
tìm hiểu, nếu không bạn đã không đọc những dòng nầy. Tôi muốn nhấn
mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại
Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
Con người rất lạ là luôn nghĩ về tương lai hay quá khứ. Người trẻ thì nghĩ
đến tương lai ở phía trước. Người gìa thì nhớ về quá khứ đã sống qua.
Nhưng để kinh nghiệm cuộc đời, chúng ta cần phải sống trong giờ phút hiện
tại. Cuôäc sống không có ở quá khứ. Đó chỉ là kỷ niệm, hòai ức. Cuộc
sống không xảy ra trong tương lai. Đó chỉ là dự tính. Thời điểm duy nhất
chúng ta thực sự sống là hiện tại trước mắt. Và chúng ta phải tập sống như
thế. Cuộc đời con người có thể kéo dài trong 60 hay 70 năm, nhưng ta phải
học sống ngay trong giờ phút hiêän tại. Đời sống sẽ bớt bao phiền toái, nếu
như ta chỉ sống trong giờ phút hiện tại.
Nói thì dễ nhưng thực hành, khó lắm thay! Ai đã từng làm thử hẳn đã kinh
nghiệm được điều nầy. Ai chưa từng thử, sẽ tựï khám phá ra điều ấy. Một
lời khuyên đơn giản, nhưng không phải dễ thực hiện. Và không có phương
pháp nào giúp chúng ta sống cho từng giây phút hiện tại hữu hiệu bằng tham
thiền.
Tất cả chúng ta đều biết giữ cho thân thể sạch sẻ. Ta tắm rửa mỗi ngày ít
nhất một lần hay nhiều hơn. Khi ra đường, ta mặc quần áo sạch sẻ. Tối đến
ta lo cho thân ngủ nghĩ. Nếu không, ta không đủ sức đương đầu với những
khó khăn trong cuộc đời. Ta cần có một mái nhà để che cho thân khỏi mưa,
gió, nóng, lạnh. Thiếu những thứ đó, thân sẽ không chịu đựng nỗi. Ta còn
bồi dưỡng cơ thể bằng những thức ăn chọn lọc, bổ dưỡng, lo tập thể dục cho
thân được cường tráng, khỏe mạnh. Dầu không tập, chúng ta cũng đi đứng,
hoạt động, vì nếu không chân tay ta sẽ teo tóp. Tâm cũng cần được chăm
sóc giống nhu thế.
Đúng ra, ta còn phải chăm sóc cho tâm hơn cả thân nữa, vì tâm là chủ, còn
thân chỉ là người đầy tớ. Một người đầy tớ khỏe mạnh, cường tráng, năng nổ
nhưng có một ông chủ yếu đuối, thiếu kiên quyết không biết mình phải làm
gì, cũng khó có thể làm nên việc. Người chủ phải biết điều khiển, chỉ huy
người đầy tớ của mình. Ngay nếu như người đầy tớ không được khỏe mạnh,
tháo vát nhung ông chủ khôn ngoan, giỏi giắn thì ‘ngôi nhà’ của ta cũng
được tự tại.
Tâm và thân nầy làm nên ‘ngôi nhà’ của chúng ta. Nếu ngôi nhà nội tâm
không được yên, thì ngôi nhà bên ngoài của ta cũng khó ổn. Ngôi nhà
chúng ta sống, và làm việc tùy thuộc vào sự an khang của ngôi nhà nội tâm.
Người chủ, người điều khiển phải sống trong những điều kiện hoàn hảo
nhất.
Không có gì trong vũ trụ nầy có thể so sánh hay thay thế được tâm. Tâm
tạo ra mọi thứ. Nhưng tất cả chúng ta đều coi thường tâm mình. Đó cũng là
một nghịch lý của cuộc đời. Không ai coi thường thân thể mình, nếu nó
bịnh, ta vội vã chạy đi bác sĩ. Nếu nó mệt mỏi, ta vội vã cho nó nghĩ ngơi.
Nhưng ta đã làm gì cho tâm? Hình như chỉ có các vị Thiền sư là chú trọng
đến tâm của họ.
Muốn tâm được phát triển sâu rộng, ta cần phải chăm sóc tâm. Nếu không
tâm ta luôn nhìn cuộc đời bằng con mắt nhị nguyên (hai chiều): Tốt, xấu;
ngày mai hay hôm qua; yêu (tôi thích thứ nầy), ghét (tôi không ưa thứ kia);
có (tôi sở hũu cái nầy), không (không sỡ hữu thứ kia); cái nầy của tôi, cái
kia của anh. Chỉ khi tâm đã được rèn luyện, ta mới có thể thay đỗi cái nhìn
của mình để có thế nhìn thấy được những ‘chiều’ khác của sự vật.
Việc ta cần làm trước tiên cho Tâm là tẩy rửa, tắm gội cho nó, không chỉ
mỗi ngày một lần hay hai lần như đối với cơ thể, nhưng trong mỗi giây phút
tỉnh thức. Để làm được điều đó, chúng ta phải biết phương pháp. Với cơ
thể, điều đó khá dễ, chỉ cần dùng xà-phòng và nước. Chúng ta đã quen làm
như thế từ ngày còn nhỏ. Nhưng tâm chỉ có thể được gội rửa bằng tâm.
Những gì tâm đã thâu nhận, chỉ có tâm mới có thể cởi bỏ. Mỗi giây phút
tỉnh thức trong thiền là mỗi giây phút tâm được sàng lọc vì may mắn thay,
tâm không thể làm hai việc cùng một lúc. Dầu rằng, như Đức Phật đã nói
trong một nháy mắt ta có thể có đến hàng ngàn ý tưởng dấy lên, nhưng thực
tế ít ai nghĩ nhiều đến vậy và nhất là không thể có tất cả những suy tưởng đó
trong cùng một lúc. Chúng tiếp nối nhau cái nầy sau cái khác thoáng qua
nhanh chóng trong đầu ta.
Khi ta Thiền quán, ái dục, tham vọng, không thể hiện ra vì tâm chỉ có thể
làm một công việc một lúc. Do đó nếu thời gian tọa thiền tăng lên, các vết
nhơ bẩn trong tâm ta sẽ được gội rửa ngày một trở nên sạch hơn.
Tâm, vật độc nhất vô nhị trong vũ trụ, báu vật duy nhất chúng ta sỡ hữu.
Khi có món đồ quí, dĩ nhiên là ta phải giữ gìn cẩn thận. Chùi rửa, đánh bóng,
vô dầu mỡ, thỉnh thoảng cho nó nghĩ. Còn đây ta có tâm quí báu nầy, chỉ có
tâm giúp cho ta làm được mọi việc, kể cả việc giác ngộ, nhưng biết gìn giữ
nó hay không tất cả là tùy thuộc chúng ta. Tâm sẽ trở thành vô dụng nếu
không được giữ gìn, trau chuốt.
Lúc ngồi Thiền, ta tập gạt bỏ ra khỏi tâm những gì ta thấy không cần
thiết. Để chỉ giữ trong tâm những điều ta muốn nghĩ đến. Khi đã thành thói
quen, chúng ta có thể áp dụng phương pháp tu Thiền vào các sinh họat đời
thường, để giúp ta dứt bỏ những tư tưởng không lành mạnh. Như thế nhờ
ngồi Thiền, ta có thể dứt bỏ chạy đuỗi theo vọng tưởng trong sinh hoạt đời
thường, ngược lại việc chúng ta không chạy đuỗi theo vọng tưởng trong đời
sống giúp cho việc ngồi Thiền của ta dễ dàng hơn. Người có thể làm chủ tư
tưởng mình, khiến tâm chỉ nghĩ đến những gì mà họ muốn nghĩ được gọi là
A-la-hán hay đấng Giác Ngộ.
Đừng ngạc nhiên nếu không phải lúc nào ta cũng có thể dứt bỏ vọng
tưởng. Thật dễ chịu khi ta có thể chỉ nghĩ đến những điều ta muốn nghĩ đến,
vì như thế là ta đã làm chủ được tâm của mình, hơn là tâm làm chủ ta. Luôn
chạy đuỗi theo bất cứ tư tưởng nào dấy khởi lên trong tâm, dù hạnh phúc
hay đau khổ, là thói quen chúng ta cần từ bỏ khi ngồi thiền.
Bước kế tiếp là tập luyện tâm. Tâm không kiềm chế giống như những
lượn sóng trồi lên trụt xuống, chạy lăng xăng từ chuyện nầy qua chuyện
khác, không bao giờ có thể trụ yên một chổ. Ai chẳng từng kinh nghiệm có
khi đọc sách, đến cuối trang mới bỗng nhận ra không biết mình vừa đọc gì,
phải đọc lại cả trang. Ta phải thúc đẩy, luyện tập để tâm ở yên một chổ,
giống như ta phải thúc đẩy, vận động các bắp thịt, khi ta tập hít thở, tập tạ.
Sự phát triển, tăng trưởng chỉ có thể có được từ sự tập luyện tâm làm theo ý
ta, đứng yên khi ta muốn nó đứng yên.
Sự luyện tập cũng giúp tâm thêm vững mạnh, vì tâm đã được rèn luyện
biết buông bỏ. Chúng ta không phải là A-la-hán, ai cũng chấp Ngã. Chính
cá nhân chủ nghĩa, thái độ ‘cái nầy của tôi, cái kia của anh’ đã tạo nên bao
vấn đề trên thế giới. Chúng ta xác định ‘bản ngã’ của mình qua những gì ta
suy nghĩ, qua sách báo, phim ảnh đã xem, đã đọc, hoặc sử dụng tâm chỉ để
làm những việc cũng cố thêm cho cá nhân mình. Điều quan trọng nhất ta
học được trong lúc ngồi Thiền, là biết buông bỏ, không chạy đuổi theo vọng
tưởng. Khi không còn ai suy tưởng, không còn có cái Ngã.
Lúc đầu, ta chỉ có thể buông bỏ được vọng tưởng trong khoảng thời gian
ngắn, nhưng đó chỉ là bước đầu. Con đường tâm linh cuối cùng rồi cũng dẫn
ta đến sự hoàn toàn buông xảû. Không có gì ta cần phải đạt được hay bám
víu vào. Những điều nầy đã được lập đi lập lại nhiều lần, nhưng ta không
có cách gì khác hơn để diễntả. Đúng vậy, con đường tâm linh là con đường
dẫn ta đến việc từ bỏ, buông xả tất cả những gì đã được ta tích lũy, chất
chứa từ bấy lâu nay: Sự sở hữu, các thói quen, tư tưởng, thành kiến, các lối
suy nghĩ theo khuôn mẫu. Tuy nhiên lúc ngồi Thiền, không phải dễ buông
bỏ vọng tâm, vì cái Tôi không dễ đầu hàng; cái Tôi sẽ cảm thấy lạc lỏng khi
không có suy tưởng. Tâm sẽ phản ứng ngay bằng cách kêu lên: “Việc gì đã
xảy ra?” --và rồi nếu không biết buông xả, tâm ta lại chạy đuỗi theo vọng
tưởng.
Làm thế nào để bắt tâm ở yên một chổ, là góp phần vào việc phát triển
‘bắp thịt’ của tâm, tạo cho tâm thêm sức mạnh và quyền lực. Giáo lý của
Đức Phật rất thâm thúy, cao siêu, và chỉ có những tâm thâm thúy, cao siêu
mới có thể lãnh hội đầy đủ những lời dạy của Ngài. Vì thế, chúng ta cần
luyện tâm thêm vũng mạnh.
Một thân thể cường tráng có thể chịu đựng được tất cả những gì ta bắt nó
phải chịu đựng. Một Tâm vững mạnh cũng giống như thế. Tâm vững mạnh
có thể chịu đựng sự nhàm chán, căng thẳng, tuyệt vọng hay đau khổ --vì
tâm không bám víu vào những gì nó không thích. Thường xuyên thực tập
thiền định là một cách để luyện tâm.
Là một bộ phận vô giá, tuyệt vời nhất trên đời, tâm hơn tất cả mọi thứ cần
phải được chăm sóc. Vậy mà ta đã không ngừng nghĩ suy, tính toán từ lúc
còn ấu thơ, và từ bao nhiêu lượng kiếp trước đó. Suốt ngày chúng ta suy
nghĩ, suốt đêm chúng ta mộng mị. Chẳng có phút giây nào ngưng nghĩ.
Chúng ta có thể nghĩ hè, đi thư giãn. Nhưng thực ra cái gì thư giãn? Chính
là cơ thể được thư giãn. Nó đi lên núi, xuống biển, du lịch chân trời, góc
biển, nhưng còn tâm thì sao? Thay vì suy nghĩ những chuyện phải làm ở
nhà, nó bận rộn thâu nhận những âm thanh, cảnh quang, mùi vị mới lạ.
Tâm ta chẳng hề được nghĩ ngơi, nó chỉ thay đỗi công tác thôi.
Nếu cơ thể chúng ta không đuoc nghĩ ngơi một đêm, nó khó mà làm việc
ngày hôm sau. Tâm ta cũng cần nghĩ ngơi, nhưng không phải bằng giấc
ngủ. Tâm chỉ có thể được nghĩ ngơi khi nó ngừng mọi suy nghĩ, mà chỉ
cảm nhận. Ta có thể ví tâm như một màn ảnh trắng, trên đó các phim ảnh
được liên tục chiếu lên, không bao giờ ngưng nghĩ. Vì cuốn phim --tư
tưởng-- liên tục chiếu, người ta quên mất còn có tấm màn hình ở đằng sau
đó.
Nếu chúng ta có thể tạm ngưng cuốn phim lúc tham thiền, chúng ta sẽ
cảm nhận được sự tĩnh lặng thường hằng của tâm. Đó là giây phút tuyệt vời.
Giây phút hạnh phúc không thể kiếm tìm ở đâu, qua bất cứ phương tiện
nào. Niềm hạnh phúc tuyệt vời, không phụ thuộc vào bất cứ điều kiện bên
ngoài nào, trừ thực tập Thiền. Không phải tùy thuộc vào món ngon, thời
tiết tốt, bạn quý, người đồng cảm, sự hổ trợ tinh thầy hay của cải vật chất.
Tất cả những thứ đó đều không thể tùy thuộc vào, vì chúng luôn thay đỗi.
Chỉ có bản tâm, chánh niệm là không bỏ rơi chúng ta nếu ta tiếp tục thực
hành Thiền.
Khi tiếng động trong tâm tạm dừng, không chỉ có sự im lặng, mà còn có
cả cảm giác hài hòa. Tâm cuối cùng được nghĩ ngơi. Nó đã tìm được đến
nhà. Ta sẽ đau khổ biết bao nếu không có cái nhà che chở xác thân. Tâm
cũng thế. Giây phút bình an, tĩnh lặng đó là ‘ngôi nhà’ của tâm. Nó trở về
nhà nghĩ ngơi giống như sau một ngày làm việc, chúng ta trở về nhà ngã
người lên chiếc ghế êm ả hay nằm xuống giuờng để thân nghĩ ngơi. Tâm
bây giờ cũng thế. Được nghĩ ngơi, không phải suy nghĩ. Suy nghĩ, vọng
tưởng là đau khổ, cho dù chúng ta nghĩ về bất cứ thứ gì. Vì có sự chuyển
động là có va chạm. Tất cả những gì chuyển động sẽ sinh ra va chạm, cọ
sát, khổ đau.
Giây phút chúng ta thư giãn, nghĩ ngơi, tâm tăng thêm sức mạnh và an lạc
vì nó biết nó có thể trở về nhà bất cứ lúc nào. Sự an lạc chúng ta tìm thấy
được khi ngồi thiền sẽ ở trong ta suốt ngày, cả trong những sinh hoạt đời
thường ta cũng tìm thấy nó. Tâm an lạc, vì tâm biết rằng không có gì cản
trở nó trở về nhà, tìm sự tĩnh lặng, hài hòa.
Đó là những lý do chính để giải thích tại sao cuộc sống của ta sẽ không
bao giờ đầy đủ nếu không có Thiền. Những lạc thú bên ngoài mà cuộc đời
mang đến cho ta, không thể so sánh được với niềm vui nội tâm. Sự buông
xả, không bám víu giúp chúng ta hiểu rằng ‘cái tôi’ luôn đòi hỏi, do đó tâm
luôn đòi suy tưởng. Khi ta ngưng mọi ham muốn, ta không cần phải suy
nghĩ, vọng tưởng. Khi chúng ta ngung đòi hỏi, tất cả mọi sự thất vọng, đau
khổ đều biến mất. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải tu tập Thiền.
Trước hết chúng ta phải chú trọng đến hơi thở ra, hơi thở vào nơi mủi.
Hơi thở là gió, nên khi gió vào hay ra, ta đều cảm thấy. Cảm giác đó giúp
chúng ta chú tâm ở nơi mủi. Việc làm đó lúc đầu khó tránh khỏi khó khăn.
Hơi thở là mạng sống của chúng ta, vì thế còn gì thích hợp hơn là dùng hơi
thở để thiền quán: Ta sống nhờ hơi thở, không thể tách rời khỏi nó giây
phút nào. Vậy mà ít khi ta nghĩ đến nó. Ta quên khuấy nó, cho đến khi ta
mất nó, nghẹt thở, chết đuối hay chết ngạt. Lúc đó ta mới thấy hơi thở quan
trọng biết bao. Nhưng khi hơi thở còn ở với chúng ta, ta chẳng bao giờ nhớ
tới, dầu hơi thở là sự sống còn của ta, là báu vật quí nhất của tất cả chúng ta.
Hơi thở còn trực tiếp hổ trợ cho tâm. Khi ta xúc động hay vội vã, hơi thở
trở nên gấp rút. Khi tâm ta thanh tịnh, tĩnh lặng, hơi thở nhẹ nhàng, thanh
thoát. Khi hơi thở trở nên mong manh đến nỗi khó tìm thấy, là khi chúng ta
ở trong trạng thái Thiền định. Tập chú trọng vào hơi thở là phương pháp
giúp chúng ta đạt đến trạng thái đó. Thở là một hành động vừa tự nhiên, vừa
có thể được kiểm soát. Ta có thể làm cho hơi thở sâu, dài hay ngắn hay
ngưng lại giây lát.
Có nhiều cách để chú tâm vào hơi thở. Ta có thể theo dõi hơi thở vào, hơi
thở ra khi ta chú tâm đến nó. Muốn thực tập phương cách nầy, không cần
phải thay đỗi cách thở chỉ im lặng theo dõi nó vào ra.
Hoặc tập chú tâm bằng cách kết hợp hơi thở với tụng niệm, thí dụ ‘Nam
Mô’. Nam khi hít vào, Mô khi thở ra.
Ta cũng có thể đếm một khi hít vào, một khi thở ra,. Hai khi hít vào, hai
khi thở ra. Không đếm dưới 5, không đếm quá 10. Khi đếm đến 10, lại bắt
đầu trở lại một. Khi tâm lang thang, bắt đầu đếm lại 1. Lúc bắt đầu, nếu bạn
không bao giờ đếm quá hai, đừng nản lòng. Hãy kiên trì thực tập.
Tất cả tâm đều giống nhau. Bạn không cần phải nghĩ: “Tôi không thể tập
thiền. Thiền không thích hợp với tôi”. Nhung ‘tôi’ ở đây là ai? Nó chỉ là
một tâm không kiềm chế so với tâm đã được kiềm chế. Một vận động viên
có tập luyện sẽ chạy nhanh, chạy giỏi hơn người không tập. Thế thôi. Nếu
không có sự cố gắng tập luyện, không thể bảo rằng: “Tôi vô dụng. Tôi
không thể chạy nhanh”.
Đếm hơi thở, niệm chú, chú tâm vào hơi thở ở nơi mũi hay theo dõi hơi
thở ra vào. Hãy thử xem phương pháp nào thích hợp với bạn, rồi giữ lấy
phương pháp đó. Nếu bạn có thể tập chú tâm, bằng cách theo dõi hơi thở
phồng lên xệp xuống ở bụng thì cứ làm như thế. Chân xếp như thế nào để
bạn có thể ngồi lâu. Lưng thẳng nhưng không gồng. Vai, bụng, và cổ cũng
phải thư giãn, mềm. Khi bạn ngồi bị ngã chúi, hãy ngồi thẳng lại. Đầu cũng
phải giữ thẳng. Ngôi chúi, đầu gục xuống dễ làm ta buồn ngủ hơn là tĩnh
tâm. Khi ngồi Thiền chúng ta cần phải hoàn toàn tỉnh thức.
Bạn sẽ thấy rằng không phải lúc nào tâm cũng trụ vào hơi thở, dù bạn tập
bằng phương pháp nào: niệm chú, đếm 1-1, 2-2 hay chú tâm vào hơi thở ở
mũi hay theo dõi hơi thở vào ra. Tâm vẫn lăng xăng, trừ khi bạn đã từng tập
ngồi thiền một thời gian dài. Vọng tưởng -cuốn phim- vẫn còn đó. Chỉ có
cách là tập gọi tên các vọng tưởng, nhưng nếu gặp khó khăn, có thể đơn
giản hóa bằng cách gọi chung chung nhu ‘tư tưởng’, ‘hồi ức’, ‘lầm lẫn’, ‘dự
tính’ hay ‘nhảm nhí’. Không quan trọng. Vì ngay lúc ta đặt cho vọng
tưởng một cái tên, là lúc ta đã tách ta ra khỏi nó. Nếu không, bạn không
phải là ngồi thiền mà là ngồi suy nghĩ và bạn sẽ hoàn toàn bị dẫn dắt, lôi
cuốn theo các suy tưởng của mình. Bạn sẽ lo cho con mèo bị nhốt ngoài
cửa, lo không biết mấy đứa nhỏ ngủ chưa...Bất cứ gì, thì bạn cũng đang lo
nghĩ, dĩ nhiên tâm bạn sẽ tự bào chữa rằng: “Nhưng tôi cần phải biết những
điều đó chứ”. Khi tọa thiền, bạn không cần biết về vấn đề gì cả. Cuộc đời
vẫn cứ tuần tự trôi đi, không cần đến sự lo lắng của chúng ta. Mỗi giây phút,
nó đến rồi đi.
Khi vọng tưởng dấy lên, hãy nhìn thẳng vào nó, đặt tên cho nó. Trúng, sai
không thành vấn đề. Một khi vọng tưởng đã được đặt tên, có nghĩa là ta có
thể buông bỏ nó. Dần dần thói quen nầy sẽ được chúng ta áp dụng vào mọi
phút giây tỉnh thức. Nhờ thế khi có những tư tưởng không trong sáng, ta có
thể buông bỏ chúng. Bạn sẽ tập chỉ nghĩ đến điều mình muốn nghĩ, và khi
làm được như thế, bạn sẽ không bao giờ thấy khổ đau nữa. Chỉ có kẻ khờ
mới tự nguyện đau khổ.
Đặt tên cho các tư tưởng, đó là cách giúp ta nhận biết vọng tưởng trong
đời sống hàng ngày, nhưng khi ngồi thiền, ta gọi đó là sự tỉnh thức. Đó là
cách thực tập Chánh niệm. Đức Phật nói: “Tỉnh thức là phương pháp duy
nhất để giải thoát con nguời, giúp họ tránh thất vọng, bước vào con đường
giác ngộ, thóat khỏi khổ đau”. Biết rằng ‘Tôi đang suy nghĩ. Tôi đang lơ
đễng. Lo lắng. Bứt rứt. Mơ mộng về tương lai. Mong ước...”. Chỉ nhận biết,
rồi trở về với hơi thở. Nếu bạn có hàng ngàn vọng tưởng, thì hãy nhận biết
chúng hàng ngàn lần. Nhận biết sự dấy khỏi của vọng tưởng và nội dung
của chúng. Đấy là nền tảng của sự tỉnh thức một cách chủ động, con đường
duy nhất đưa đến giải thoát -nếu ta thực sự thực hành chúng.
Cơ thể của chúng ta sẽ cảm thấy khó chịu vì phải ngồi trong một tư thế
không quen thuộc, và nhất là vì ta bắt nó phải ngồi yên. Thân không bao
giờ thích phải ở yên một chỗ dù chỉ trong thời gian ngắn. Ngay như khi
nằm trên chiếc giường êm ái, thoải mái, thân cũng lăn trở suốt đêm. Thân
muốn di chuyển để thoát khỏi sự khó chịu, nên dù ta đang ngủ, thân vẫn
chuyển động. Cũng thế, khi chúng ta ngồi thiền, sự khó chịu dấy lên. Thay
vì lập tức nghe theo thân, thay đỗi thế ngồi như ta vẫn thường làm, thường
phản ứng khi đau đớn, khó chịu dấy lên, hãy nhận biết nó. Quan sát cảm
giác khó chịu từ đâu tới. Có phải vì sự tiếp xúc với gối, sàn nhà hay với
chân kia. Từ sự tiếp xúc sinh ra cảm giác. Từ cãm giác dẫn đến hành động.
(Đây cũng chính là vòng luân hồi luẩn quẩn của chúng ta. Chính phản ứng
của chúng ta đối với các cảm giác đưa chúng ta đến luân hồi sinh tử).
Chỉ có ba loại cảm giác: dễ chịu, trung tính, khó chịu. Ngồi Thiền gây
cảm giác khó chịu, nên tâm lên tiếng: ‘Á, cảm giác khó chịu, đau đớn quá.
Tôi không chịu nỗi, tôi muốn thoát ra khỏi cảm giác nầy’. Chúng ta sống,
phản ứng như thế mỗi ngày, từ sáng đến tối, đều như thế. Bất cứ điều gì làm
chúng ta khó chịu, chúng ta chạy trốn, xua đuỗi hay cố gắng thay đỗi các
nguyên nhân bên ngoài chúng ta. Bằng mọi cách chúng ta xua đuỗi khổ
đau. Nhưng sẽ không có cách gì làm được, trừ khi chúng ta dứt bỏ được
lòng tham muốn. Bất cứ điều gì ta làm cho thân, xoay chuyển chiều nào rồi
nó cũng sẽ khó chịu, vì sựï thoải mái không thể kéo dài.
Hãy quan sát vòng luẩn quẩn đó: tiếp xúc, cảm giác, phản ứng. ‘Tôi cảm
thấy đau. Tôi muốn chạy khỏi chỗ nầy’. Nhưng thay vì chạy trốn, hãy đặt
hết cả sự chú tâm vào nơi đang bị đau đớn, để cảm nhận sự thay đỗi của nó.
Bạn sẽ thấy cảm giác đau đớn hoặc là di chuyển đến nơi khác, hoặc là thay
đỗi cường độ. Cảm giác đó không là một khối đông đặc, nó di chuyển, nó
đỗi thay
Hãy nhớ rõ rằng, cơ thể ta không có sự đau đớn, nhưng nó đang đau đớn.
Chỉ có như thế ta mới hiểu sự thật về những đau đớn của con người. Không
phải là thỉnh thoảng cơ thể ta mới bị đau đớn, khó chịu mà nó luôn luôn đau
đớn, khó chịu. Nó không thể nằm hay ngồi yên mà không cảm thấy khó
chịu. Hãy nhận biết tánh vô thường đó. Hãy nhận biết tính chất khổ đau đã
được ươm mầm trong cơ thể con người. Hãy nhận biết là cảm giác chúng tự
đến, không có lời mời của chúng ta. Vậy tại sao gọi chúng là ‘của tôi’? Hãy
nhận biết chúng từ các cảm giác khó chịu nầy, rồi thì chuyển đỗi nếu cần,
không phải là ngay lập tức. Chỉ chuyển đỗi sau khi chúng ta đã quán sát tại
sao cần làm vậy. Chuyển đỗi nhẹ nhàng, đầy chánh niệm để không làm
phiền đến người chung quanh.
Cứ ngồi nguyên một chỗ cắn răng chịu đựng, và tự nhủ “Tôi sẽ ngồi
nguyên bằng mọi giá. Tôi không chịu đựng nỗi nửa, nhưng tôi vẫn cố chịu”,
không đem lại lợi lộc gì cho sự ngồi thiền của chúng ta. Đó là một phản ứng
sai lầm không khác gì sự đầu hàng nhanh chóng. Một đằng là chạy đuỗi
theo sự thoải mái, đằng khác là sự bám víu vào khổ đau. Chúng chỉ là hai
mặt của một đồng tiền. Cách tốt nhất là làm sao để hiểu rõ nội tâm, hiểu rõ
hành động của ta, và như thế mới thật sự mang lại kết quả. Hãy tiếp xúc với
tư tưởng và cảm giác khi chúng dấy khởi. Quan sát tính cách vô thường của
chúng. Chúng đến, rồi chúng đi. Vậy tại sao ta nhận chúng là mình? Ta có
mời chúng không? Chắc chắn là không. Ta chỉ có ý định ngồi thiền thôi phải
không? Vậy tại sao tâm ta đầy những vọng tưởng? Chúng có phải là ta
không? Chúng có phải là sự khổ đau không?
Vô thường, khổ đau, vô ngã là ba đặc tính bao trùm vạn vật. Trừ khi ta
nhận biết chúng từ trong tâm thức của ta, chúng ta sẽ không bao giờ hiểu
Đức Phật nói gì. Thiền là phương pháp giúp ta hiểu ra điều ấy. Thiền là
hành động. Còn lại tất cả chỉ là ngôn từ.
---o0o--
Chương 2 - Ảnh Hưởng của Thiền đến đời sống chúng ta.
Trước hết ta phải tẩy uế, thanh lọc tâm. Nhưng không thể có tâm thanh
tịnh, nếu như thân ô uế, vì thế, ta cũng cần tẩy rửa các thứ tạp uế đã chất
chứa trên thân thể ta bấy lâu nay.
Hãy tưởng tượng một người đã sống trong một ngôi nhà đã hơn hai mươi,
ba mươi năm không dọn dẹp. Bao nhiêu thức ăn thừa thãi, quần áo bẩn
thỉu, rác rưởi đã chất đến trần nhà. Phải sống giữa đống rác đó thật hôi thối,
khó chịu. Nhưng nguời chủ sống ở đó thì chẳng hề bận tâm, cho đến một
ngày có người bạn ghé qua và nói: “Sao bạn không dọn nhà mình cho sạch
sẻ?”. Rồi hai người bạn bắt tay vào dọn dẹp một góc nhà. Sau đó người
chủ bắt đầu thấy sống ở góc phòng sạch sẻ đó dễ chịu hơn. Nên dọn dẹp cả
căn nhà, người chủ bây giờ có thể ngắm quang cảnh bên ngoài, có đủ chỗ đi
qua lại trong nhà. Khi chỗ ở đã trở nên thoải mái dễ chịu, người chủ mới có
thể quay vào chú trọng đến nội tâm mình.
Căn nhà đó là thân chúng ta. Bất kể chúng ta đi đâu: từ thành phố nầy đến
xứ sở kia, từ chỗ trọ nầy đến nơi ở khác, không biết bao nhiêu lần. Ta cũng
lôi kéo thân đi cùng khắp cho đến ngày nó rời rã, hư hoại, chỉ còn là một
đống xương, một nhúm cát bụi. Nhưng còn chưa tới ngày ấy, ta còn phải
mang thân nầy. Còn phải sống, ta còn cần phải dọn dẹp cho ‘căn nhà’ nầy
được thông thoáng, sạch sẽ. dễ chịu.
Các phản ứng tâm lý chất chứa bên trong lâu ngày đã che mắt tâm ta.
Tâm đã dung chứa chúng thì chính tâm cũng phải tháo gở chúng. Trong
Thiền, điều nầy đồng nghĩa với “nhận biết các cảm thọ, nhưng không phản
ứng, rồi buông bỏ’. Bản chất của Thiền là không phản ứng. Đặc tính quan
trọng đó giúp ta tìm được sự an lạc, quân bình trong tâm hồn, vì các phản
ứng giống như sự chuyển động của các làn sóng phủ chụp ta, làm ta mờ mịt
không thấy lối ra. Và chúng ta tiếp tục u mê. Chúng ta có thể nghe, chúng ta
có thể cảm thấy, nhưng không thể nhìn thấy ‘nội tâm’ của ta. Nội tâm đó đã
bị che phủ bởi các hành động, những phản ứng tình cảm của chúng ta.
Khi các vọng tưởngï khởi lên trong lúc tọa thiền, ta chỉ cần biết chúng dấy
khởi, mà không cần có phản ứng. Và ta cũng chỉ cần làm có thế. Thái độ
không phản ứng nầy cũng có thể được mang áp dụng vào đời sống hàng
ngày của ta. Cảm thọ nào dấy khởi, ta chỉ cần nhận biết nó đến, rồi để nó đi.
Nếu chúng ta có thể quán tưỡng được như thế lúc ngồi thiền, là ta đã học
được một trong những bài học quan trọng nhất trong việc tự giải thoát mình.
Thật sai lầm nếu nghĩ rằng vì chúng ta đang sống, tức nhiên ta phải biết
nghệ thuật sống. Đó là một nghịch lý khác của cuộc đời. Sống là một nghệ
thuật. Ai trong chúng ta chẳng tùng vấp ngã một, đôi lần trong đời. Ta gọi
đó là thảm kịch, bất hạnh ‘cuả tôi’. Thật ra đó chỉ là một nghệ thuật sống
chưa được hoàn hảo.
Đặc tính thứ ba nhưng không kém phần quan trọng của việc tu thiền là ta
có thể kinh nghiệm được tính cách vô thường của sự vật. Trừ khi tự chúng
ta kinh nghiệm được điều đó, nếu không tính cách vô thường của sự vật
cũng chỉ là những lời nói vô nghĩa. Và lời nói không giúp chúng ta giải
thoát được. Phải tự chứng nghiệm. Con đường Đức Phật chỉ cho chúng ta
là con đường nhằm đưa đến giải thoát -một sự tự do hoàn toàn, tuyệt đối, và
điều đó mỗi người phải tự chứng nghiệm lấy. Khi tham thiền, hãy kinh
nghiệm sự vô thường trực tiếp qua việc chú tâm vào hơi thở, ta biết rằng
một hơi thở vừa vào, lại một hơi thở ra. Hơi thở trước không giống hơi thở
sau. Cảm thọ nầy dấy lên, rồi qua đi. Tiếp theo một cảm thọ khác lại đến.
Rồi nối nối các cảm thọ khác dấy lên, cuối cùng không còn gì nữa. Một cảm
giác đau ở chân, ta trở mình, cảm giác đau biến mất. Cảm thọ đến, rồi cảm
thọ đi.
Với chút ít kinh nghiệm tu tập thiền, ta có thể dễ dàng nhận ra được sự
vô thường của cảm thọ, đồng thời ta cũng nhận ra được sự vô thường của
bản thân. Ai cũng biết thế. Người có hiểu biết đều biết rằng thân của ta,
của tất cả mọi người đều vô thường, hoại diệt. Nhưng tất cả chúng ta đều
sống như thể ta sẽ không bao giờ mất, ta đau khổ, khóc than khi thân nầy bị
hủy hoại theo luật tự nhiên, như thể đó là việc ta không bao giờ ngờ tới.
Suy nghĩ như thế là sai lầm, vô lý lắm phải không? Đó là vì chúng ta tự
quay lưng lại với thực tại. Ta chỉ muốn chấp nhận cái tốt đẹp. Còn khi phải
đối mặt với sự thật phủ phàng, ta tìm cách đổ lổi cho kẻ khác. Có người
còn đổ cho quỷ thần, trời đất. Không cần biết ta trách móc người chung
quanh hay trách trời đất, sự thật là cuộc đời đầy những vô thường, chúng ta
phải chấp nhận sự thật đó để sống cho đúng.
Khi chúng ta suy nghĩ thêm, ta sẽ thấy là mỗi giờ phút trôi quá, các tế bào
trong cơ thể cũng thay đổi. Chúng ta ai không học điều nầy ở nhà trường.
Rõ ràng là chúng ta có thể kiểm nghiệm được điều nầy. Khi lắng sâu trong
Thiền định, ta có thể cảm được từng cảm giác trên da thịt mình. Ta sẽ có cái
nhìn khác về chính bản thân ta, cũng như về cuộc đời, vì giờ ta đã thấu hiểu
bằng chính kinh nghiệm của mình rằng không có gì bền vững, tồn tại mãi,
nhất là với thân nầy.
Khoa học đã chứng minh rằng không có gì trong vũ trụ là một khối. Tất
cả vật chất hiện hữu đều được tạo thành bởi những phân tử di chuyển với tốc
độ nhanh -đến cùng với nhau và rã tan cùng nhau- do đó chúng tạo ra ảo
tưỡng của một khối vũng chắc. Đức Phật 2500 năm về truờc đã nói như thế
về các phân tử, không cần đến các phòng thí nghiệm để chứng minh điều
đó. Ngài đã tự kinh nghiệm điều đó và đã Giác ngộ. Các nhà khoa học cũng
biết tất cả những điều nầy, nhưng họ không phải là đấng giác ngộ, vì điều họ
thiếu sót là kinh nghiệm bản thân, chính họ không tự chứng được những
điều nầy.
Ta cũng tự biết với một chút phán đoán thông minh rằng không có gì là
một khối cứng rắn. Nếu không sẽ không có cơ thể chúng ta, mà chỉ có
những cái xác người. Nhưng đó là sự phán đoán của lý trí. Chưa đủ. Ta
còn phải cảm nhận được điều ấy. Khi ta cảm nhận được như thế trong Thiền
định, ta thật sự ‘biết’. Không ai có thể bàn cãi gì được về những kinh
nghiệm của chính bản thân ta. Ngay chính như nếu có ai đó nói với ta rằng:
‘Không. Không phải vậy. Thân ta là một khối. Sao bạn không thử nắn thân
thể mình thì biết. Nó là một khối cứng rắn, phải không?’, ta cũng sẽ không
muốn bàn cãi, không để bị thuyết phục. Như khi có người tranh luận về
những điều Đức Phật dạy, Ngài đã không cãi lại. Ngài không phải bảo vệ
cho giáo lý của mình. Vì Ngài đang nói về các kinh nghiệm tự chứng.
Với sự chú tâm nhất quán, thậm sâu, ta có thể ‘thấy’ được những thay đổi
không ngừng trong ta. Chính tâm ta cảm nhận được điều đó, bên trong cơ
thể ta, vây thì tâm phải đứng ngoài mới nhìn thấy được, vậy làm sao nói
được ta là một khối rắn chắc. Tâm có thể nói rằng: ‘Nếu luôn luôn có sự
chuyển đổi bên trong ta, vậy thì cái ‘tôi’ ở đâu?’ Tất cả các cảm giác luôn
thay đổi. Phút trước có, phút sau không. Cơ thể luôn biến đổi. Không có gì
để ‘tôi’ bám víu vào. Tư tưởng luôn thay đổi, vậy ‘tôi’ ở đâu? Nhưng dĩ
nhiên là con người chạy tìm một hình ảnh tưỡng tượng để ẩn trúù vào như
là một con người siêu phàm (higher self), một tâm linh, một linh hồn, v..v...
Nhưng xét kỹ ra, tất cả đều là ảo tưỡng. Chúng ta phải chấp nhận vô
thường.
Một đăc tính nữa của việc hành Thiền, chính là phương pháp Thiền mà
Đức Phật đã nhắc đến trong lúc thuyết giảng về nền tảng của sự chú tâm,
thiền quán về bốn yếu tố: đất nước, gió, lữa. Cảm giác về sự cứng rắn trong
cơ thể thuộc về đất. Chúng ta cũng cảm được thể rắn chắc trong chiếc bồ
đoàn ta ngồi. Yếu tố rắn chắc (Đất) có mặt ở khắp mọi nơi. Ngay cả trong
nước cũng có, nếu không, ta đã không thể lội trong đó, hay đặt thuyền lên
nước. Yếu tố đó có cả trong không khí, nếu không chim, máy bay không
thể bay trong đó.
Yếu tố Lửa -nhiệt độ- cũng ở khắp nơi. Nếu để ý, chúng ta có thể cảm
thấy sức nóng trong thân mình. Thường ta chỉ để ý đến yếu tố nầy khi đang
lạnh cóng, bị nóng quá hay lúc bị cảm sốt. Nhưng nhiệt độ luôn có mặt
trong cơ thể ta. Cũng như trong tất cả mọi sinh vật.
Yếu tố Nước ở trong máu, nước miếng, nước tiểu của chúng ta. Yếu tố
nước cũng là sức kết, bện. Khi ta có bột, đổ nước vào, bột sẽ dính vào
nhau. Nước là yếu tố kết, bện có mặt ở khắp mọi nơi. Không có nó, tất cả
các tế bào di chuyển trong thân ta, sẽ tan rã. Chúng ta sẽ không thể ngồi
đây nều không có nó để giữ cơ thể chúng ta lại.
Tất cả những khám phá nầy thật lý thú phải không? Nhưng chúng cũng vô
dụng nếu ta không kinh nghiệm được chúng. Chúng sẽ vẫn chỉ là những
kiến thức tiêu khiển trong lúc tán gẫu với bạn bè. Nhưng khi ta có thể tự
kinh nghiệm được, chúng sẽ trở thành sự hiểu biết sâu sắc bên trong, về vật
chất quanh ta. Trí tuệ, sự nhận biết được bản chất thật của sự vật là điều
Đức Phật thường hay nhắc tới.
Cuối cùng là yếu tố không gian (Gió). Có không gian - những chỗ mở-
trong ta, như là lổ mũi, bên trong miệng. Ngay trong nội tạng cũng có
những chỗ mở. Vũ trụ là không gian. Nếu chúng ta nhận ra được những
điều nầy, chúng ta sẽ thấy là tất cả đều cùng một thể, ta sẻ bớt được những
suy nghĩ như -’Đây là tôi và tôi sẽ chỉ lo cho một mình tôi, không cần biết
đến thế giới quanh tôi. Mong là họ cũng sống an lành, nhưng đừng có trông
cậy vào tôi’. Khi chúng ta nhận ra rằng chúng ta có cũng chỉ là do các
duyên hợp lại, rồi tan đi, chúng ta không là gì ngoài bốn thứ gió, lửa, đất và
nước họp lại, thì ‘tôi’ là gì, đến nổi lúc nào ta cũng chăm chăm bảo vệ nó
bằng mọi cách. Và thế giới còn lại, người chung quanh ta là gì, để ta phải
cảm thấy bị họ đe dọạ?
Thiền là nhắm đạt được giác ngộ; và giác ngộ là mục đích của người Phật
tử tu thiền. Các phương tiện là những dụng cụ. Ta sử dụng chúng cách nào
cho hữu hiệu hơn cả. Mỗi người một cách khác nhau. Nhưng ta càng sử
dụng chúng thuần thục, thì kết quả càng nhanh chóng, dễ dàng hơn. Nên
nhớ phải chú tâm vào phương tiện, không vào kết quả. Chỉ có như thế thì sự
tinh xảo, thuần thục mới đến với chúng ta.
---o0o-   
            Chương 3 - Thanh tịnh Và Tĩnh Giác
Có rất nhiều phương pháp tu Thiền. Trong “Thanh Tịnh Đạo” (Path of
Purification) có hơn bốn mươi cách được liệt kê, nhưng chỉ có hai phương
hướng, hai con đường ta phải đi đến: Thanh tịnh và Tỉnh giác. Thanh tịnh
và Tỉnh giác luôn đi đôi với nhau. Giống như phương hướng, và mục tiêu.
Ta phải biết con đường để đi đến mục tiêu.
Ta cần phải thực tập cả hai phương cách, Thanh tịnh và Tỉnh giác, để đạt
được những kết quả mà Thiền sẽ mang đến cho ta. Phần đông chúng ta đều
muốn được an lạc. Ai cũng muốn được bình yên, muốn được có cảm giác
vui sướng, mãn nguyện. Trong Thiền định, nếu ta thoáng bắt được cảm giác
an lạc đó, ta sẽ hạnh phúc biết bao. Nhiều người đã thỏa mãn khi đạt được
đến trình độ đó. Nhưng thanh tịnh không phải là mục đích của Thiền. Đó
chỉ là phương tiện đưa đến cứu cánh. Thanh tịnh là phương tiện. Sự tỉnh
giác trong nội tâm mới là cứu cánh. Phương tiện rất cần thiết nhưng không
thể lầm lẫn chúng với cứu cánh. Nhưng vì phương tiện đó tạo ra sự thoải
mái, dễ chịu, ta trở nên bám víu vào chúng.
Vấn đề của chúng ta là luôn chạy đuổi theo sự dễ chịu và xa lánh sự khó
chịu. Vì chúng ta coi mục đích của cuộc đời là được dễ chịu, hạnh phúc,
nên dường như ta chẳng có mục đích gì cả trong cuộc đời. Không thể nào
tước bỏ hết tất cả những điều khó chịu, đau khổ trong đời, mà chỉ giữ lại
những gì ta ưa thích. Chừng nào ta còn coi đó là mục đích của mình thì ta
không có mục đích gì cả. Trong Thiền cũng thế.
Như thế thì làm cách nào chúng ta có thể đạt được sự thanh tịnh, và điều
đó ảnh hưởng đến chúng ta như thế nào? Bằng cách thực tập chú tâm vào
hơi thở, dần dân ta sẽ tìm được sự thanh tịnh. Tâm ta sẽ ngưng suy nghĩ
trong một giây phút nào đó, và ta sẽ cảm thấy hoàn toàn thư thái, dễ chịu.
Tâm suy nghĩ không bao giờ được thư thái, vì suy nghĩ là một quá trình
chuyển động, và bất cứ sự chuyển động nào cũng tạo ra ma xát. Tuy nhiên
ta có thể tìm được sự thanh tịnh trong một giây phút nào đó, hay dài hơn,
nếu ta tiếp tục tu tập và tăng thời gian tham Thiền lên. Điều đó không có gì
khó. Có thể lúc đầu ta thấy khó khăn, nhưng với sự kiên trì, nhẫn nại, một
chút duyên lành và một nơi yên tĩnh, ta có thể làm được điều đó.
Chắc rằng chúng ta đều có duyên lành, nếu không ta đã không có mặt nơi
nầy. Những người có ác nghiệp sẽ không tìm được đến với Thiền, hoặc giả
như có, họ cũng không trụ lại. Do đó nói ta đã có sẵn duyên lành là vậy.
Về lòng kiên nhẫn, bạn cũng không thiếu, nếu như bạn đã chịu khó đọc
đến những dòng nầy. Chỉ cần thêm một yếu tố nữa đó là ý chí, sự quyết
tâm. Khi ngồi xuống chiếu Thiền, bạn cần tự nhủ: ‘Tôi sẽ chú tâm vào từng
hơi thở, nếu tôi có lơ là, tôi sẽ bắt đầu trở lại”. Cần làm như thế để giữ cho
tâm thăng bằng, giống như người đi trên dây xiếc. Mỗi lần lao đao, ta phải
lấy lại thế cân bằng. Vì thế ta cần có sự quyết tâm.
Khi cảm giác thanh tịnh, thư thái dấy lên -- cái cảm giác mà Phật gọi là sự
thanh tịnh ngay giờ phút hiện tại -- rồi qua đi, không thể khác được, vì bất
cứ điều gì đã có sinh thì phải hoại, phản ứng đầu tiên mà tâm phải có là
nhận ra tính cách vô thường của sự vật, chứ không phải để thất vọng kêu
lên: “Ồ, nó lại qua mất rồi”. Hoặc là “Cảm giác vừa rồi dễ chịu quá, làm
sao để có lại cảm giác ấy”, như cách ta vẫn phản ứng lâu nay.
Sống theo Pháp, hành theo Pháp, là những hành động không bình thường.
Khác với mọi người chung quanh. Khi Phật còn ngồi dưới cây bồ đề, trước
khi Giác ngộ, khi Sujata mang dâng ngài sữa trong chiếc tô vàng, cô cũng
cúng dường luôn chiếc tô quí. Đức Phật sau khi uống xong, đã thả chiếc tô
vàng xuống dòng sông trước mặt, và nói nếu như cái tô chảy ngược với dòng
nước sông, Ngài sẽ giác ngộ. Và cái tô đã chảy ngược dòng. Điều đó có thể
xảy ra không? Có lẻ pháp thoại đó muốn nhắn nhủ với chúng ta rằng khi ta
sống với Pháp, chúng ta phải đi ngược lại với dòng chảy của bản năng, của
các khuynh hướng tự nhiên. Chúng ta phải đi ngược lại với những sự dễ dãi,
thoải mái, những gì tất cả mọi người khác đều theo đuổi. Chảy ngược dòng
bao giờ cũng khó hơn là thuận, xuôi theo dòng.
Cảm giác thoải mái, tự tại mà ta cảm nhận được trước hết ở thân, rồi đến
tâm, cũng sẽ qua đi. Chúng ta phải nhận ra tính cách vô thường của nó, để
ta có thể sử dụng nó cho một mục đích. Nếu không, ta chỉ sử dụng cảm
giác thanh tịnh đó cho sự thoải mái của riêng ta. Mà chỉ để thoải mái cho
thân ta là ta đã ích kỷ, chỉ biết đến riêng mình, không phải là để tiến tới vô
ngã, là cái gốc của những điều Phật dạy.
Giáo lý của Đức Phật nhằm hướng ta đến vô ngã. Ngài nói: “Ta chỉ dạy
một điều, đó là giải thoát, chấm dứt khổ đau”. Điều đó không có nghĩa là tất
cả khổ đau trên đời đều chấm dứt. Điều đó có nghĩa là nếu không có một
cái tôi để đón nhận khổ đau, thì không có khổ đau. Cái tôi sẽ biến mất. Nếu
không có ai ở đây có vấn đề, thì làm gì có vấn đề? Nếu dùng cảm giác tự tại
chỉ cho riêng mình, thì ta đã đi ngược lại với lời Phật dạy.
Luôn trở về với hơi thở sẽ giúp ta đạt đến trạng thái thanh tịnh. Chánh
niệm, trong Bát Chánh Đạo, dạy ta sự chú tâm đúng, đưa đến thiền định.
Theo dỏi hơi thở là việc cần làm, nhưng không có ai đạt được thiền định chỉ
bằng ao ước hay một vài buổi ngồi thiền. Tất cả cần có thời gian. Do đó
khi ngồi Thiền, ta cần đưa bất cứ vọng tưởng nào dấy lên trở về với sự tỉnh
thức. Bất cứ ý tưởng nào cũng thế, chúng không phải đến để phá rối chúng
ta, cũng không phải là dấu hiệu chứng tỏ ta không thích hợp với Thiền,
cũng không phải cảm giác làm ta thấy quá nóng, hay quá lạnh. Không có gì
giống như thế cả. Vọng tưỡng không phải là kẻ phá rối trật tự của chúng ta.
Chúng là ông thầy của chúng ta.
Mỗi vọng tưỡng là một ông thầy, ‘dạy’ cho ta biết tâm ta lăng xăng, không
thể nương tựa, không thể tin cậy được. Nó suy nghĩ cả về những điều ta
không muốn nghĩ đến, cả khi ta chỉ muốn được hoàn toàn yên tĩnh và tự tại.
Trước hết, ta cần biết là tâm không phải là một phần tuyệt vời của chúng ta,
dù rằng nhờ nó ta có thể thâu thập được kiến thức, có thể hồi tưỡng, có
thể hiểu một số khái niệm và phạm trù. Tuy nhiên nó là một cái tâm lăng
xăng, luôn thay đổi và nó sẽ không làm những gì chúng ta đòi hỏi ở nó.
Điều thứ hai, ta cần nhớ, là khó thể tin vào tâm. Ta không nên tin vào tất
cả mọi tư tưởng qua đầu ta. Chúng đã đến không mời mọc, thì tự chúng
cũng sẽ ra đi. Chúng chẳng có ích lợi gì, nhất là khi ta đang ngồi thiền.
Chúng có thể là những gì đã xảy ra trong quá khứ. Hay chỉ thuần là vọng
tưỡng. Đôi khi chúng làm ta khó chịu, hay chỉ nhẹ nhàng như một giấc mơ.
Có khi chúng đến lộn xộn không đầu đuôi. Chúng nhanh chóng đi qua
đầu ta, trước khi ta kịp nhận mặt chúng. Vậy tại sao ta lại tin vào những
điều mình thường suy nghĩ?
Trong lúc ngồi Thiền, chúng ta có cơ hội để quan sát tâm -tư tưởng đi qua
trong đầu- và luyện tập không để bị chúng lôi kéo. Thế thì tại sao trong đời
sống hằng ngày ta lại tin vào chúng và để chúng lôi kéo ta theo? Khi tâm
nói “Người nầy thật xấu”, “Người kia nói láo”, ta tin theo những điều đó.
Khi tâm nói “Tôi chán quá. Mệt mỏi quá”, “Tôi cần thứ nầy” hay “Tôi phải
có thứ kia”, ta nghe theo. Ta tin theo tất cả - nhưng tại sao ta phải tin
chúng? Trong khi tất cả mọi suy tưỡng đều xảy ra theo một tiến trình,
trong đời thường cũng như lúc hành thiền. Tư tưỡng dấy khởi lên, dừng lại
trong chốc lát, rồi qua đi không theo một mẫu mực nào hay lý do nào.
Khi đã thực sự nắm bắt được ý nghĩa của tiến trình nầy, ta có thể thay đổi
những suy nghĩ hiện lên trong đầu và các tư tưởng ta muốn nghĩ tới. Điều
đó có thể thực hiện được khi ta không còn tin vào những điều tâm nói nữa,
mà chỉ quan sát tiến trình của chúng. Cũng như với không khí chung quanh
ta. Ta không nắm không khí trong tay và bảo rằng không khí là của riêng
mình, dầu rằng không có nó ta không thể nào sống nổi. Đơn giản là không
khí có mặt ở mọi nơi. Tư tưởng cũng thế. Tiến trình của tư tưởng xảy ra tự
nhiên trong tâm ta, và khi nào chúng ta còn sống, tiến trình đó triền miên
tiếp tục, dầu rằng chúng không đáng tin, không thể dựa vào. Bởi thế, nếu ta
có thể gạt bỏ phần lớn các suy tưởng trong đầu mình, thì lại tốt hơn.
Ta còn có thể quan sát về tâm ở một khía cạnh khác. Là khi ta ngồi thiền,
nhưng không thể tập trung tư tưởng, khi ta buồn ngủ, không chú tâm, ta
hiểu rằng khi tâm không được ‘giải buồn’, nó muốn ngủ. Tâm luôn muốn
được tiêu khiển. Nó cần đọc sách, coi TV, thăm hàng xóm, nó cần được làm
một thứ gì đó, bất cứ thứ gì để giải buồn, để được bận rộn. Nó không chịu
ngồi yên. Đó là một điều thú vị để biết về chính mình.
Hãy tưỡng tượng bạn phải ở một mình trong một tuần, chỉ một mình,
không có bất cứ thứ gì để tiêu khiển. Bạn sẽ coi đó là cực hình, mà thực
vậy, vì tâm không thể chịu đựng nổi. Nó luôn cần được ‘cho ăn’. Giống
như thân cần được ăn, tâm cũng vậy. Nó cần một thứ gì đó từ bên ngoài,
vì chính tự nó không thể thỏa mãn với chính mình. Khi ngồi thiền, ta sẽ
khám phá ra điều đó về tâm.
Nhưng các vọng tâm thì vô thường. Chúng dấy lên, rồi qua đi. Chúng
không luôn có mặt như hơi thở của ta. Nếu chú tâm ta sẽ nhận biết khi nào
vọng tưỡng dấy khởi. Khi chúng qua đi, dễ nhận biết hơn là khi nào chúng
đến. Ta không thể giữ chúng lại phải không? Tất cả những suy nghĩ nửa
giờ trước đây đã qua đi phải không?
Vô thường và vô sỡ hữu: ta đâu có làm chủ được chúng, phải không? Và
chúng cũng chẳng đáng để ta giữ lại, phải không? Vậy tại sao ta muốn làm
chủ chúng? Muốn nghĩ chúng là ta? Sao không nghĩ chúng chỉ là một hiện
tượng tự nhiên hiện ra, rồi tan mất. Chỉ có thế. Cũng thế, với thân nầy -nó
có thực là ta không? Nó cũng chỉ là một hiện tượng tự nhiên phát sinh ra
bằng khái niệm, và tan biến đi qua cái chết., một định luật tự nhiên, một sự
kiện tự nhiên mà nếu còn chấp Ngã ta không thể nào chấp nhận được điều
đó.
Chấp Ngã hay ngã mạn không có nghĩa là ta ngạo mạn. Chấp Ngã đồng
nghĩa với u mê. Chỉ có các vị A-la-hán là không có ngã mạn. Ngã mạn có
nghĩa là ta đang nhìn thế giới và bản thân từ quan điểm của ‘cái tôi’, qua cái
nhìn đó, thế giới bên ngoài cũng như người chung quanh ta trở nên là mối đe
dọa của chúng ta, vì ‘cái tôi’ của ta dễ vỡ, dễ bị chạm và dễ đau khổ.
Tất cả các vọng tâm dấy lên khi ngồi thiền sẽ giúp cho chúng ta hiểu về
chính mình hơn, về tính cách vô thường của các hiện tượng, của thân, tâm,
về tính vô sở hữu của chúng. Nếu ta thực sự làm chủ những suy nghĩ của
mình, thì tại sao ta lại không làm chủ những suy nghĩ đáng có? Ai muốn
làm chủ một đống rác? Như tôi sẽ cố gắng để những vật thuộc sỡ hữu của
tôi trở thành quí báu.
Điều thứ ba ta rút ra được từ sự quán tâm là: đây là dukkha (đau khố) hay
sự không vừa lòng, không thỏa mãn. Dukkha không chỉ có nghĩa là sự khổ
đau, mà còn bao gồm tất cả những điều không như ý, là một khái niệm bao
quát hơn, gồm tất cả những gì ta đã kinh nghiệm qua, cả những việc vừa ý
cũng làm ta khổ vì chúng sẽ qua đi (vô thường). Sự không như ý của quá
trình tư duy sẽ hiện ra rất rõ trong thiền quán, vì ở đây trong lúc ta thực sự
muốn chú tâm, ta lại chỉ toàn ngồi suy nghĩ vẩn vơ.
Ta phải nhận biết về tính cách vô thường, không như ý và vô ngã bằng
chính kinh nghiệm bản thân của mình. Không ai ‘biết’ ba điều nầy mà
chẳng từng kinh qua chúng. Nếu ta không thực sự hiểu một cách trực tiếp
bằng nội tâm của mình thì chúng chỉ là những lời hoa mỹ, ở đầu môi. Vì
nhiều người vẫn kinh nghiệm những điều nầy từng giây phút, nhưng chẳng
hề nhận ra được chúng.
Chúng ta đang chết từng giây phút, nhưng chúng ta cũng chẳng để ý đến
điều đó. Cần phải có chánh niệm để nhận biết chúng, và chánh niệm là điều
ta có thể đạt được trong quá trình tu tập thiền. Hảy quan sát sự không như ý
trong tiến trình tư duy như là một đặc tính không thể thiếu của nó.
Nếu ta có thể nhìn mọi sự vật như chúng hiện hữu, bằng con mắt tỉnh giác,
thì ta đã hiểu điều Phật dạy. Thiệt là vô ích để ngồi đó nghĩ “Giá mà tôi
không suy nghĩ”, “Giá mà tôi có thể chú tâm”, “Giá mà ngồi thiền không
khó thế nầy” hay “Giá mà chân phải tôi không đau đến thế”. Đó là mộng.
Đó là ước mơ. Chúng ta không thể chỉ ngôi mơ mộng hay ước mơ nếu
chúng ta muốn thấu đạt được nguyên nhân đã làm ta đau đớn.
Phật đã nói tất cả chúng sinh đều bịnh, và Pháp là thuốc chữa. Phật có
danh hiệu là Đức Y Vương. Như với mọi thứ thuốc chữa bịnh khác, nếu
chúng ta chỉ biết về chúng hay đọc toa thuốc thì không thể hết bịnh. Nhân
loại đã đọc toa thuốc hàng ngàn năm nay. Hãy ngưng đọc toa thuốc để
uống thuốc. Khi đã phân biệt được sự khác biệt giưã đọc toa thuốc và uống
thuốc, ta sẽ dễ dàng biết mình phải làm gì.
Khi cảm giác khó chịu dấy lên vì phải ngồi nguyên một chổ, tâm thức sẽ
lên tiếng phản đối, cằn nhằn. Nó vội nói “Tôi không thích chút nào. Thiệt
khó chịu hết sức. Tôi sẽ không chịu nổi nữa. Tôi cần ngồi lên ghế”, “hay
“Tại sao phải ngồi như thế nầy? Tự cực hình mình à?” hay “Biết có đáng
không. Biết có đáng để chịu bao cực khổ ngồi thiền không”, và nhiều thứ
nữa. Tâm có khả năng nói với ta bất cứ điều gì. Nó có thể nói về mọi vấn
đề, và mọi khía cạnh của vấn đề. Nó vừa đề cao một vấn đề đã quay ra hất
đổ. Bất cứ tâm của ai cũng làm thế được. Tâm có thể xoay ngang, trở
ngửa.
Đừng ngồi đó nghĩ “Tôi không thích chút nào, chân phải của tôi, lưng tôi,
cổ tôi -hay bất cứ thứ gì - đau quá”. Không. Hãy sử dụng các cảm thọ vừa
dấy lên như một cách để tỉnh giác. Cảm thọ là nền tảng của cuộc sống.
Nhưng chúng ta phản ứng thế nào là do sự tiếp xúc với các căn của ta: Sắc,
thanh, hương, vị, xúc và thức. (Đức Phật nói về tâm, quá trình tư duy như là
giác quan thứ 6 của ta). Thí dụ như nếu ta không nhìn thấy, thế giới sẽ khác
hơn bây giờ. Hay điếc. Hay câm... thiếu một giác quan nào cũng thay đổi
cái nhìn của ta về thế giới bên ngoài. Nhưng khi có đủ sáu căn, tiếp xúc với
sáu trần, từ đó sinh ra các cảm thọ, các phản ứng.. Điều đó không thể tránh.
Chúng ta không thể không có cảm xúc. Một vị A-la-hán cũng có cảm thọ -
dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Ai cũng có cảm thọ. Cảm thọ trung tính có
thể ta không biết đến vì ta chưa có sự chú tâm đủ. Chúng ta chưa đủ chánh
niệm. Nhưng với các cảm thọ dễ chịu ta nhận biết ngay, ta bám víu vào
chúng, và tìm mọi cách để giữ chúng lại. Mọi nền kinh tế trên thế giới đều
dựa vào việc tạo nên các cảm thọ dễ chịu, và tìm cách làm cho người ta
càng muốn thụ hưỡng chúng nhiều hơn. Nếu mọi người đều từ bỏ các cảm
thọ dễ chịu, thì có mấy nền kinh tế trên thế giới đứng vững được. Các cảm
thọ dễ chịu phát sinh ra nhờ quạt máy, tủ lạnh, nệm êm, nước nóng, nước
lạnh, đủ loại thực phẩm và còn nhiều, nhiều nữa.
Ai cũng có cảm thọ: dễ chịu, khó chịu hay trung tính. Chúng dấy khởi
liên tục. Phần đông chúng ta bỏ cả cuộc đời mình để đi tìm, nắm giữ các
cảm thọ dễ chịu, và xua đuổi, trốn tránh các cảm thọ khó chịu. Một cuộc
chiến đấu vô vọng. Không tưỡng. Vì không ai có thể nắm giữ mãi các cảm
thọ dễ chịu. Cũng không có ai có thể trốn tránh các cảm giác khó chịu
mãi. Khi ta già đi -các cảm thọ khó chịu tăng lên so với lúc trẻ. Không có
sự ngoại lệ đối với ai cả. Đó là định luật tự nhiên. Cái chết sẽ đến, đi kèm
theo với những cảm thọ khó chịu. Tuy nhiên các khổ thọ nầy không chỉ
dành cho tuổi già, cho những người gần đất xa trời. Các người trẻ nhất,
mạnh nhất cũng đầy những cảm giác, tình cảm khó chịu, đau khổ.
Nếu ta quyết ngồi yên giây lát, tự soi lại mình, không còn chạy trốn các
cảm giác khó chịu, đau khổ, bám chặt vào các cảm giác dễ chịu -có thể chỉ
trong một buổi thiền- ta sẽ biết về mình rất nhiều. Quan sát các khổ thọ dấy
lên trong khi ngồi thiền -điều nầy sẽ xãy ra cho nhiều người trong chúng tacũng
là một cách để tìm hiểu các phản ứng hành động của chính mình. Ta
muốn thay đổi cảm giác đó, muốn chạy trốn nó. Một phản ứng gần như
phản xạ, lập tức đối với cảm giác khó chịu là di chuyển, thay đổi thế ngồi
để tránh sự đau đớn càng sớm càng tốt.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta trốn tránh các khổ thọ bằng cách trốn
tránh, xa lánh những người đã tạo cho ta các cảm giác đó, chạy trốn hoàn
cảnh, đổ lổi cho người khác, thay vì nhận biết các cảm thọ của mình và nói:
“À, nó đã dấy lên. Nó sẽ ở lại giây lát, rồi đi qua. Không có gì tồn tại.
Nếu ta nhận biết được cảm thọ của mình, là ta đang soi lại nó trong chánh
niệm, thay vì phản ứng bằng hành động”.
Phản ứng của chúng ta, bằng cách xua đuổi các khổ thọ, bám giữ các lạc
thọ, là lý do khiến chúng ta luẩn quẩn trong vòng luân hồi sinh tử, vì ta
không có một phương hướng, một ngã rẻ nào khác. Đó là sự chuyển động
trong một vòng tròn. Ta không thể thoát khỏi sức hút của nó. Đó là một trò
chơi quay vòng. Không có lối ra. Chúng ta quay vòng, quay vòng theo lạc
thọ, xua đuổi các khổ thọ, một vòng tròn không kẻ hỡ. Chỉ có một cách để
thoát khỏi sức hút đó, là ngưng lại quan sát các cảm thọ và không phản ứng
bằng hành động. Nếu trong lúc ngồi thiền, ta có thể làm được như thế dù chỉ
trong giây lát, thì ta cũng có thể làm được như thế trong các sinh hoạt đời
thường.
Tất cả chúng ta ai chẳng từng buồn phiền, khổ đau trong cuộc đời. Người
nầy nói lời trái tai ta không muốn nghe. Kẻ khác làm những điều ta không
muốn thấy. Ta bị hiểu lầm, người khác không nhớ ơn ta, không ngợi khen,
không thương yêu ta. Người ta bỏ đi khi ta muốn giữ họ lại. Họ ở bên ta,
khi ta muốn xa lánh họ. Không ai tránh khỏi những đau khổ nầy. Chính
Đức Phật cũng không tránh khỏi. Đức Phật chỉ khác chúng ta là Ngài chỉ
cảm nhận các cảm thọ, mà không phản ứng bằng hành động.
Chỉ nhận biết các cảm thọ. Khi các cảm giác khó chịu dấy lên vì phải ngồi
lâu một chổ, đừng trách móc ai, hay việc gì. Không có ai hay việc gì tạo ra
các cảm giác đó cả. Chúng chỉ đến rồi đi. Quan sát và nhận biết cảm gíac
đó. Ta sẽ không thể thay đổi được gì, trừ khi ta có thể tách mình ra khỏi
cảm giác khó chịu đó, để không đau khổ vì nó. Ta không thể làm khác hơn
thế. Trong hòan cảnh nầy ta chỉ cần biết các cảm giác khó chịu cũng chỉ là
cảm giác. Không ai là chúng cả. Ta đâu có mời chúng đến. Vậy tại sao lại
nhận chúng là mình?
Trừ khi chúng ta nhận biết được những gì xảy ra cho tâm khi những cảm
giác nầy dấy lên, chúng ta sẽ lại rơi vào thói quen phản ứng của mình.
Những suy nghĩ quen thuộc, các phản ứng theo thói quen, ngày nầy qua
ngày khác đã tạo thành rãnh, thành nếp trong tâm tưỡng ta. Giống như một
con đường sình lầy, khi bánh xe chạy qua chạy lại, các vết lún, càng lún sâu
thêm. Tâm của ta cũng thế. Các vết lún sâu, sâu mãi cho đến lúc ta bị dính
cứng một chổ, không thể tiến tới nữa.
Đây là cơ hội, hòan cảnh thuận tiện để chúng ta quan sát phản ứng của tâm
đối với các cảm giác khó chịu. Đừng phân tích “Ngồi như vầy máu không
lưu thông được, không tốt cho tôi, các bác sỉ đã nói...”. Chỉ quan sát phản
ứng của tâm. Tâm ta rất khôn ngoan, lém lỉnh. Nó có thể làm tất cả mọi
việc. Ta gọi nó là nhà ảo thuật, cũng không sai. Nó có thể biến hóa ra con
thỏ trong chiếc nón không. Nó có thể phân tích, lý luận đến chỗ mà ta thấy
tất cả mọi người khác đều sai, và ta thì luôn luôn đúng.
Đó là điều ta phải luyện tập trong lúc tu tập thiền: Không thể lúc nào ta
cũng hòan toàn đúng, 100 phần trăm đúng. Phần lớn chúng ta tranh cãi đều
để bảo vệ một lập trường, dựa trên quan điểm của chính cá nhân ta. Vì ta
chấp ngã, chấp có ‘cái tôi’ ảo tưỡng, tất cả các quan điểm, ý kiến của chúng
ta đều được lọc qua con mắt của Ngã. Nếu ta nhìn qua một màn kính màu
đen, tất cả mọi thứ bên ngoài đều đen. Không thể là gì khác hơn thế.
Khi ta đã thấu rõ tâm, cũng như các phản ứng của nó qua thiền định, chúng
ta dễ chấp nhận sự thật là khi ta nghĩ một điều, bốn triệu người khác có thể
nghĩ về một điều hòan toàn khác ta. Làm sao có thể là ta đúng và bốn triệu
người còn lại sai? Chúng ta tranh cãi bảo vệ cho những quan điểm -đôi khi
có thể đúng- nhưng chỉ đúng trong hòan cảnh, cái nhìn của riêng ta. Chỉ có
các vị A-la-hán, những người đã không còn chấp Ngã, là có thể hoàn toàn
đúng.
Tất cả các phương pháp nhằm giúp ta đạt được sự tỉnh giác, cần được áp
dụng không phải chỉ trong lúc tâm đang theo dỏi hơi thở, mà cả khi tâm
phản ứng theo cảm thọ, hay vọng tưởng. Ta cần phải luôn áp dụng chúng để
đạt được sự tỉnh giác, và từ đó đưa đến sự an lạc. Mỗi phút tỉnh giác là mỗi
phút thanh tịnh. Khi không còn cần phải để ý đến các suy tưởng của mình,
ta dễ buông bỏ chúng hơn. Khi không còn cần phải phản ứng theo các cảm
thọ, ta dễ buông bỏ các hành động, phản ứng. Mỗi phút thanh tịnh cũng là
mỗi phút tỉnh giác. Cả hai đi đôi với nhau như hình với bóng.
Những điều Phật dạy đi ngược lại với bản năng của chúng ta, do đó không
dễ cho ta chấp nhận, thấu hiểu. Chỉ có tâm đã được tôi luyện mới có thể
thấu hiểu được Phật pháp. Trong khi tâm bình thường nghi ngờ, lý luận -đó
chỉ là việc làm lãng phí thời gian, vô bổ. Muốn thật sự hiểu được Phật pháp
bằng chính nội tâm của mình, ta phải nhiếp tâm, giữ tâm tĩnh lặng, và tâm đó
phải biết bản chất thực của Ngã, chỉ là những hiện tượng đến, rồi đi.
Tất cả có thể xảy ra trong lúc ta ngồi thiền và theo dõi hơi thở: Thanh tịnh
và tỉnh giác. Tỉnh giác (Minh Sát Tuệ) là mục đích. Thanh tịnh là phương
tiện. Nếu tâm không thanh tịnh, tâm sẽ đầy những luồn sóng, sóng của sự
ghét, sự ưa. Các làn sóng sẽ phủ trùm mắt nhìn của ta. Ta sẽ không thể soi
thấy mình trên một mặt hồ đầy sóng phủ. Mặt nước phải lặng, trong. Cũng
thế, mặt hồ tâm cũng phải lặng, trong trước khi tâm được khai sáng. Lúc đó
ta mới có thể thấy thấu suốt, rõ ràng.
Thiền định cũng đem lại cho ta những kết quả tương tự. Khi chúng ta chú
tâm, theo dỏi từng cử động, thanh tịnh sẽ đến. Nếu vọng tưỡng có dấy lên,
ta dùng chúng để nhận biết những diễn biến của tâm.
Việc đặt tên các vọng tưởng cũng là một cách để theo dõi tâm, trong lúc
ngồi thiền, cũng như trong các sinh hoạt hàng ngày. Khi có tâm sân si dấy
lên, người có chánh niệm sẽ biết buông bỏ chúng. Đó là phương thức để
thanh tịnh hóa tâm. Và sự thanh tịnh của tâm tùy thuộc vào sự thanh tịnh
hóa của tâm. Sự thanh tịnh hóa cũng có thể đạt được qua tỉnh giác, qua sự
‘biết’ chính mình. Việc đặt tên cho ta biết tâm đang nghĩ gì. Nhưng khi
thực tập thiền, tất cả các tên đặt, các tư tưởng đều phải được buông bỏ.
Trong đời sống hằng ngày, những thứ tên gọi không ích lợi, không tốt cần
được buông xả. Khi ta đã làm được như thế là ta đã thanh tịnh hóa tâm.
Con đường dẫn đến sự thanh tịnh chấm dứt mọi khổ đau.
---o0o--
                     Chương 4 - Tứ Vô Lượng Tâm
Trong mỗi chúng ta có bốn người bạn tốt (tứ vô lượng tâm), sẳn sàng giúp
đỡ ta. Tuy nhiên cạnh đó ta cũng có năm kẻ thù chực chờ nhảy ra tấn công
bất cứ lúc nào. Chúng không bao giờ để ta yên. Nhưng vấn đề là có mấy ai
trong chúng ta đủ sức mạnh để đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ cho những người
bạn tốt của mình. Lại có người còn không biết rằng đó là việc tốt, nên làm.
Bốn người bạn đó là bốn tánh tốt của ta: Từ, Bi, Hỉ và xả. Ta phải tìm
kiếm chúng trong tim mình. Nếu không thể tìm ra, và tự biết đó là một thiếu
sót của mình, ta phải bắt đầu lo tạo ra chúng, phát triển chúng.
1. TỪ
Ngôn từ thật nguy hiểm. Chúng tạo cho chúng ta một cảm giác của sự
trường tồn, bất biến. Chúng ta bị phủ lấp bởi ngôn từ, nhưng chúng chẳng
khác gì hơn là những khái niệm. Chúng không có thật. Hãy tưỡng tượng ra
một dòng sông: danh từ ‘dòng sông’ không phải là thực thể của một dòng
nước chảy. Từ ‘dòng sông’ cố định: nhưng bản thể của dòng sông thì lưu
chuyển.
Từ tâm chỉ có thể xuất phát từ trái tim. Tâm Từ sẽ trở nên trống rỗng, vô
nghĩa, nếu nó chỉ nằm trong ngôn từ. Tự nó không có nghĩa gì, giống như từ
‘dòng sông’ sẽ gợi cho ta một cái gì đó, khi ta đã kinh nghiệm qua. Nếu ta
bảo với một đứa trẻ thơ về ‘dòng sông’, nó không biết ta nói gì. Nhưng nếu
bạn bỏ tay em xuống nước, để em cảm nhận dòng nước chảy, thì em sẽ thật
sự biết dòng sông là như thế nào, không kể em có biết đến danh từ ‘dòng
sông’ hay không.
Đối với Tâm Từ cũng thế. Danh từ ấy không có nghĩa gì. Chỉ khi nào bạn
cảm được nó từ trong tim mình, thì bạn mới hiểu những điều Phật đã nói về
tâm Từ trong các bài thuyết pháp của Ngài. Cuộc đời sẽ thiếu sót biết bao
khi không chứa đựng cả lý trí và tấm lòng. Nếu chỉ sống bằng trái tim, con
ngưòi dễ trớ thành tình cảm, một bản tính thường được đồng hóa với người
phụ nử. Tình cảm có nghĩa là ta phản ứng với mọi thứ, điều đó không tốt.
Lý trí cũng có chỗ đứng của nó. Con người cũng cần hiểu những gì xảy ra
quanh họ. Nhưng nếu chỉ hiểu với cái đầu, nó có thể vượt bực về kiến thức,
nhưng con tim sẽ thiếu đồng cảm. Tình và lý phải luôn đi đôi với nhau. Ta
phải hiểu bằng lý trí và phải dùng tình cảm một cách khôn ngoan. Tràn đầy
tình cảm, mang đến sự an lạc vàï hoà đồng cho trái tim.
Lòng Từ hay tình thương, không phải là tình cảm tạo nên bởi sự có mặt
của một người dễ thương, hay vì ta đang sống bên cạnh những người thân
của mình, hay một người đáng yêu. Uy quyền hay những phản ứng bản
năng cũng không liên quan gì đến loại tình cảm nầy. Yêu thương con cháu
của mình, yêu thương cha mẹ mình không khó khăn gì. Phần đông chúng ta
đều làm được, trừ một số ít. Nhưng tình thương đó không phải là tâm Từ
(Metta).
Khi Phật nói về tâm Từ, Ngài muốn nói đến thứ tình cảm không có sự
phân biệt trong trái tim. Tình cảm cao thượng đó đòi hỏi chúng ta phải yêu
thương tất cả mọi người như thể người mẹ yêu thương đứa con duy nhất của
mình. Tất cả những ai có con sẽ biết được sự khác biệt khi họ yêu thương
con mình và con người khác. Nhưng đó chính là điều ta phải sữa đổi. Nếu
không, ta khó thể hiểu về lòng Từ và sự quan trọng của nó.
Nếu bạn thấy một em bé bị té xe, ngồi khóc. tự nhiên là ta sẽ đỡ em dậy,
dổ em. Lòng Từ đó cũng không khó thực hiện. Khó là sự thể hiện lòng Từ
trong tâm ta với tất cả mọi người, kể cả những kẻ đáng ghét nhất. Không
phải tất cả chúng ta đều dễ thương, trừ các bậc A-la-hán. Ngay chính ta
cũng không hoàn toàn dễ thương, thì sao lại mong mỏi điều đó ở người
khác. Tại sao ta phải phân biệt giữa những người ta có cảm tình và người ta
không ưa. Chúng ta tự cho mình có lý khi không ưa những người mà theo
sự đánh giá của chúng ta, họ đã hành động sai quấy. Nhưng ngay chính ta,
đâu phải lúc nào ta cũng hành động đúng. Suy cho cùng trong chúng ta có ai
không từng làm những chuyện đáng hối tiếc. Tôi không biết về bạn, nhưng
chỉ cần soi lại chính mình, tôi cũng hiểu bạn thế nào. Ai cũng lầøm lổi, thì
tại sao lại đòi hỏi người khác phải hoàn toàn, muốn người khác làm chuyện
ta không thể làm được.
Có ba loại tâm Từ. Thứ nhất là lòng tốt (good-will). Chúng ta phải có
lòng tốt đối với nhau. Đó là điều kiện tiên quyết để sống với nhau. Nếu
chúng ta không tốt với nhau, ta không thể cùng ngồi thiền với nhau. Ta sẽ
đứng dậy, đi lung tung. Sẽ làm ồn ào khi mọi người quanh ta cần yên tĩnh.
Sẽ không có xứ sở nào tồn tại, nếu người ta không có lòng tốt với nhau. Bạn
có nhận thấy chúng ta lệ thuộc vào nhau rất nhiều không? Chúng ta cậy vào
người phát thư để có thông tin, nhờ người bán rau cải, nhờ nhà nông đểâ có
lương thực. Chúng ta lệ thuộc vào lòng tử tế của các nhà hàng xóm. Vì
lòng tử tế là điều kiện tối cần cho cuộc sống, chúng ta không thể thiếu nó,
không có nó cuộc sống sẽ đảo lộn.
Thứ hai là tình thân hữu. Ta cảm thấy gần gủi, thân thiện với một số
người như bạn bè, hàng xóm, người quen biết, người giúp đỡ chúng ta. Sự
thân thiện là một bước đến gần hơn với lòng Từ, nhưng chưa phải là lòng Từ
thật sự. Nó làm chúng ta thấy gần gủi với người khác, cũng như đem người
khác lại gần chúng ta, nhưng nó cũng có khía cạnh nguy hiểm của nó. Đó là
lòng ưa thích. Thường ta nghĩ chẳng có gì xấu trong đó, nhưng trong sự ưa
thích, đã có sự bám víu. Bám víu vào bạn bè ta, người quen, kẻ ban ơn cho
ta, người thân chung quanh ta. Sự bám víu đó sẽ khiến ta đau khổ, sân hận,
không phải đối với người thân của ta, nhưng đối với cái ý tưỡng là ta sẽ phải
mất họ. Sẽ sinh ra lòng sợ hãi, vì ta chỉ có thể sợ hãi những gì ta không ưa
thích. Do đó tình thương thuần khiết không còn nữa. Vì chính sự bám víu
đã làm hoen ố nó, làm cho nó không còn vẹn toàn. Không bao giờ ta có thể
tìm được an vui với thứ tình cảm đó. Điều đó thường xảy ra trong các gia
đình. Đó là lý do tại sao con người không thể tìm được hạnh phúc trong loại
tình thương đó.
Tuy nhiên tình thương chúng ta dành cho người thân trong gia đình mình
có thể dùng làm hạt giống để vun trồng lòng Từ. Rồi từ đó ta phát triển,
nhân rộng nó lên. Chỉ có như thế tình cảm gia đình mới có ý nghĩa. Nếu
không, nó trở thành nơi ươm mầm của tình cảm sân hận -như vẫn thường
thấy trong các gia đình- như nước sôi trong chiếc ấm đậy nấp. Tình cảm gia
đình cần được vun trồng trong tim ta vô điều kiện, không cứ phải là chồng
tôi, vợ tôi, con gái tôi, con trai tôi, cậu tôi, mợ tôi. Đầy tính cách sở hữu của
cái tôi. Nếu như chúng ta không có thể vượt lên và chuyển đổi những tình
cảm đó thành vô điều kiện, thì tình cảm gia đình đã không được sử dụng
đúng chức năng của nó. Trong trường hợp đó, nó được dùng để củng cố cái
tôi, để đảm bảo cho sự sinh tồn. Nhưng sinh tồn không phải là một vấn đề,
ta không nên phí thì giờ lo chuyện đó. Dù có bom nguyên tử hay không,
chúng ta cũng không thể tồn tại mãi được, có phải không? Chỉ có một nơi
chốn cho tất cả chúng ta, nơi mọi người cuối cùng rồi sẽ hội ngộ.
Tình bằng hữu cũng đưa đến sự bám víu, dính mắc. Ta bám víu vào bạn
bè. Sợ mất họ. Ta tốt với bạn bè vì muốn họ mãi là bạn mình. Nhưng nếu
họ đối xử trả lại không được tốt, ta lập tức nghĩ xem có nên tiếp tục làm bạn
với họ không. Ta đòi hỏi ở họ một sự thân thiết, lo lắng, quan tâm trả lại.
Giống như kinh doanh thương mại. Một sự trao đổi sòng phẳng. Đó là điều
hầu như tất cả chúng ta đều làm, đến nổi ta chẳng bao giờ để ý đến. Đối với
bạn bè thì thế, đối với gia đình, chúng ta còn đòi hỏi hơn thế nữa. Nếu
người thân ta không thương trả lại, ta hờn tủi, thất vọng, trầm uất. Nếu họ
bỏ rơi ta, tình thương trong ta cạn kiệt. Thật là kỳ lạ, khi tình thương chỉ
giới hạn trong một nhóm người.
Tình thương không thể ẩn tiềm trong con người. Con người chỉ là một đãy
xương bọc da. Làm sao có thể tìm thấy tình thương trong đó. Nhưng đó là
bi kịch của bao người. Romeo và Juliet, Cuốn Theo Chiều Gió. . . là những
bi kịch sân khấu về người nầy ra đi vì người kia không yêu mình, hay chia
tay nhau bằng cái chết. Con người trước sau gì cũng phải xa nhau, qua cái
chết hay qua sự thay đổi tình cảm, tư tưởng. Họ cần chi phải hành động như
thế. Làm sao tình yêu có thể ẩn tiềm trong những người như thế?
Tình thương tiềm ẩn trong các cảm xúc. Nếu ta không sử dụng tình cảm
gia đình để làm nẩy nở thêm cảm xúc nầy, ta sẽ bị mất thăng bằng khi người
ta thương yêu, bám víu vào biến mất đi vì lý do nào đó. Mục đích chính của
tình cảm gia đình là để giúp ta biết thể nào là cảm xúc thương yêu, và từ đó
nhân rộng ra.
Phát triển tâm Từ không phải bằng cách dự một lớp 10 ngày về thiền hay
nghe thuyết pháp về lòng Từ là đủ. Chúng ta không thể mở tắt tình cảm, lý
trí cũa mình như tắt mở một bóng đèn. Ta cần tập luyện có phương pháp
một cách kiên nhẫn và với lòng quyết tâm.
Trái tim ta cần được rèn luyện để yêu thương vì nó không phải được tạo ra
để lúc nào cũng tràn đầy lòng thương yêu. Nó có thể yêu mà cũng có thể
ghét. Nó chứa đầy ý xấu, sân si, sợ hãi cũng như tình thương. Nhưng nếu
như ta không làm giảm bớt sự hận thù và phát triển thêm tình thương bằng
cách thay đổi cách cư xử của ta trong đời sống hằng ngày, tâm ta sẽ không
thể an lạc, sự an lạc mà Từ tâm có thể mang đến cho ta.
Khi trong ta đầy tình thương -loại tình thương không có điều kiện đối với
tha nhân- thì ta tràn đầy an lạc. Khi ta có thể làm chủ được các hành động
của mình. Ta trở nên tự tin. Không sợ hãi điều gì. Ta tự biết mình đã được
rèn luyện đến độ sẽ không thể có một phản ứng giận dữ, ghen ghét, dù nhỏ
đến đâu có thể xảy ra để làm ta mất đi sự bình yên. Đó là kết quả đầu tiên
và hoàn thiện nhất mà ta có thể có được do đã ươm trồng lòng Từ trong tim
ta.
Quan trọng hơn cả là tình thương đó đã được vun trồng dành cho những kẻ
không ‘đáng thương’ chút nào. Đó chính là cơ hội để chúng ta thực tập hầu
thay đổi con tim và lý trí của mình. Chúng ta ai không từng biết một đôi
người ‘khó thương’, nhưng hãy coi họ là người giúp ta tự rèn luyện tâm.
Sau khi chuyện đã rồi, nhìn lại cũng là dễ chấp nhận, nhưng ngay lúc ta phải
đối mặt với người đó thì tất cả những tình cảm tiêu cực dấy lên trong ta:
ghét, giận, biện hộ cho thái độ giận ghét của mình, v..v... Đó đúng là lúc ta
cần phải sử dụng tình thương của mình. Đúng khi ta đang sân si.
Đừng bỏ lỡ những cơ hội đó. Hãy mang tình thương đến với mọi người,
dù là người ta ghét hay ta thương. Mỗi người ta tiếp xúc đều đem lại cho ta
những cơ hội để học tập, thực hành lòng Từ, bất kể người đó là ai. Không
kể họ nói gì, không cần họ có quan tâm đến bạn hay không, hay chính họ có
lòng từ hay không. Không có gì đáng kể. Cái đáng kể là những gì đang xảy
ra trong lòng bạn, và đó là điều duy nhất bạn cần nhớ tới. “Nếu trong lòng
tôi chỉ có tình thương, lòng thương xót, chấp nhận; nếu tôi có thể dẹp bỏ sân
si trong lòng, thì tôi đã đi được những bước đến gần hơn với đạo Pháp”.
Giáo lý Đức Phật dạy cần phải được hiểu thấu đáo, rồi đem áp dụng, thể
hiện chúng trong cuộc sống của chúng ta.
Ai cũng có cơ hội để sửa đổi các cách ứng xử của mình với người khác.
Chúng ta luôn tiếp xúc, trao đổi với người khác, và lúc nào cũng sẽ có người
không đồng ý với chúng ta. Khi đó nếu chúng ta làm thinh, không thèm trã
lời, thì đó không phải là phản ứng của lòng Từ. Trái lại nó chỉ đem lại sân
hận, bất mãn, lo âu, rồi dẫn đến bất cần, lạnh nhạt. Tất cả những thứ đó
không ích lợi gì và cũng chẳng giúp chúng ta thanh tịnh được. Chỉ khi nào
ta có thể hành xử với trái tim đầy tình thương, ta mới tìm thấy được sự an
lạc, bình an với chính mình.
Phật đã nói về 11 điều lợi ích của lòng Từ. Ba điều đầu tiên là: “Ngủ
ngon, không ác mộng và tĩnh giấc sảng khoái”. Nếu ai bị mất ngủ, bạn có
thể đoán là ít nhiều họ đã thiếu lòng từ, và thuốc ngủ khó thể chữa được bịnh
cho họ. Nhưng lòng Từ có thể giúp họ dễ ngủ. Và vì tiềm thức không có gì
bứt rứt nên không có ác mộng, không ác mộng thì thức dậy cũng sảng khoái
như khi họ lên giường ngủ, đó chính là nhờ họ có lòng từ, lòng nhân ái đối
với tất cả mọi người.
Một cách ứng dụng là trước khi đi ngủ, chúng ta thử làm một bảng cân đối
(balance sheet) -bằng ý nghĩ hay viết xuống trên giấy. Chia tờ giấy làm hai
cột: Hôm nay tôi đối xử tử tế với người khác được bao nhiêu lần? Cột bên
kia ghi: Bao nhiêu lần tôi cảm thấy giận dữ, đau đớn, sợ hãi, bức rức khi đối
đầu với người khác? Rồi cộng lại hai cột. Nếu cột tiêu cực nhiều hơn tích
cực, thì ta cần phải tu sửa. Giống như người bán hàng kiểm tra hàng hoá của
mình, những món hàng không ai mua, tất nhiên phải đem trả lại.
Đó là phương cách tập luyện. Không có gì là bẩm sinh, dù tánh xấu, hay
tánh tốt. Ta phải luôn luôn huân tập sửa đổi bản thân cho đến khi tất cả
những ô uế ở thân tâm đều được tẩy sạch. Nhưng không phải vì nhờ ai cũng
tốt. Không. Nếu ai cũng tốt, mọi người đều đang ở cõi Trời hết cả rồi. Đâu
phải có mặt ở đây làm gì. Đây là cõi thứ năm tính từ dưới lên trong 31 cõi.
Thữ nghĩ xem, chúng ta đang ở cõi thứ năm trong ba mươi mốt cõi, cũng
khó thể mong đợi gì hơn ở con người trong cõi ấy?
Chúng ta có rất nhiều điều phải học trong cõi nầy, và có lẻ mục đích của
cõi nầy chính là thế, để con người có cơ hội rèn luyện mình thêm. Không
phải để chúng ta tìm kiếm sự thoả mái, tiền bạc, của cải, sở hữu. Cuộc đời
chính là một trường học, đây là bài học quan trọng nhất, bài học để giúp trái
tim ta thêm bao la. Không thể có bài học nào quan trọng hơn. Giống như
trong một khu vườn, khi cỏ dại mọc quanh một khóm hoa hồng. Thì bao
nhiêu phân bón cho hoa hồng đều vô ích, hồng sẽ không thể ra hoa, con
người sẽ chẳng được ngữi mùi hương của hoa. Dần dần cỏ dại sẽ phủ trùm
lên hoa. Trái tim ta cũng thế. Khóm hoa hồng là lòng Từ đang được ươm
trồng. Nếu chúng ta không nhổ cỏ dại để cây được ra hoa, tỏa hương thì dần
dần cây hoa Từ cũng tàn lụi. Cỏ dại chính là lòng sân si của chúng ta.
Phần đông chúng ta đều đi tìm người yêu thương mình. Cũng có người
tìm được một đôi kẻ yêu thương họ và họ có thể thương trả lại. Nhưng có
biết bao kẻ xấu số khác không thể tìm được ai. Họ trở nên cay đằng, hờn
tủi. Trong khi mọi việc đáng lý phải là ngược lại. Vì nếu chúng ta là người
đầy lòng thương đối với mọi người thì sẽ có bao nhiêu người đến với chúng
ta, vì có ai mà không muốn được yêu thương. Được người khác thương yêu
không có nghĩa là ta cũng đầy tình thương. Chính kẻ yêu ta mới có tình cảm
thương yêu. Trong khi có thể ta chẳng có cảm giác gì cả, ngoài lòng thỏa
mãn là đã có người thấy ta dễ thương. Điều đó chỉ làm cái Tôi của chúng ta
thêm lớn. Trong khi yêu thương người khác thì cái Tôi của ta nhỏ bé lại.
Tình thương của ta càng bao la, ta càng có thể yêu thương nhiều người,
cũng như được nhiều người yêu thương lại. Càng cho bao nhiêu, thì ta lại
càng đưọc bấy nhiêu. Đó là phép tính cân đối đơn giản nhưng ít có ai thấy
ra điều đó. Ai cũng đi kiếm thêm người yêu mình, nhưng không muốn ban
phát tình thương cho ai cả. Điều đó thật không tưỡng. Thật nghịch lý,
nhung trong đời sống của ta có biết bao điều nghịch lý.
Đây cũng là điều Đức Phật đã nói trong 11 điều lợi ích “Ta được con
người và muôn loài yêu thương”. Nếu ta ban phát tình thương đến cho
người khác thì tự họ sẽ tìm đến với ta. Không thiếu người yêu thương ta.
Ta ban phát cho người khác tình thương không phải vì ta muốn cho, không
phải vì họ cần, không phải vì họ đáng để cho, nhưng vì trái tim ta đã được
rèn luyện để làm như thế. Giống như người ta được rèn luyện về toán. Khi
những con số được đưa cho họ, họ sẽ tổng cộng chúng lại nếu họ muốn biết
tổng số. Không có cách gì khác hơn. Cũng thế, nếu trái tim ta đã được rèn
luyện để yêu thương thì nó sẽ yêu thương vô điều kiện.
Chắc sẽ có người lên tiếng phản đối rằng: “Nếu người khác cộc cằn, thô lổ
với mình, mà mình đối xử với họ đầy tình thương, họ sẽ lợi dụng ta sao?”
Nếu người khác có làm như thế -điều đó có thể xảy ra lắm, vì bản tính người
đời là thế- nhưng đó là nghiệp ác của họ có phải không? Trong khi người tử
tế không có gì để mất cả. Làm sao bạn có thể mất được tình thương vẫn đầy
ấp trong tim mình? Nếu có bị lợi dụng, thì đó cũng là cơ hội để ta thử kiểm
chứng lại trái tim mình xem nó đã được tôi luyện đến bực nào -xem chính
mình có trở nên hờn giận hay vẫn có thể tiếp tục đối xữ tốt với kẻ xấu đó.
Là dịp để ta xét soi mình có hành động đúng không? Trong tình thương có
cả sự quan tâm đến người khác. Do đó một kẻ lợi dụng không thể có tình
thương. Không nên sợ tình thương làm mình có vẻ yếu đuối, vì tình thương
yêu thật sự chỉ làm con người trở nên mạnh mẽ hơn, không phải yếu đuối.
Một người không có gì ngoài tình cảm thương yêu sẽ luôn cảm thấy an ổn,
hòan tòan tự tin vì người đó biết rằng không có gì có thể lay chuyển được
tình cảm của họ. Tình thương vô điều kiện tăng thêm sức mạnh cho con
người, không phải sự yếu đuối. Nhưng nếu tình thương đi đôi với đam mê
như người ta vẫn thường mê lầm, thì tình thương lúc đó sẽ làm con người
yếu đuối, vì họ trở nên bám víu, ích kỷ. Trong khi nếu tình thương đến từ
trái tim thì tình cảm đó vũng bền hơn đá.
Một điều lợi ích khác của lòng Từ là nó giúp ta dễ nhiếp tâm. Đó là lý do
tại sao ta nên bắt đầu một buổi ngồi thiền với những ý tưởng tốt đẹp về
chính mình. Tâm không thể trụ nếu không có ba điều căn bản: sự rộng
lương, đạo đức và lòng từ. Đó là ba cột trụ của thiền, giúp ta thực tập thiền.
Lòng Từ, phát xuất từ trái tim, không thể thiếu khi ta ngồi thiền vì tình cảm
ấy đem lại cho ta sự bình an, tĩnh lặng trong tâm. Nếu thiếu điều đó, ta cần
thực tập chú tâm vào Từ tâm trước mỗi buổi ngồi thiền để pháp triển lòng
Từ trong ta.
Ta không thể thương yêu người khác nếu trước tiên ta không biết yêu
thương chính mình. Nhưng không phải bằng cách phụng sự nó. Tìm đủ
cách để cho nó được êm ấm, thoải mái, không được có một con muổi ở bên
cạnh, đầy đủ thức ăn mà ta ưa thích. Đó không phải là thương yêu mà là
phục dịch. Giống như tình thương của người mẹ dành cho con của mình
phải sáng suốt. Nếu người mẹ chỉ biết cưng chiều đứa trẻ, thì nó và cả mẹ
nó sẽ phải trả giá cho sự cưng chiều đó. Nhưng nếu người mẹ yêu thương
con thật sự, bà sẽ không nuông chiều nó thái quá. Bà sẽ dạy con với lòng
thương và trí sáng suốt, uốn nắn tánh tính nó. Đó chính là điều ta phải làm
đối với bản thân ta. Vì thương chính mình, ta phải bắt mình tuân theo một
số điều lệ hành động. Thực hành thiền là một cách thương yêu mình.
Mức độ định tĩnh mà ta có thể đạt được trong lúc tọa thiền tùy thuộc vào
lòng Từ trong ta. Đồng thời cũng tùy thuộc vào sự thực tập. Nếu thiếu thực
tập, lòng Từ khó thể giúp cho chúng ta đạt được định.
“Da dẻ hồng hào”. Có nghĩa là trên gương mặt ta biểu lộ sự an bình.
Không có thứ thuốc sửa sắc đẹp nào có thể sánh kịp. Đó là nét đẹp từ bên
trong. Người trẻ tuổi có thể chỉ có cái đẹp bề ngoài, nhưng trống rỗng bên
trong. Nếu quan sát, người ta cũng dễ dàng nhận được vẻ đẹp toát ra bên
trong. Phật thường được tả như thế. Có người chỉ cần nhìn thấy Phật một
lần, đi trên đường là đã phát sinh lòng kính yêu Ngài, muốn được theo Ngài
để trở thành đệ tử của Ngài. Có lần Rahula, con trai của Ngài, tỏ ra hãnh
diện vì được giống Ngài. Phật liền quở dạy: “Phải coi tất cả hình tướng bề
ngoài như thế nầy: Đây không phải là của tôi, không phải là tôi, tất cả chỉ là
giả tướng”.
Một điều lợi ích nữa của Từ tâm là “Lửa, thuốc độc, làn tên không thể hại
tới ta”. Ngày nay người ta không dùng tên nữa mà dùng súng đạn, dùi cui;
còn lữa và thuốc độc muôn thưở vẫn là những thứ dùng để tấn công. Nói thế
không có nghĩa là ta trở nên bất khả xâm phạm, nhưng những người đầy từ
tâm hiếm khi rơi vào những hoàn cảnh đó. Và dù có lâm vào những hoàn
cảnh như thế, lòng họ cũng không hề bị xao xuyến. Của cải họ có thể bị hao
hụt, nhưng trái tim của họ thì không. Trái tim không thể bị khuất phục khi
trái tim chỉ có tình thương, không còn lòng hờn ghét.
“Ta sẽ được chết bình an”. Tất cả chúng ta ai rồi cũng chết. Giờ phút lìa
khỏi đời rất quan trọng, vì đó chính là giây phút của tái sinh, đúng ra đó là
ngày sinh nhật. Nhưng ta thường nói về cái chết với sự đau buồn, mất mát.
Thực ra nếu ta có thể đón chờ cái chết với tỉnh giác, với từ tâm thì đó chính
là ngày sinh tốt đẹp của ta. Tất cả đều không khác, trừ khi bạn là một A-lahán.
Thói quen suy tưỡng, xúc cảm hằng ngày sẽ theo ta đến tận cuối đời,
giây phút lâm chung. Các thói quen đó không thể thay đổi đột ngột. Vì thế
nếu các thói quen đó xuất phát từ lòng Từ, thì ta sẽ rất tỉnh thức, không thấy
sợ hãi, lòng đầy bình an và vững niềm tin. Giây phút lìa đời phải là giây
phút tốt đẹp vì đó là bước khởi đầu của sự tái sinh.
Lòng Từ nuôi dưỡng trong tâm sẽ đem lại lợi ích cho chính chúng ta. Ai
đó đã nói rất đúng. Từ tâm chính là lòng thương yêu chính mình. Đúng
thế. Nhưng tình thương nầy không phải là tình thương tầm thường ích kỷ,
mà nó là bàn đạp để đưa chúng ta đến cái đích cuối cùng: Vô Ngã. Thật thế
khi trái tim ta càng có nhiều lòng từ, ta càng như thể không còn nghĩ đến
chính bản thân mình, đến cái Tôi của mình. Và khi cái Tôi trở nên nhỏ bé
hơn, thì tình thương yêu càng dễ phát triển hơn. Khi ta nghĩ đến người khác
nhiều hơn, thì Ngã phải nhường chỗ cho họ trong trái tim. Dĩ nhiên họ là
người được lợi nhưng đó chỉ là thứ yếu. Chỉ có ta mới có thể tự giải thoát
cho chính mình. Ai cũng phải ra đi một mình. Nhưng nếu có những người
bạn đồng hành cùng muốn đi theo con đường của ta, thì ta cũng mở rộng
vòng tay đón mời họ, vì con đường, chuyến xe nầy hãy còn vằng vẻ làm sao.
2. BI
Người bạn thứ hai là Bi. Đối nghịch với Bi là sự ác độc. Đừng lầm Bi với
lòng thương hại. Lòng thương hại dấy khởi khi ta cảm thấy tội nghiệp cho
ai đó. Bi là khi chúng ta chia sẻ lòng xót thương với họ. Bi là cùng cảm
thông với một người khác.
Bi phát sinh khi ta cảm nhận được sự đau khổ, không như ý của người
khác trong chính bản thân ta. Chỉ có như thế ta mới thực sự cảm thông được
với người khác. Nếu không, ta sẽ tiếp tục sống với ảo tưỡng là đối với ta,
mọi việc đều bình thường, chỉ có người khác là có vấn đề, là đau khổ. Nếu
ta có thể nhận diện được tất cả những trạng thái bất như ý dồn dập xảy ra
trong ta - sự không ưa thích và chán ghét, hối hận và hờn trách, sợ hãi và lo
lắng, căng thẳng - thì ta hiểu rằng tất cả chúng ta đều cùng một số phận. Để
khi người khác gặp chuyện khó khăn, ta có thể thông cảm với họ, vì ta biết
rằng chính mình cũng có khổ đau.
Sự cảm thông (Bi) là bước đầu dẫn đến tình thương. Nếu ta có thể thực sự
dấy lên trong lòng một cảm xúc chân thành cho ai đó, cảm thông sâu sắc
nỗikhó khăn của họ, những gì họ phải hứng chịu, thì sự thương cảm đối với
họ cũng tự nhiên đến trong lòng ta.
Tuy nhiên, ta không nên có sự phân biệt giữa người nầy, kẻ kia theo thói
thường tình. Thường chúng ta dễ cảm thông với những người có liên hệ gì
đó với ta. Như người đồng tôn giáo, cùng nhóm bạn, đồng quê hương, láng
giềng hay gì gì đó mà ta cũng quan tâm đến. Một cái gì đó để ta có thể nói
‘của tôi’, thì ta chọn lựa cái đó. Sự lựa chọn nầy đẩy con người ra xa nhau,
và dầu họ đi đến đâu trên thế giới nầy, tinh thần chia rẽ cũng đi theo đến đó,
khiến con người xâu xé nhau.
Sự chia rẽ nầy do quan niệm chấp ‘Ngã’ mà ra. Đây là cái Tôi, tôi phải
bảo vệ cái Tôi của mình. Cái Tôi bị đe doạ. Cái Tôi thường xuyên cảm thấy
bị đe dọa, đến nổi ‘Tôi’ cũng không biết rõ về mình. Không thật sự biết ‘cái
Tôi’ nầy là gì. Tất cả cái ta biết là sự đe dọa đến cái Tôi, làm tôi sợ hãi. Nơi
nào có sự sợ hãi, nơi đó không có cảm thông (bi) vì sợ hãi xuất phát từ sân
hận. Chúng ta chỉ sợ những gì ta ghét. Những gì ta ưa thích, ta không sợ.
Trái tim nào càng có nhiều sự sợ hãi, trái tim đó càng ít có sự đồng cảm
(bi). Sợ hãi luôn núp dưới bóng của ‘Ngã’. Một vì A-la-hán hòan toàn
không có sự sợ hãi. Không có sự sợ hãi ở ngươì đã giác ngộ. Không có sự
sợ hãi, vì không có gì để được hay mất. Tất cả đều trở thành tầm thường,
không đáng kể. Càng nhiều Ngã chấp, sự sợ hãi càng tăng. Sợ bóng tối, sợ
trộm cướp, sợ thời tiết xấu, sợ tương lai, đủ thứ sợ. Sự sợ hãi xuất phát từ
lòng muốn bảo vệ ‘cái Tôi’ giả tạo. Và càng muốn bảo vệ cái Tôi bao nhiêu,
lòng cảm thông (bi) càng bị giới hạn.
Tuy nhiên sự cảm thông dễ trở thành những lời nói ở đầu môi. Có thể ta
không thật lòng. Phần lớn chúng ta đều rất giỏi ‘đóng kịch’. Một lần Pessa,
con của người dạy voi, đến gặp Phật và nói với Ngài: “Con chẳng gặp khó
khăn gì với lũ voi. Hình như chúng ‘nghĩ sao, làm vậy. Khi chúng có một ý
định gì đó, con hiểu ngay, và chúng làm đúng theo ý định đó. Nhưng sao
con người khó hiểu quá. Họ nói một đường và làm một nẻo”. Phật nói:
“Đúng vậy. Voi sống trong rừng cây, còn con người thì sống trong ‘rừng’
tâm tưỡng”. Con người nói một điều, nhưng ý nghĩ, hành động lại khác. Tệ
hại hơn nữa, là ta không hề ý thức chuyện đó là không tốt. Ta tưỡng đó là
việc phải làm. Là luật ứng xữ, phong tục, truyền thống, nên chúng ta không
xét lại kỹ lưỡng ý tứ, lời nói và hành động của mình.
Chỉ khi nào ta soi lại mình một cách thấu đáo, với lòng thiết tha, thành
khẩn, ta mới có thể thật sự hiểu được những điều Phật dạy. Phật đã giảng
nghĩa rõ ràng về bản tánh của chúng ta. Ngoài mặt, tất cả chúng ta đều như
khác nhau, nhưng bên trong tất cả đều giống nhau. Chúng ta giống như từ
một khuôn ra, chạy đuổi theo cùng thứ, đi theo cùng con đường. Sự khác
nhau chúng ta thấy chỉ là giả tạo, tùy thuộc vào cái nhìn của bản Ngã.
Tất cả những người có ý thức đều than phiền về chiến tranh giữa các quốc
gia. Ai cũng muốn nhìn thấy thế giới được hòa bình. Dĩ nhiên là điều đó
không thể có. Ở thế kỷ nầy hình như lúc nào cũng có chiến tranh ở nơi nầy,
nơi khác. Các xứ sở đua nhau thành lập những hàng phòng thủ kiên cố, đổ
vào đó bao nhiêu là năng lực, tiền bạc và con người. Chính các hệ thống
phòng thủ nầy biến thành hệ thống tấn công ngay lập tức nếu như có ai tuyên
bố lời nào không thân thiện hay hơi có vẻ đụng chạm đến không phận hay
hải phận của họ. Hành động nầy được giải thích, biện hộ bằng “Chúng ta
phải bảo bệ biên giới của mình, để bảo vệ dân cư ở đó”. Việc bãi bỏ vũ khí
chỉ là ước vọng, một lời cầu nguyện, không phải là thực tế. Tại vì sao? Vì
việc bãi bỏ vũ khí phải bắt đầu từ trái tim của mọi người, nếu không việc bãi
bỏ vũ khí đại trà sẽ không thể nào xảy ra.
Việc phòng thủ và tấn công nói rộng ra luôn xảy ra trong chính mỗi chúng
ta. Chúng ta không ngừng bảo vệ cái Tôi của mình. Nếu ai đó nhìn chúng
ta một cách không thân thiện, hoặc tỏ ra không biết ơn, không thương yêu ta
giống như ta mong muốn, hay trách cứ chúng ta điều gì, thì sự phòng thủ đó
biến thành sự tấn công. Lý luận rằng ta phải bảo vệ người nầy, “xứ sở” nọ,
là bảo vệ ‘cái Tôi’, để bảo vệ dân cư, là bảo vệ cái Ngã của mình. Vì hầu
hết mọi người đếu hành động như thế, nên các quốc gia cũng làm như thế.
Không thể hy vọng có sự thay đổi xảy ra trừ khi mỗi cá nhân biết tự sửa đổi.
Do đó, mỗi người chúng ta phải tự phấn đấu để tìm hòa bình cho chính nội
tâm mình. Điều đó có thể xảy ra nếu mỗi ‘cái Tôi’ có thể thu nhỏ lại bớt, và
vấn đề Ngã chấp chỉ có thể giảm thiểu khi chúng ta có thể thật lòng soi rọi
lại mình.
Một cách để làm việc đó là đặt tên cho các tư tưởng của mình (labelling).
Có thế ta mới khám phá ra các tư tưởng xấu của mình, từ đó bớt quan trọng
hóa mình, hay tư tưởng của mình. Đó là hành Thiền.
Một cách khác để soi mình cặn kẻ là biết chấp nhận sự thật khi trong ta
dấy lên những tư tưởng xấu và không thể đè nén chúng. Phải nhận ra rằng
con người luôn khao khát thỗ mãn các ngũ dục. Sự thành thật cặn kẻ nầy
giúp cho cái Tôi của chúng ta bớt trương phồng lên. Khi ta làm được như
thế, lòng cảm thông (bi) trở nên là một hiện thực -lòng cảm thông chân thật,
không chỉ là lời nói đầu môi. Nói thì dễ thôi, ai cũng làm được điều đó. Từ
6 tuổi trở lên là đã có thể học thuộc lòng bài thiền quán về lòng Từ. Những
lời nầy rất hay, nhưng thực sự chúng giúp đuợc gì cho ta? Sự lập đi lập lại
những lời nầy khiến ta đánh mất xúc cảm ban đầu, trong khi ta sống tùy
thuộc vào xúc cảm của mình. Đừng hiểu lầm rằng ta sống theo lý trí. Sự
thật là mọi việc bắt đầu bằng xúc cảm, rồi phát sinh ra hành động. Sau cùng
tiến trình tư tưởng mới xuất hiện để lý giải cho hành động của mình.
Hiểu được cảm xúc của mình là một điều tối quan trọng. Đó là điều cơ
bản. Làm sao chúng ta ‘tri thức’, biết thế nào là tình thương, lòng cảm thông
nếu chúng ta không có những xúc cảm đó? Chúng ta có thể biết về chúng,
nhưng làm sao thể hiện chúng, nếu ta không có xúc cảm đó? Giải thoát
không phải là một ‘tri thức’, nó là một cảm xúc.
Lòng cảm thông (bi) là một tình cảm xuất phát từ trái tim, không cần có lý
do hay điều kiện gì đặc biệt. Ta không cần phải đợi một dịp nào để cảm
nhận được rằng ai đó đang phải đối mặt với một bi kịch trong đời hay cơ thể
họ đang làm họ đau đớn. Nếu lòng cảm thông của ta phải được kích thích,
gọi mời, thì lòng cảm thông không phải luôn luôn có mặt trong tim ta, mà
lúc có lúc không, nhưng phần nhiều là không. Đó không phải là một trái tim
đầy cảm xúc. Một trái tim đầy cảm xúc -cũng giống như một trái tim đầy
tình thương -luôn đầy thương cảm vì biết rằng ai cũng có nỗi khổ. Sự đau
khổ đã được nhắc đến trong đế đầu tiên của tứ đế (khổ đế) của Phật pháp.
Không có ai thoát khỏi sự đau khổ vì cuộc đời -sự hiện hữu của ta- chính là
sự khổ đau. Nhưng nó không phải là bi kịch. Nó chỉ có nghĩa là vạn pháp
trên đời đều ẩn chứa trong đó sự xung đột, bất như ý, bực dọc, lòng mong
muốn được có nhiều hơn, muốn không bị mất mát, thay đổi hay hoại diệt.
Trừ các vị A-la-hán, bản tánh con người không phải dễ dàng buông xả. Vì
thế lòng cảm thông (bi) cần luôn có mặt, không đợi đến khi người khác bị
cảnh long đong.
Nếu quá chấp Ngã, người ta khó thể cảm thông với người khác. Chấp Ngã
là nguồn gốc của bao vấn đề giữa con người với nhau. Vì nếu ai cũng bận
rộn lo cho cái Tôi của mình, thì làm sao còn cảm xúc cho người khác.
Thường người quan tâm đến kẻ khác bị coi là cá biệt, không giống ai. Thật
đáng tiếc vì chính người có lòng thương, và cảm thông đối với người khác
mới thật là người hạnh phúc. Tuy nhiên phần lớn chúng ta thiếu lòng từ bi.
Hạnh phúc thực sự khó tìm thấy ở mọi nơi. Trong khi chính hai tình cảm
nầy (từ và bi) đem lại cho ta niềm vui, vì chúng giúp ta bớt nghĩ đến cái Tôi
của mình, bớt chấp Ngã. Người mà quá chấp Ngã, không thể có niềm vui vì
họ không bao giờ mãn nguyện trong việc thỏa mãn cái Tôi của mình. Không
bao giờ ta có thể giải quyết hết những vấn đề của mình. Vì hết điều nầy thì
đã có điều khác dấy lên. Nhưng khi ta buông bỏ nó, mà hướng tất cả chú
tâm vào sự không toại nguyện, đau khổ mà mọi chúng sinh đều phải đối mặt,
ta sẽ nhận ra được cái khổ của tất cả nhân loại, lúc đó những nỗi niềm riêng
của chúng ta trở thành quá nhỏ mọn, không đáng kể. Nỗiđau của ta chỉ là
một phần của sự hiện hữu chung. Lúc đó lòng cảm thương cho chính mình
và cho tha nhân sẽ phát sinh. Và quyết tâm để tận diệt mọi khổ đau sẽ được
thêm sức mạnh cần thiết để làm điều đó.
3. HỈ
Người bạn kế tiếp trong bốn người bạn của ta là sự biết chia sẻ niềm vui
với người khác hay là hỉ. Đối nghịch với hỉ là lòng ganh tỵ. Chớ lầm hỉ với
sự đãi bôi, giả đạo đức, nói một điều mà nghĩ một điều. Thí dụ, nếu có ai
được may mắn gì đó, ta phải chúc mừng, nhưng trong lòng không có tình
cảm đó, hay tệ hại hơn nói một điều mà nghĩ một điều khác. Giống như là
“Sao tôi không là người may mắn đó? Sao lúc nào cũng là người khác?”.
Chia sẻ niềm vui với người khác là liều thuốc nhiệm mầu chữa bịnh trầm
cảm. Ai đang vướng chứng bịnh nầy là vì họ không biết chia sẻ niềm vui
với kẻ khác, họ thiếu hỉ tính. Trong cuộc đời ta không có nhiều dịp để mãn
nguyện, vui mừng, nhưng nếu ta biết chia sẻ niềm vui của kẻ khác thì chắc
chắn là ta sẽ có nhiều cơ hội để hạnh phúc hơn.
Ta có thể chia sẻ niềm vui với những người có khả năng. Nhiều người khó
chấp nhận sự tài giỏi của người khác. Họ sẽ miễn cưỡng nói rằng: “Ừ, cho
là người đó có thể làm được như vậy đi, nhưng mà...” và lập tức chê bai thay
vì chia sẻ niềm vui với người tài giỏi hơn mình. Người khác có thể làm bao
nhiêu việc giỏi hơn ta. Người biết hát, người biết vẽ, biết nhảy, biết phiên
dịch, người có thể làm ra tiền, người có thể sống không cần đến nó. Mọi
người đều có một khả năng gì đó. Ta sẽ có biết bao niềm vui nếu biết chia
sẻ với họ.
Chia sẻ niềm vui với người khác cũng là một cách tạo nghiệp lành. Tôi đã
ở một làng nhỏ nơi có phong tục là khi có chuyện gì vui trong làng, người ta
lại ra chùa đánh chuông báo với mọi người. Được mùa, gả vợ gả chồng cho
con, xuất viện, làm ăn tốt, sửa được nhà... bất cứ điều gì có thể làm cho
người ta vui mừng. Khi tiếng chuông vang lên, mọi người đều nhìn ra
hướng đó mà nói lời chúc mừng. Người đánh chuông đã tạo nghiệp lành
bằng cách làm cho mọi người có thể chia sẻ niềm vui với mình. Những
người kia cũng tạo được nghiệp lành vì đã chia sẻ niềm vui với người khác.
Nhiều nơi khác không có phong tục đó. Ta phải tự rung tiếng chuông
hoan hỉ trong lòng mình. Đó là một điều rất quan trọng để nhớ, phải nhớ
những điều Phật dạy trong mọi hoàn cảnh, để thực hành chúng. Không phải
chỉ nhớ trong một hoàn cảnh nào đó, hay khi có tai biến, nhưng phải luôn
luôn nhớ đến chúng vì đó là bí quyết để sống một cuộc đời hạnh phúc và
bình an. Phật đã nói: “Ta chỉ dạy một điều, là đau khổ, và đọan diệt khổ”.
Phật đã đại nguyện thệ như thế và đã thực hiện được những điều đó. Đó là
Phật pháp - đoạn diệt khổ. Ta phải luôn nhớ chấp Ngã là nguồn gốc của mọi
vấn đề và cố gắng sửa đổi, nếu không là ta đã quên lời Phật dạy. Những lời
đó phải thường trú trong tâm trí chúng ta vì lợi ích của chúng không chỉ là
lợi ích nhất thời.
4. Xả
Người bạn cuối cùng của chúng ta là lòng an nhiên tự tại (xả), một trong
những tình cảm cao thượng nhất. Đối nghịch với nó là sự lo lắng, bồn chồn.
Nhưng chớ lầm xả với sự thờ ơ, lãng đạm. Thờ ơ là trạng thái tâm hồn nói
rằng “Tôi chẳng quan tâm khi việc đó chẳng xảy ra cho tôi hay gia đình tôi.
Tôi không muốn biết chuyện đó. Tôi không muốn phải bận tâm vì nó”. Sự
thờ ơ là thái độ lạnh nhạt, xa lánh. Thái độ đó không dung chứa tình thương,
lòng từ. Ta chỉ muốn bảo vệ riêng cho mình, vì thế, ta trở nên thờ ơ, lãnh
đạm.
Trong khi xả, hay sự bình an tự tại dựa trên trí tuệ, dựa trên sự hiểu biết
rằng mọi sự vật đều thay đổi, đều hòan toàn vô thường. Dầu chuyện gì xảy
ra, rồi nó cũng qua đi. Cái gì sẽ xảy đến cũng chẳng quan trọng gì. Cánh
cửa đưa đến bất tử qua vô thường là cánh cửa không tên, có nghĩa là không
có gì quan trọng cả. Trong cả vũ trụ nầy, không có gì quan trọng cả trừ sự
giải thoát. Vì vậy, sự thanh thản, an nhiên (xả) phải xuất phát từ ý thức nội
tâm rằng tất cả mọi vật đều thay đổi, dù cho chuyện gì đã xảy ra, tốt hay
xấu, cũng không làm ta vui mừng hay buồn bã. Nó chỉ xảy ra. Chúng ta chỉ
có mặt ở nơi nầy trong 60, 70 hay 80 năm. Vậy tất cả những lo lắng, chộn
rộn là cho cái gì? Có gì để nắm giữ? Có gì để mong cầu? Sự việc chỉ xảy
ra.
Vì muốn bảo vệ cái Tôi mà ta không có tâm xả, hoàn toàn an nhiên tự tại.
Chúng ta sợ rằng “Tôi có thể bị nguy hiểm, việc nầy việc nọ sắp ảnh hưởng
tới ‘tôi’, nên cuộc sống ta không yên ổn”. Sự yên ổn mà mọi người theo
đuổi chỉ là viển vong. Aûo tưỡng. Không có sự yên ổn thật sự. Ai cũng
phải đối mặt với cái chết. Tất cả những gì chúng ta sở hữu đều sẽ bị hủy
diệt. Tất cả những người thương của ta đều sẽ chết, hoại diệt, bịnh hoạn, bỏ
rơi ta, thay đổi tình cảm.
Không có gì có thể yên ổn trong những điều kiện như thế. Sự xáo trộn,
không an ổn phát sinh khi những việc không như ý xảy ra, là do ta ảo tưỡng
rằng ta đã đánh mất cái gì đó rất quan trọng cho sự sống còn của mình.
Hành động như thế là để bảo vệ cái Tôi của mình. Nhưng ngay chính sự
sống còn của chúng ta cũng là ảo tưỡng vì có gì để bảo đảm rằng chúng ta sẽ
luôn khỏe mạnh, luôn an toàn, bảo đảm.
Để có được tâm xả không chỉ có quyết tâm muốn an nhiên tự tại là đủ.
Quyết tâm là cần thiết, nhưng nó dễ đưa đến sự dồn nén. Chúng ta thường
đè nén những tình cảm mãnh liệt của mình. Làm vậy cũng chẳng có ích lợi
gì, vì lần lần những dồn nén cũng bị nổ tung. Ta dồn nén thứ nầy thì nó
cũng phát ra thứ khác. Dồn nén có thể dẫn đến bịnh hoạn, trầm uất. Nếu ta
không bị xáo trộn vì việc nầy thì cũng sẽ bị xáo trộn về việc khác.
Sự an nhiên, hay tâm xả cần xuất phát từ bên trong. Khi được ươm trồng
tốt, tâm xả là một trong những bảy yếu tố dẫn đến giác ngộ. Chỉ có các đấng
Giác Ngộ mới có được tâm buông xả vô lượng. Nhưng nếu chúng ta không
bắt đầu thực hành tâm buông xả ngay từ bây giờ, thì đến lúc nào ta mới tiến
hơn, trưỡng thành hơn?
Qua thiền định, ta có thể bắt đầu thấy được sự chộn rộn, thay đổi luôn
luôn của tâm. Có ai nhớ được mình nghĩ gì trong 10 phút trước đây không?
Trong kỳ ngồi thiền trước? Hay lần trước đó nữa? Tuyệt nhiên không. Ta
không nhớ gì cả. Không giữ lại được ý nghĩ gì. Tất cả là thoáng chốc.
Không phải vì ta đã có căn nhà hay người thân nào đó bên cạnh mình suốt
ba mươi mấy năm nay mà ta nghĩ rằng ta có thể giữ họ mãi bên mình. Chỉ
vì những thứ ấy đã ở bên ta một thời gian dài, ta tưỡng như các thứ ấy là
vĩnh cữu. Nhưng những khi ngồi thiền ta có thể thấy là các tư tưởng của ta
đến rồi đi, không bao giờ ở lại với ta. Do đó có gì đâu để lo phiền nếu như
mọi vật đều thay đổi. Luôn đến, rồi đi.
Lúc nào còn những chộn rộn đó là còn có một con người đằng sau đó.
Trái tim còn nhịp thở, máu còn luân, tư tưởng, tình cảm còn thay đổi, các tế
bào còn sinh diệt, thì ta còn sống. Khi tất cả ngưng lại, ta chỉ còn là một cái
xác. Tất cả những thay đổi, bất ổn định chính là sự sống, vậy mà ta cứ cố
làm cho mọi thứ vĩnh viễn, không thay đổi. Ta muốn chúng bất di dịch.
Đây là Tôi, và tôi muốn tất cả đều biết như thế. Tôi có một cái tên và có
một số người, một số của cải thuộc về tôi Tôi có những quan điểm và tôi
muốn tất cả mọi người đều biết nha”thế”. Đó là sự gán ghép tính cách vĩnh
viễn vào một con người. Tuy nhiên khi còn là con người, còn có những thay
đổi, đểø cuối cùng nó sẽ biến đổi thành một xác chết. Lúc đó thì ta có thể
bắt đầu lại tất cả.
Để có được tâm xả, lòng thanh thản ta còn phải có những tánh tốt cơ bản
khác. Như sự chấp nhận, chịu đựng. Nếu không biết chấp nhận, ta sẽ sinh
ra khổ đau chính vì sự phản kháng của mình. Đối nghịch vời chấp nhận là
phản kháng, chống đối, và làm như thế chỉ mang lại đau khổ. Như khi ta
đẩy ngược lại với một lực gì tay ta sẽ đau. Nhưng nếu xuôi theo nó thì sẽ
không đau. Chấp nhận sự việc như nó xảy ra sẽ đem lại thanh thản, an nhiên
tự tại cho ta, và sự thanh thản đem an lạc lại cho ta.
Tứ vô lượng tâm hay bốn trạng thái tình cảm vừa nêu trên (Từ, Bi, Hỉ, Xả)
đem lại niềm vui trong lòng ta. Nếu ta biết vun trồng các tình cảm nầy đến
một mức độ nào đó, ta sẽ cảm thấy tự tại, an bình, thoải mái vì ta nhận ra
rằng cho dù thế giới có đảo điên, nghiêng ngả, ta không hề bị lay chuyển.
Như Phật nói “Tôi không tranh chấp với thế gian. Chính thế gian tranh
chấp với tôi”.
Thật là bình an, thanh thản!
---o0o--
                                 Chương 5 - Từ Bi Quán
Hãy chú tâm vào hơi thở của bạn trong giây lát.
Hãy soi lòng mình xem có điều gì lo âu, sợ hãi, đau đớn, ganh ghét, ăn năn,
chán nản, khó xử, bất an không. Nếu có, hãy để chúng trôi đi như một
đám mây đen.
Hãy để sự ấm áp, thân thương dành cho chính bản thân mình tràn đầy trong
lòng, vì chỉ có ta là người bạn tốt nhất của chính mình. Hãy trùm phủ tâm
bạn với những tư tưởng thương yêu, tự bằng lòng phát xuất từ nội tâm.
Hãy bao bọc người gần kề bên bạn với những tư tưởng thương yêu, che phủ
người đó trong bình an và chúc cho người đó được hạnh phúc.
Hãy trùm phủ mọi người chung quanh với những tư tưởng thương yêu.
Hãy để cảm giác bình an đến với mọi người nơi đây, và hãy tự coi mình là
bạn tốt của mọi người.
Hãy nghĩ tới cha mẹ, dầu cho họ còn tại thế hay đã mất. Bao bọc họ với tình
thương. Phủ đầy bình an lên họ và biết ơn tất cả những gì họ đã làm cho
bạn, hãy là người bạn tốt của họ.
Hãy nghĩ đến những người gần gủi, thân thiết nhất của bạn. Hãy yêu thương
họ, trao tặng cho họ món quà của sự bình an mà không trông đợi một sự đáp
trả nào.
Hãy nghĩ đến các bạn bè. Hãy mở lòng ra với họ, để cho họ thấy tình bạn
của ta, sự quan tâm, tình thương của ta, tất cả ta dành tặng cho họ mà không
mong đợi một sự đáp trả nào.
Hãy nghĩ đến hàng xóm láng giềng của ta, bạn đồng nghiệp, những người ta
gặp ngoài đường, ở phố chợ, hãy đối xử với họ như bạn bè, hãy để họ đến
với bạn mà không nghi ngại gì. Hãy chỉ cho họ biết yêu thương.
Hãy nghĩ đến những kẻ ta không thích hay người đã có tranh cãi với ta,
người làm khó ta, những người ta không coi là bạn. Hãy nghĩ đến họ với sự
biết ơn, như thể họ là vị thầy đã dạy cho ta biết về chính những hành động
của mình. Hãy trải lòng đến họ, vì chính họ cũng có những khổ đau riêng.
Hãy tha thứ và lãng quên. Hãy làm bạn với họ.
Hãy nghĩ đến những kẻ bất hạnh hơn ta, bịnh nhân trong bịnh viện, kẻ tù tội,
trẻ bơ vơ trong các cô nhi viện hay ở các xứ sở có chiến tranh, kẻ đói khát,
tàn tật, mù lòa, cô đơn, vô gia cư, những kẻ khó nghe được Pháp. Hãy mở
rộng lòng ra với họ. Hãy làm bạn với họ, chỉ cho họ biết yêu thương, cầu
mong cho họ được hạnh phúc.
Hãy trở về với bạn. Cảm thấy an lạc từ bên trong vì đã có những ý nghĩ
thiện, hạnh phúc đến từ lòng thương yêu, và hỉ lạc đến từ sự bố thí. Hãy
nhận biết những tình cảm nầy, hãy kinh nghiệm sự ấm áp chúng tạo ra trong
ta, chung quanh ta.
Hãy cầu mong mọi người được hạnh phúc.
---o0o---
                    Chương 6 - Năm Chướng Ngại
Phần lớn chúng ta đều nghe danh hiệu Ma Vương. Đều biết đến Ma
vương bằng cách nầy hay cách khác. Nó chính là sự cám dỗ. Nó cám dỗ
chúng ta vào các con đường tội lổi. Ma Vương đến khi Đức Phật ngồi dưới
cây Bồ đề tĩnh tâm tìm sự giải thoát. Rõ ràng Ma Vương không phải là hình
ảnh của lũ quỷ với lửa đỏ tuôn tràn ra hai lổ tai, lôi kéo ta xuống địa ngục.
Ma Vương là sự cám dỗ đang ngự trong lòng ta. Nếu Ma Vương có thể đến
quấy rầy Đức Phật trước khi Ngài chứng đắc Niết bàn -dấy khởi cám dỗ
trong lòng Ngài- thì kể gì đến chúng ta?
Điều khác biệt là Phật nhận biết đó là Ma Vương -Sự cám dỗ. Ngài biết,
trong khi chúng ta thì không. Chúng ta lý giải và biện hộ cho nó. Tôi đã
nhìn thấy những dòng chữ dán trên một chiếc xe hơi như sau: “Cái gì đem
lại cho ta sự thoải mái, cái đó đúng”. Nhưng có bao nhiêu điều, bao nhiêu
thứ đem lại khoái lạc cho ta mà hoàn toàn sai, có người còn coi việc sát hại
người khác là niềm vui.
Sự cám dỗ trong lòng ta là ô trược của chính chúng ta, chúng ẩn nấp ở đó
để sẳn sàng tạo ra thêm tội lổi. Vì chúng ta không thích thú nhận rằng tâm
thân ta ô uế cần được tẩy sạch, ta tìm đủ mọi lý lẻ để biện hộ cho các hành
động của mình: ‘Tôi cũng có quyền được hưỡng thụ chứ’”, “Đó là điều tôi
ước muốn, nên hẳn là tôi rất cần”.
Sự cám dỗ có thể nói là luôn có mặt trong ta, nhưng vì không nhận ra nó,
ta luôn ở trong tình thế bối rối, khó xử. Ta luôn bị nó lôi kéo vào thứ nầy,
thứ kia. Thí dụ ngay bây giờ: ta biết tốt hơn hết là ngồi đây nghe Pháp,
nhưng cám dỗ bảo: giấc ngủ cũng tốt vậy? Nếu không có người chung
quanh, chắc là ta đã trèo lên giường ngủ rồi.
Ma Vương luôn kề cạnh bên ta. Nó kêu gọi ta làm những gì mang lại sự
thoải mái, khoái lạc, mà không nhận ra rằng tất cả các khoái lạc do ngũ dục
mang đến chỉ tạm thời, không thực có.
Đức Phật dạy rằng có năm trạng thái tình cảm là kẻ thù của mọi người:
năm chướng ngại hay năm triền cái. Tất cả chúng ta đều có, tất cả chúng ta
đều bị chúng cám dỗ. Hai trạng thái đầu là tồi tệ nhất, đem đến những hậu
quả trầm trọng nhất.
1. THAM
Kẻ thù đầu tiên là ái dục hay tham. Là kẻ thù khó nhận diện nhất vì nó
được chấp nhận rộng rãi trong xã hội. Tất cả các mục quảng cáo, trên truyền
hình, trong các cửa hiệu, các cửa kính đều nhắm vào việc khơi dậy lòng ham
muốn trong ta. Thật vậy, con người càng thỏa mãn được các ham muốn có
xe to, nhà mới, quần áo đẹp, họ càng được xem là thành công trong xã hội.
Vì việc thỏa mãn các ham muốn đem lại những sung sướng nhất thời, nó
làm ta lầm tưỡng nó là điều tốt. “Điều gì đem lại cho ta sự thoải mái, điều
đó hẳn là đúng”. Nó có hào quang giả tạo của nó. Không ai trách được
người luôn cố gắng để thỏa mãn các ham muốn của họ. Chính chúng ta còn
chưa biết mình đang làm gì. Thật kỳ lạ khi con người hoàn toàn không biết
mình đang làm gì.
Với kẻ thù thứ hai -sân hận- thì trái ngược lại. Nó luôn bị trách móc. Nó
không mang lại lạc thú gì. Mọi người đều chối bỏ nó. Tuy rằng đôi khi
chúng ta cũng tìm cách biện hộ cho nó. ‘Tôi tức giận vì cô đó, anh kia, họ...
làm những chuyện đáng giận quá’. Nhưng Sân không được xã hội chấp
nhận, vì sân không mang lại sự thoải mái. Do đó sân không tạo ra ảo giác
nó là điều tốt. Sân hận, ghét bỏ, oán giận, sợ hãi, bứt rứt, thảy đều là phiền
não, và người có tánh hay giận dữ thường bị kẻ khác phiền trách.
Lòng ái dục khi được thỏa mãn ít nhiều gì cũng mang đến cho ta sung
sướng, khoái lạc. Dầu vậy nó cũng là kẻ thù đáng ghê sợ như sân hận.
Chúng chỉ là hai mặt của một đồng tiền. Có thứ nầy thì phải có thứ kia đi
kèm theo. Dục vọng dấy khởi những ham muốn thường khó thỏa mãn
được. Chúng ta không thể có tất cả những gì ta muốn. Càng có nhiều ham
muốn, càng dễ bị thất vọng. Từ đó người ta trở nên sân hận vì không thể có
được điều mình ước muốn. Không ai lúc nào cũng có thể thỏa mãn hết tất cả
các ước muốn của mình. Điều đó thật là không tưỡng.
Aùi dục và sân là hai kẻ thù gây nhiều khốn khó cho chúng ta trong đời
sống hằng ngày cũng như gây nhiều trở ngại cho việc tu Thiền của ta. Nếu
có ai đó tự hỏi -mà tôi chắc là có rất nhiều- tại sao họ thường gặp trở ngại
khi tu thiền, nhất là với người mới tu tập, thì đây là những lý do.
Dục Vọng là kẻ nói ‘Tôi thích ngồi thoải mái hơn’. Dục vọng là kẻ nói:
‘Tôi muốn đi ngủ’. Dục vọng là kẻ nói: ‘Tôi muốn chuyện vãn. Tôi thích đi
dạo một chút. Nóng quá. Tôi phải đi tắm. Đói quá. Tôi cần ăn một thứ gì đó.
Khát quá. Tôi phải uống gì đó. Tôi khó chịu quá, làm sao ngồi thiền’. Đó là
tiếng nói của dục vọng, lúc nào cũng đòi hỏi thứ nầy, thứ nọ.
Aùi dục sẽ ngưng đòi hỏi khi kinh nghiệm thiền định mang lại cho ta nhiều
thích thú hơn sự thỏa mãn các dục vọng. Khi Thiền định mang đến hạnh
phúc, an lạc, lúc đó các dục vọng sẽ biến mất khi ta ngồi thiền. Không phải
là mãi mãi, mà chỉ trong khoảng thời gian ngắn đó.
Vì khi sinh ra chúng ta đã có các giác quan, nên ta muốn nuôi dưỡng
chúng. Giống như ta muốn nuôi dưỡng thân. Nếu không, ta sẽ bịnh.
Trước khi các nhà phi hành đầu tiên được gửi lên phi thuyền, một trong
những phương pháp được dùng để huấn luyện họ ở Mỹ là một căn phòng
không có sức hút, nên không có xúc chạm. Phòng cách âm và không có gì
để nhìn. Mọi thứ đều có màu xám. Những món đồ ăn vô vị được chuyển tới
bằng những ống dẫn. Họ được dặn là khi nào không chịu đựng nổi nữa, họ
có thể rung chuông ra hiệu. Hình như người chịu đựng được lâu nhất là tám
tiếng.
Thực phẩm sẽ ngon hơn nếu có sự kích thích của các giác quan, ta đã quen
như thế. Sự quen thuộc, bám víu nầy tạo cho ta cái aỏ giác rằng đây là điều
tối hệ trọng, đây là hướng ta phải theo -nhìn cảnh đẹp, nghe những âm thanh
dễ chịu, nếm mùi vị ngon, ngửi mùi thơm, những xúc chạm mang đến sự dễ
chịu và nghĩ đến những điều làm ta thích thú.
Một cách sống như thế -và tất cả những người chưa được nghe pháp,
không tu tập thiền đều vướng phải- không thể mang đến thành công. Đó là
châu báu của kẻ dại khờ. Nó nhấp nháy sáng, nhưng nó chẳng có giá trị gì,
vì nó quá ngắn ngủi.
Hãy tưỡng tượng bạn được ăn một buổi thật ngon, bạn tấm tắc: ‘Ngon.
Thật là ngon’. Một người bạn nói: ‘Nếu ngon vậy, xin mời bạn cứ tiếp tục
ăn. Bạn có thể ở đây ăn đến sáng hôm sau’. Lúc đó cái ngon thành khổ
thân, khổ tâm. Một bữa ăn dù ngon mấy chỉ có thể thưỡng thức trong 20 hay
25 phút là cùng. Cũng vậy, vào một ngày nóng nực, bạn muốn được tắm
mát. Khi được tắm, bạn thích thú nói: ‘Tuyệt quá. Tôi thấy mát mẻ, dễ chịu
làm sao’. Lúc đó, người bạn lại nói: ‘Nếu thế, sao bạn không ở trong đó
thêm 5 hay 6 tiếng nữa?’ Nếu làm thế thì hành xác còn gì. Không ai muốn
làm thế. Mười phút, mười lăm phút tắm là cùng.
Đối với tất cả mọi ham muốn khác cũng thế. Sự thích thú sẽ biến mất khi
nó được kéo dài ra. Nó biến thành cực hình. Vậy mà tất cả chúng sanh đều
chạy đuổi theo các lạc thú ngắn ngủi đó. Người ta tìm lạc thú trong rượu,
nhưng khi say rượu làm sao còn có được cảm giác vui thú nào. Tất cả
những hạnh phúc con người tìm kiếm qua thỏa mãn các giác quan của mình
đều dẫn đến sự thất bại. Các cảm thọ chỉ là sự biểu lộ cụ thể của các giác
quan như -tai, mắt, mủi, lưỡi, thân. Không có gì đặc biệt về chúng, không
có gì tội lỗi hay không tội lỗi. Các cảm thọ không tạo ra nghiệp tốt hay xấu.
Nghiệp xấu được tạo ra bên trong ta khi tâm muốn duy trì hoặc tìm lại các
cảm giác khóai lạc.
Có người tìm các cảm giác khoái lạc qua các hành động như uống rượu,
hành hung người khác, hút sách, tình dục. Đây là những khoái cảm thấp
hèn, tội lỗi. Kẻ khác lại tìm cảm giác thích thú trong việc ngắm hoa, nhìn
mặt trời lặn, nghe âm nhạc. Đây cũng là lạc thọ nhưng cao thượng hơn.
Khổ đau dấy khởi khi ta muốn chiếm hữu, giữ chặt, hưỡng thụ các cảm
giác khoái lạc đó mãi. Khi nhìn thấy một bông hoa đẹp, ta thường muốn
ngắt hái cho riêng mình. Sao không để chúng đó cho mọi người ngắm nhìn?
Không. Tôi muốn chiếm hữu tất cả những gì đẹp đẽ.
Khi con người biết sống thanh cao hơn, các cách hưỡng thụ cũng sẽ cao
đẹp hơn . Một cảm giác hưởng thụ có thể rất bình thường, nhưng nó trở nên
nguy hiểm khi đi đôi với lòng ham muốn. Sự ham muốn -lòng khao khátmang
đến phiền não vì lòng ham muốn không bao giờ có thể được thỏa
mãn. Chúng ta luôn cảm thấy thiếu thốn. Lúc nào cũng có cái đẹp hơn để
nhìn, nhiều điều hay hơn để nghe, để xúc chạm. Lúc nào cũng có một cái gì
khác để ta chạy đuổi theo. Điều nầy khiến ta trở nên chộn rộn, bứt rứt vì ta
chẳng bao giờ được hoàn toàn thỏa mãn.
Khi trong lòng ta không được an bình, ta đổ lổi cho hoàn cảnh quanh ta.
Ta nghĩ phải có một cái gì đó tuyệt diệu hơn cần được khám phá. Vì thế, ta
đi khắp thế giới để tìm kiếm. Một việc chẳng khó khăn gì hiện nay. Chỉ cần
cái vé máy bay. Người ta đi đó, đi đây để tìm kiếm những xúc cảm mới,
cảnh vật mới, kinh nghiệm mới. Thu thập kinh nghiệm đã trở nên một
phong trào. Nhưng rồi ta cũng không vừa lòng, vì kinh nghiệm nhanh chóng
qua đi. Không có kinh nghiệm gì còn ở lại. Tất cả đã qua. Tất cả đã thành
ký ức. Không có gì có thể được lưu giữ. Sưu tầm tem thư có lẻ còn ích lợi
hơn là lưu trữ kinh nghiệm.
Aùi Dục đã được Đức Phật ví như mắc nợ. Nếu bạn mua nhà, bạn vay tiền
ngân hàng, mỗi tháng bạn phải đến đó để trã tiền vay và tiền lãi. Nhưng với
nợ nhà, dần dần ta còn trả hết. Chứ với dục vọng, không có chuyện sẽ dứt
nợ. Dục vọng dấy lên tiếp, tiếp nhau. Chẳng bao giờ dứt. Ta luôn đói.
Luôn khát. Ta luôn muốn được nhìn, nghe, nếm, xúc chạm thêm lần nữa.
Đức Phật cũng ví nó với một người lữ hành không phương hướng. Anh ta
đói khát. Nhìn thấy trước mặt là một ngôi làng, mừng rở, anh thầm nghĩ, ‘À,
kìa có ngôi làng để ta xin đồ ăn, thức uống’. Nhưng khi đến nơi, đó chỉ là
một ngôi làng hoang vắng. Anh lại tiếp tục kiếm tìm. Lại một ngôi làng bỏ
phế nữa.
Lòng hy vọng và ước đoán về việc thỏa mãn các dục vọng làm dục vọng
thêm hấp dẫn. Nhưng khi đã thỏa mãn, tất cả đã qua đi, ham muốn khác lại
dấy khởi lên.
Đức Phật cũng so sánh dục vọng như một cái hồ với nhiều màu sắc được
trộn vào đó. Lòng khao khát dục vọng hiện ra dưới nhiều dạng, bao trùm cả
tâm trí sáng suốt của ta. Đó là nỗi khổ của ta. Ta bị cuốn hút bởi lòng ham
muốn, và không còn thấy gì khác có thể quan trọng hơn. Ta chỉ thấy có sự
ham muốn và cơ hội để thỏa mãn nó. Ta tự đánh mất mình.
Đức Phật đã cho ta rất nhiều ẩn dụ về lòng tham dục. Nhưng ẩn dụ quan
trọng nhất, trước tiên là phải hiểu rằng dục vọng là kẻ thù có thể đánh quỵ
ta, tạo ra nỗi sợ hãi không đạt được điều mình mong muốn, lòng ganh ghét
đối với người được điều ta mong muốn -ghen ghét, ganh tỵ - và những trạng
thái tâm hồn bất ổn, đau khổ mà ta không thể có nếu như không có lòng
muốn cái người khác có.
Ta phải hiểu đó là nguồn gốc của bao phiền não của con người: mong
muốn được có các cảm giác dễ chịu, thích thú, mong muốn được thỏa mãn,
nhưng thường ta không đạt được chúng, hay nếu có được cũng chẳng bao
giờ có thể giữ chúng mãi. Buông bỏ ham muốn, có nghĩa là buông bỏ thất
vọng. Nhưng điều đó không thể thực hiện chóng váng bằng lời nói, hay suy
nghĩ xuông. Đó là một quá trình huân tập lâu dài. Bước đầu tiên là phải biết
ngồi trong tư thế không được thoải mái. Không được nghiêng ngửa, đổi thế
ngồi để cho bớt khó chịu. Không thể trốn tránh sự đau khổ. Không thể
thoát khỏi đau khổ bằng cách ấy. Chỉ có một cách duy nhất là buông bỏ
ham muốn. Phải hoàn toàn dứt bỏ chúng.
Sự khó chịu trong tư thế ngồi thiền là cơ hội để ta kiểm soát các dục vọng
của mình. Nếu ta không tìm hiểu chúng từ tư thế nầy, ta sẽ khó thể biết về
chúng cách nào khác. Không thể học ở trường học, giảng đường. Cũng
không ai dạy ta về chúng ở gia đình. Ở đó, ai cũng đang tìm mọi cách để
được sung sướng, thoải mái. Nếu bạn có thể ngồi thoải mái, đó cũng là điều
tốt. Nhưng nếu bạn ngồi một cách khổ sở, điều đó cũng không xấu. Tựu
trung là bạn đang có cơ hội để tu tập ngay ở nơi chân, hay lưng hay bất cứ
nơi nào.
Ước muốn được thoải mái và xoay trở để đạt được điều nầy chính là việc
mà mọi người đang làm ở khắp mọi nơi. Và họ phải mất khá nhiều thời
gian, tiền bạc cho điều đó. Đó là lý do tại sao người ta làm tăng ca, đi du
lịch, tìm kiếm các thú giải trí, cũng là để thoát ra khỏi sự đau khổ, phiền não.
Nhưng đó là điều vô ích. Tại sao ta đi tìm những cái vô ích? Vì một khi ta
vừa thoát ra khỏi các phiền não, bực bội nầy, thì lập tức phiền não, bực bội
khác lại dấy lên. Khi một thú tiêu khiển vừa dứt, sự chán nản, buồn bả lại
đến. Chân mặt vừa dễ chịu vì bạn vừa chuyển thế ngồi, thì chân trái lại đau
nhức. Thật là dại khờ để chạy theo những điều vô ích đó. Tốt hơn là nên
làm theo Pháp. Pháp đã được chứng nghiệm là sự thật. Đức Phật đã chứng
nghiệm điều đó và tất cả những người giác ngộ sau Ngài cũng đã chứng
nghiệm điều đó.
Buổi chiều, khi bao tử bạn kêu đói, tâm liền khởi nghĩ: ‘Không biết có
nên bỏ ăn buổi tối không?’ Hoặc tâm đã lăng xăng chạy nghĩ đến nhà bếp
với những món bạn có thể làm, đó là dục vọng. Nếu tâm đang cố gắng
chống cự lại sự cám dỗ thì bạn đã bị dục vọng lôi cuốn. Nhưng nếu bạn có
thể nhìn vào sự đòi hỏi vừa dấy lên, mỉm cười và nói: ‘Đấy đúng là cám dỗ
của Ma Vương’ thì bạn đã thấy được Pháp. Không cần phải nghe nhiều, đọc
nhiều về Ma Vương. Chỉ cần nhận biết nó khi nó xuất hiện vì nó không có
nơi nào khác để hoạt động trừ ngay trong chính mỗi chúng ta. Nó rất sung
sướng được ngự trị trong ấy vì chúng ta luôn tòng phục theo nó.
Một trong những điều mà Đức Phật khuyên răn nhằm chế ngự sự tham dục
là tiết độ trong ăn uống. Và đó là lý do tại sao có giới luật không ăn sau 12
giờ trưa. Tiết độ ăn uống không có nghĩa là không ăn uống gì. Mà chỉ ăn đủ
để giữ sức khỏe cho cơ thể. Nhưng sự ham muốn nầy rất dễ được thỏa mãn,
vì thế nó liên tục dấy khởi. Đối với một số người có khi bốn, năm hay sáu
lần ăn trong một ngày. Nếu chúng ta có khả năng chống lại được một ham
muốn, chúng ta sẽ có khả năng để chống lại những ham muốn khác. Vì thế
để bắt đầu, ta nên chọn sự ham muốn mà ta dễ dàng chịu thua và nó luôn dấy
khởi, đó là tiết chế sự ăn uống.
Một thứ thuốc giải độc khác để chữa trị dục vọng mà Đức Phật khuyên ta
nên theo là nhìn sự vật từng phần hơn là tổng thể. Có lẻ ta chẳng lạ gì với
chuyện nhìn cơ thể với ba mươi hai phần:
Trong thân thể nầy, từ gót chân trở lên, từ đỉnh đầu trở xuống đều được
bao bọc bởi đảy da hôi thối; trong cơ thể nầy có tóc trên đầu, lông trong
người, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương, tủy xương, thận, tim, gan, màng
mạc, tỳ tạng, phổi, ruột già, ruột non, cổ họng, phân, mật, đờm, mủ, máu,
mồ hôi, mỡ, nước mắt, chất nhờn trên da, nước miếng, đờm giải, dung dịch
ở các khớp, nước tiểu và óc.
Nếu bạn có lòng ưa thích một người nào đó, thay vì nhìn vẻ đẹp bề ngoài
của họ, hãy nhớ đấy chỉ là lớp ‘giấy gói quà’ màu sắc bên ngoài, bên trong
con người đó có bao nhiêu phần nhỏ khác. Ba mươi hai phần của cơ thể với
‘tóc trên đầu, lông trong người, móng tay, răng, da, thịt...’. Vì thế thay vì
nhìn vẻ ngoài đẹp đẽ, chỉ nên nhìn răng?
Có câu chuyện về một tăng sĩ, có lẻ là một vị A la hán cùng thời vời Đức
Phật. Có một đôi vợ chồng cãi nhau rất dữ dội, và sau đó người vợ không
còn muốn ở với chồng mình nữa. Cô mặc tất cả những quần áo đẹp nhất,
đeo các vàng bạc, nữ trang quí gía nhất khi bỏ trốn đi vì cô muốn đem theo
tất cả của cải. Người chồng rượt đuổi theo, nhưng không bắt kịp, có lẻ vì
người vợ đã bỏ đi sớm hơn anh ta tưỡng. Khi người đàn ông chạy trên
đường tìm kiếm vợ, anh ta gặp vị sư nầy. Anh liền đến để hỏi nhà sư có gặp
một người đàn bà tóc đen, đẹp đẽ, mặc một chiếc sari đỏ, với rất nhiều trang
sức quí giá chạy trên đường không? Nhà sư trã lời “Tôi không trông thấy
người đàn bà nào, chỉ thấy một hàm răng chạy qua thôi”.
Có lẻ nhìn được như nhà sư hơi khó cho chúng ta, nhưng câu chuyện đã
nói lên được điều Đức Phật muốn răn dạy chúng ta: Đừng nhìn toàn bộ, thì
có ai sẽ yêu đương nổi một hàm răng. Ai đam mê nổi một bao tử? Thí dụ
như khi ta khởi lòng ham muốn một chiếc xe đắc tiền, nếu ta chỉ nhìn dáng
vẻ bề ngoài của nó, màu sắc của nó, ta dễ bị sa ngã phải mua chiếc xe ấy, để
rồi phải trả nợ trong vòng hai chục năm. Nhưng nếu ta nhận ra rằng chiếc xe
ấy cũng chỉ được tạo ra bởi tay lái, bàn đạp ga, bộ máy, ống lọc không khí,
với bao nhiêu là bù lon con táng trong đó, thì chắc ta không đến nỗimê đắm
chiếc xe đó vì những bộ phận rời rạc đó, cũng như không thể mê đắm một
người nào đó vì từng bộ phận của họ.
Đối với người dễ bám theo các vẻ đẹp bề ngoài, có lẻ cần thiền quán về
các bộ phận của chính thân mình. Chúng ta cũng được làm bởi ba mươi hai
bộ phận đó. Không ai khác ai. Nều bỏ lớp da bọc ngoài, tất cả mọi người
đều giống nhau.
Liều thuốc giải độc cho cả năm chướng ngại -năm kẻ thù của ta- là có bạn
tốt và nói điều tốt. Có được những người bạn mà ta có thể trao đổi về
phương cách để áp dụng Pháp Phật vào đời sống thường ngày, chứ không
phải loại bạn để nói về thời tiết, chính trị, đàm tiếu về người khác. Thiện tri
thức rất quan trọng trong cuộc đời ta. Khi Ananda, người em bà con của
Đức Phật và là thị giả của Ngài, nói: “Bạch Thế Tôn! Có được một người
bạn tốt là có được nửa cuộc đời thánh thiện”. Phật bảo: “Không phải thế Anan.
Một người bạn tốt là cả cuộc đời thánh thiện”. Không có gì có thể
thay thế một người bạn tinh thần. Đó là người quan trọng nhất trong đời
bạn- người nhắc nhở ta đi trên đường chánh đạo.
Vấn đề là phải nhập tâm. Khi ta nhớ những điều nầy, ta có thể làm được,
nhưng nhiều lúc ta quên. Những cuộc đàm đạo hữu ích với thiện tri thức
giúp chúng ta luôn soi lại lòng mình, và nhận ra rằng phần lớn vấn đề của
chúng ta xuất phát từ lòng ham muốn, từ dục vọng của chúng ta.
Ta không muốn ăn các chất độc hại. Ta không muốn cơ thể ta chứa đầy
những thứ độc hại. Cũng thế, ta không nên bỏû đầy tâm trí ta với các
chuyện nhảm nhí, độc hại. Tâm ta chỉ nên chứa những chuyện về Pháp,
chuyện tốt, những câu chuyện làm ta phấn khởi, giúp đỡ ta, xoa dịu ta, làm
ta an lạc, chữa lành cho ta, và quan trọng nhất là giúp ta thấy được con
đường để thoát ra khỏi những vấn đề làm khổ não tất cả chúng sanh.
Nếu chúng ta may mắn có được những người thiện tri thức ở quanh ta, thì
cách bày tỏ lòng biết ơn tốt nhất là trở thành một thiện tri thức đối với người
khác. Là bạn tốt giống như phản ứng dây chuyền. Bạn không nên chỉ đi tìm
bạn tốt. Chính bạn cũng nên là bạn tốt.
2. SÂN
Chúng ta luôn phải đối đầu với bao kẻ thù. Vì chúng trụ ở bên trong ta, ta
khó nhận ra chúng. Do đó trước hết ta phải ngó lơ chúng để chú tâm vào
việc thanh tịnh hóa tâm, dần dần chúng không còn là một phần của ta nữa.
Con đường tâm linh, con đường thanh tịnh hóa, đoạn diệt, tự do là con
đường dẫn ta đến sự thay đổi bản tánh của mình. Nếu ta không bắt đầu bằng
bước đó, ta sẽ không thể bước vào thế giới thanh tịnh. Mọi thứ khác đều là
ngoại giới, chỉ có bản tánh là nội tâm. Mặc dầu ngoại giới có thể đẹp đẽ, có
thể mang cho ta cảm giác thoải mái, nhưng chúng không thể thay đổi nội
tâm ta. Và chỉ có sự thay đổi đó mới phân biệt được một người cao cả với
người bình thường. Người bình thường hành động theo sự sai bảo của bản
năng. Người cao cả chuyển hóa chúng.
Chướng ngại thứ hai cũng như các tội lổi khác gây bao điều tai hại cho ta
đó là sân hận, nóng giận. Mức độ nóng giận có thể nặng, nhẹ. Khi bùng nổ
ra ngoài, khi gậm nhấm bên trong. Khi nó được bộc lộ ra lời, thường làm
người khác cũng sinh giận dữ. Từ đó gây ra cãi vả trong gia đình, xích mích
ở xóm giềng. Nảy sinh ra oán thù giữa các cộng đồng, chiến tranh giữa các
quốc gia hay trên cả thế giới.
Tất cả mọi thứ đều bắt đầu từ trong tâm ta, nên ta phải nhận ra rằng thế
giới không phải là tha nhân. Mà mỗi chúng ta là một thế giới, do đó trừ khi
ta tự tìm thấy an bình trong chính tâm ta, ta sẽ không thể tìm thấy điều đó ở
đâu khác. Không cần kể là người khác đang tức giận, bực bội, sai quấy hay
ngã mạn. Không có gì đáng kể cả. Điều quan trọng chính là thái độ của
chúng ta trong hoàn cảnh đó. Không thể có sự an ổn tuyệt đối trên thế giới
nầy. Dưới thời Đức Phật đã không có. Dưới thời các vĩ nhân, các vị thánh
đã không có. Trái lại, lịch sử đã bày cho ta thấy bao nhiêu cảnh tranh giành
thế lực chính trị, chiến tranh, anh em xâu xé nhau.
Sự bình an duy nhất ta có thể có được là sự bình an tự trong trái tim ta.
Sự an lạc Đức Phật đã tìm thấy cho chính mình, lại âm vang đến cả thế
giới. Ngài là người đã tìm thấy an bình với chính mình, với thế giới và sự an
bình đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay, hơn hai mươi lăm ngàn năm sau trong
Pháp của Ngài. Năm trăm triệu người trên thế giới đã thệ nguyện làm đệ tử
của Ngài.
Rõ ràng là nghiệp của chúng ta không giống nhau. Nhưng nếu ta có thể
truyền cho người thân trong gia đình, sự an bình, tự tại trong tâm ta, cũng đã
quá tốt. Đó cũng là một thành tích có phải không? Khi tất cả mọi người
trong gia đình đã được truyền cho sự bình an, thì an bình cũng có thể lan
truyền đến hàng xóm, láng giềng. Được thế càng tốt hơn. Ta không cần
phải là Phật mới có thể ảnh hưởng sâu xa đến người khác.
Ảnh hưởng sâu xa chỉ có thể nẩy sinh khi trong tâm ta chỉ có sự bình an,
tâm không còn dấy khởi sân hận. Chỉ có các vị A la hán mới đoạn diệt được
hết các niệm sanh ra sân hận. Dầu vậy nếu ta có thể kiềm chế sân hận vẫn
hơn lúc nào cũng giận dữ, cãi lẩy, hờn oán, thương tổn, trách móc người
khác.
Sân hận dấy khởi do ta cảm thấy bị thương tổn, đau đớn, và phản ứng của
con người lạ lùng thay, là cũng gây đau đớn lại cho người khác. Ta sẽ không
thể sửa đổi, nếu như không nhận biết điều đó. Nhưng không phải ai cũng
gây đau đớn cho người khác, có người tự gây thương tích cho mình. Họ
nuốt giận, chôn giấu nó, nhưng nó vẫn sôi sục ở bên trong. Và rồi tất cả sự
giận dữ đó sẽ phát lộ ra bằng các chứng bịnh, thiếu nghị lực, trầm uất, tiêu
cực, thiếu hỉ lạc và bình an.
Rất ít người chúng ta gặp trên đường phố có nét mặt vui vẻ, hạnh phúc.
Bạn có nhận thấy không? Không chỉ ở đây mà ở khắp nơi: Sidney, London,
Amsterdam hay Paris. Bất kể ở đâu, con người đều giống nhau.
Những đau đớn ta đã kinh nghiệm trong cuộc đời, mà ta luôn phải chống
trả, tạo cho ta cái ý nghĩ là nếu ta trả đủa lại, thì sự đau đớn, tổn thất của ta
sẽ giảm đi. Sự thật thì trái lại, điều đó chỉ làm cho sự đau đớn tăng lên gấp
bội.
Đức Phật đã so sánh sân hận như bịnh sôi mật. Khi bạn giận dữ -và tôi
đoán chắc rằng không ai thóat khỏi- bạn hiểu cảm giác đó thế nào? Cảm
giác khó chịu -vậy mà ta cứ mãi sân hận. Nếu đó không là kỳ quái, thì là cái
gì? Giống như người tự đánh mình, mỗi lần đánh đều thấy đau, nhưng vẫn
cứ lập đi, lập lại.
Đức Phật cũng ví giận dữ giống như cầm than đỏ bằng tay không, chọi vào
kẻ khiến ta sân giận. Ai sẽ phỏng trước? Dĩ nhiên là người giận.
Ngài cũng ví sân hận như cái hồ trong đó nước sôi sục. Nếu nước sôi, ta
không thể có một mặt hồ tĩnh lặng để soi mình vào đó. Khi ta giận dữ, ta
không còn biết tất cả vì mục đích gì, sự tỉnh thức của ta bị chìm lấp. Ta
quên hết mọi thứ, chỉ còn biết cơn giận của mình. Nếu lúc đó ta có thể nhìn
vào kiếng thì gương mặt ta nhìn thấy sẽ xấu xí biết bao. Nhưng lúc đó
không ai còn thì giờ để nhìn vào kiếng. Họ bị cuốn lấp trong cơn giận.
Đức Phật dạy khi sân hận dấy khởi, điều đầu tiên ta nên nhớ là ‘Ta là chủ
nghiệp ta’. Sự nhắc nhở đó rất quan trọng ở giây phút căng thẳng nhất. ‘Tôi
làm chủ nghiệp của tôi, nên nếu như tôi tức giận, tôi sẽ lãnh nghiệp báo của
hành động đó’. Bất kể người kia đã làm gì cho bạn giận.
Có một câu chuyện rất hay về Khantivàdin, vị thầy của sự kiên nhẫn. Hay
vì nó mô tả được sự vô lý của lòng giận dữ. Vua Kausala là một vị vua rất
giàu. Oâng có rất nhiều vợ. Một ngày kia vua báo cho các bà vợ là ông
muốn đi chơi ở ngoại thành. Các người đấu bếp sửa soạn thức ăn, đầy tớ lo
sửa soạn voi, quân lính sửa soạn quân phục.
Sáng hôm sau cả triều đình, vua và đoàn tùy tùng ra đi. Đến một khu rừng
có những thảm cỏ thật đẹp, họ dừng lại. Nhà vua ăn, và uống quá nhiều.
Ngay sau bữa ăn, Ngài thiếp ngủ. Các bà vợ bảo nhau: “Đây là dịp cho
chúng ta dạo chơi quanh đây, vì có mấy khi ta được ra tới bên ngoài”. Nói
rồi, họ dắt nhau đi bắt bướm, ngắm cây cảnh, tận hưỡng vẻ đẹp của khu
rừng.
Không lâu họ đến căn lều của vị Thầy của lòng kiên nhẫn mà họ hằng
nghe tiếng, Ngài Khantivàdin (Khanti -lòng kiên nhẫn, vàdin - Thầy). Tất cả
họ đều bái lạy, xin Ngài ban cho những lời chỉ dạy. Vị thầy vui vẻ nói cho
họ nghe về các hành động thiện, lòng từ bi và rộng lượng.
Trong lúc đó, nhà Vua tỉnh giấc, không thấy người vợ nào ở bên cạnh
mình. Nổi giận. Oâng sai lính đi kiếm các bà vợ. Quân hầu trở về báo là họ
đang ngồi nghe giảng thuyết. Nhà vua không nghe lý lẻ gì, ông sai quân gọi
các bà vợ về và bắt vị thầy Kiên nhẫn trói vào gốc cây.
Sau đó nhà vua rút gươm giận dữ đến nói với Khantivàdin “Đồ khốn kiếp,
sao nhà ngươi dám dụ dổ các bà vợ của ta?”. Ôâng chém vào chân của vị
thầy và hỏi: “Bây giờ thì lòng kiên nhẫn của ông ở đâu?” Khantivàdin trã
lời: “Thưa Ngài, nó không nằm ở chân tôi”. Nhà vua càng tức giận, càng
chém vị thầy và tiếp tục hỏi cùng câu hỏi, trong lúc vị thầy cứ trã lời giống
như cũ.
Khi Khantivàdin sắp chết, các quân lính quì xuống xin Khantivàdin “Xin
Ngài hãy thương xót, chúng con không có lổi, chính nhà vua là người đã ra
lịnh”. Và Khantivàdin trã lời: “Không. Ta không oán hận ai. Ta cầu mong
cho nhà vua sống lâu và hạnh phúc”. Nói rồi vị thầy chết. Theo câu chuyện
sau đó nhà vua bị đất lấp chết.
Câu chuyện đã cho ta thấy dù có bị cắt ra từng mảnh, vị Thầy cũng không
tỏù gì giận dữ. Có lẻ điều đó khó chấp nhận đối với chúng ta. Rõ ràng
Khantivàdi là một vị A la hán vì khi ông nói “Lòng kiên nhẫn của tôi không
có ở trong bàn chân của tôi”, ông muốn chứng tỏ rằng dù cho sự đau đớn thể
xác có như thể nào, tinh thần ông vẫn không nao núng. Đối với chúng ta,
điều đó thật khó tưỡng tượng. Sự đau đớn của thân luôn ảnh hưởng đến tâm
ta. Nếu ta có thể nhớ được câu chuyện nầy cũng như lời của Đức Thế Tôn
dạy: “Kẻ nào không làm giống như thế, không hiểu Pháp của ta”, ta sẽ hiểu
rằng lòng sân hận là chính là tội nghiệp ta tự gây ra cho mình. Chẳng phải
do hành động của tha nhân.
Hiểu được như thế, ta sẽ dễ sửa đổi nếu như ta tỉnh thức và ý thức được
khi nào sân hận dấy khởi. Sự tỉnh thức giống như bàn thắng trên xe hơi.
Thử tưỡng tượng sự nguy hiểm của một chiếc xe không có thắng. Không có
sự tỉnh thức, cuộc đời ta cũng nguy hiểm như thế đấy.
Mỗi khi sân hận nổi lên, ta đạp thắng ‘tỉnh thức’, và ta biết rằng mình vừa
‘phạm tội’. Biết rằng ta vừa làm một việc chẳng tốt đẹp, lợi lộc gì. Dựa vào
các nhận thức nầy, ta có thể làm giảm bớt khá nhiều sức mạnh của cơn giận,
giống như khi đạp thắng, ta đã giảm bớt được tốc độ của xe, đi chậm lại.
Biết rằng sân hận là không tốt, cũng có thể làm thay đổi cả quá trình giận dữ,
đôi khi còn làm vô hiệu hóa nó. Ta có thể quan sát khi một sự giận dữ đã bị
vô hiệu hóa, để nhận ra sự vô ích của cơn giận. Bạn sẽ nhận ra sự đau đớn
mình tự gây ra cho mình, và sự u mê khi tự mình làm mình đau khổ.
Sự u mê lớn nhất của con người là tự làm khổ mình bằng chính những
hành động của mình. Cần phải có quyết tâm sửa đổi để một ngày nào đó -có
thể hôm nay, năm tới hay một cuộc đời khác- để không tự gây đau khổ cho
mình nữa. Hãy ngưng phản ứng một cách tiêu cực đối với bất cứ việc gì xảy
ra quanh ta, vì ta biết rằng tất cả chúng ta đều ô trược, tội lổi, và chính sự ô
trược đó khiến cho phiền não sinh ra.
Cả thế giới nầy đều ô trược. Thật vậy, hãy thử cầm một tờ báo như
Newsweek. Bạn thấy gì? Không có gì ngoài tội lỗi, ô trược. Nếu chúng ta
nhận thấy được cả thế giới đều bị nhiễm ô uế, thì tại sao ta không rẽ vào con
đường chánh định, không để mình đi theo đoàn xiếc tội lổi? Tại sao ta
không tách ra khỏi đám đông và quan sát vạn pháp dưới mọi khía cạnh?
Chúng ta chỉ có thể hành động như thế khi ta không còn có những phản ứng
tiêu cực trong đó tệ hại nhất là lòng giận dữ và oán ghét.
Con người không bao giờ hết nói bậy, làm bậy. Chỉ khi nào ta có thể huân
tập cho mình luôn sống trong Pháp thì ta mới mong sửa đổi được. Nếu ta
phải đối mặt với việc làm sai trái, thái độ bất nhã, ích kỷ, đòi hỏi ta nhiều
hơn ta có thể cho, thì đã sao? Quan trọng là sự bình an và hạnh phúc trong
lòng ta. Tất cả mọi thứ khác đều là phiền não, không nên có, mà ta lại
thường tự gán vào mình. Tất cả các phiền não khổ đau nầy phát sinh là do
hành động của chúng ta, nhưng ta lại có khuynh hướng đổ lỗi cho người
khác là nguyên nhân tạo tác. Ta nổi giận nên ta đổ cho người làm ta giận.
Ta buồn rầu nên ta đổ cho người khác hay hoàn cảnh làm ta buồn rầu.
Nhưng ta quên rằng nếu trong ta không có sẳn các mầm móng, khuynh
hướng giận dữ hay buồn rầu, thì không thể xảy ra chuyện gì cả.
Giống như món đồ chơi trẻ con Jack-in-the-box, là một cái hộp trong đó có
một búp bê hình nộm mà hể ta vừa chạm tay tới cái nắp, lập tức hình nộm
nhảy phóc ra khỏi hộp. Nhưng nếu ta lấy hình nộm ra khỏi hộp, thì dù ta có
dùng búa để đập nắp hộp cũng không có gì xảy ra. Không có gì ở bên trong
đó, thì dù có nguyên nhân tạo tác nào cũng không có gì ở bên trong để bật ra
ngoài.
Cách duy nhất để tìm sự an bình cho chính mình, tìm con đường đưa đến
giải thoát, là tu sửa mình, không phải thay đổi thế giới bên ngoài. Mọi
người phải tự sửa đổi chính mình. Đức Phật không thể thay đổi chúng ta.
Nhưng Ngài chỉ chúng ta phương cách tu sửa. Chúng ta phải tự mình hành
động thôi. Càng bắt đầu sớm càng nhanh chóng có cơ hội tìm hạnh phúc cho
chính mình mà không phải phụ thuộc vào bất cứ thứ gì ở bên ngoài chúng ta.
Không mấy ai được tất cả mọi thứ trong cõi đời nầy. Ai cũng có những
điều bất như ý. Hoặc là nhà cửa chật chội, lương bổng thấp kém hay bà con
họ hàng xích mích, hay hàng xóm quá ồn ào, hay không có bằng cấp cao....
Lúc nào cũng có việc gì đó rục rặc. Không ai có một hoàn cảnh hoàn toàn
như ý cảû, nhưng nếu chúng ta không bắt đầu sửa đổi mà chỉ ngồi chờ đợi
hoàn cảnh tốt hơn thì chúng không bao giờ xảy ra cả. Môi trường lý tưởng
chỉ có thể hiện hữu trong tâm chúng ta. Điều đó có thể thực hiện được.
Đức Phật bảo cõi người là cõi tốt nhất để tu giải thoát. Vì chúng ta có
những nỗikhổ, bất như ý để thúc đẩy ta phải làm một điều gì đó. Mặt khác
ta cũng có những niềm vui, hạnh phúc để ta không đến nổi hoàn toàn tuyệt
vọng vì những đau khổ của mình, nên ta còn có thể hy vọng. Điều tai hại là
ta chỉ hy vọng hảo huyền, hy vọng rằng hoàn cảnh sẽ thay đổi, hy vọng
người không yêu ta sẽ yêu ta hay người ta yêu sẽ ở mãi bên ta, hy vọng ta sẽ
giàu có. Hy vọng ta sẽ khôn ngoan để không mắc phải lổi lầm nào. Tất cả
chỉ là những hy vọng hão huyền.
Lòng hy vọng nầy có thể được sử dụng một cách tích cực hơn. Ta hy vọng
vì ta biết có gì đó không ổn với ta, nhưng ta không bó tay. Chúng ta chỉ biết
điều không ổn đó là xấu xa, ô trược. Nhưng không biết phải làm gì. Chúng
ta cần hy vọng có thể sửa đổi chúng ngay bây giờ, không phải trong tương
lai, vì tương lai chỉ là tưởng tượng. Có ai biết ngày mai sẽ xảy ra chuyện
gì? Có lẻ không có ai. Nhưng ta có thể biết ngay lúc nầy khi nào phiền não,
ô trược dấy khởi trong lòng ta. Khi ta nổi giận ta biết ta đang giận. Ta chỉ
có thể sửa đổi cái ta biết.
Khi bạn giận dữ về bất cứ điều gì, điều đầu tiên phải nhớ là, “Tôi làm chủ
nghiệp căn tôi”. Thứ hai là đừng tự trách mình vì đã nổi giận. Thứ ba là
thay đổi thái độ.
Tình cảm khó chịu, bực bội nhất là khi ta nổi giận với ai đó. Nếu ta giận
một vật gì đó, thì cái giận cũng nhỏ, không đáng kể, không sâu xa. Trước
khi để sự tức giận ai đó bùng nổ, không thể thay đổi được nửa, ta có thể cố
gắng thay tình cảm đó bằng lòng từ. Chắc bạn sẽ phản đối rằng “Làm sao
tôi từ bi với con người đó được?’. Điều đó cũng đúng.
Việc ta cần làm là phải đảo lộn tình thế như làm xiếc vậy. Nói rõ ra là
phải nhận biết giận dữ là vô ích. Nó chỉ làm cho ta đau khổ. Làm người
khác đau khổ. Không chỉ thế nó còn tạo cho ta thói quen hay nóng giận,
khiến càng ngày ta càng dễ nổi giận hơn. Đó là lý do tại sao nhiều người
càng già càng hay càu nhàu, giận dữ. Không có gì làm họ vừa lòng. Họ
không bao giờ có hạnh phúc vì thói quen giận dữ đã hằn nếp trong tâm họ,
họ không thể sửa đổi nữa.
Biết được sự nguy hiểm nầy, lần sau khi ta giận dữ với ai, ta nên tìm điều
gì tốt về họ: việc họ làm tốt, lời nói lành của họ. Điều đó có thể thực hiện
được nếu ta biết về người đó. Ai mà không có điều gì tốt.
Nhưng nếu ta đã quá giận dữ, không còn tìm thấy điều gì tốt ở tha nhân,
thì hãy nhớ là chỉ những kẻ khổ đau mới làm việc độc ác, xấu xa. Người
hạnh phúc, vui sướng sẽ không hành động, nói năng như thế, họ sẽ không
làm cho người khác phải giận dữ. Do đó người đang làm ta giận hẳn là đang
trãi qua một sự đau khổ nào đó. Chính họ đang đau khổ. Hãy thương xót
người đang đau khổ vì một vết thương thể xác hay vì họ chẳng bao giờ được
nghe Pháp. Hay vì điều gì đó ta không rõ lý do xác thực. Nhưng điều đó
không quan trọng. Hãy tỏ lòng thương xót họ.
Hơn thế nữa nếu chúng ta đã quá giận dữ, không còn nhớ điều gì tốt về tha
nhân, cũng không thể xót thương họ, thì hãy cố nghĩ ta như là cha/mẹ đối
với đứa con của ta. Cha/mẹ của người ấy thì phải thương yêu họ rồi. Nếu
chúng ta nhớ lời Phật dạy, như trong bài về lòng từ đã nói, ta sẽ nhớ là người
mẹ phải thương con mình, để cố gắng khởi lên tình thương đó trong ta.
Tất cả những sửa đổi đó trong tâm ta sẽ mang lại kết quả. Cần phải có thời
gian để có kết quả như mong muốn. Nhưng nếu ta cứ tiếp tục thực hành, nó
sẽ trở thành thói quen, hay quán tính. Sân hận vẫn còn dấy khởi, nhưng đã
mất tính chất mãnh liệt, cuồng nộ, vì ta đã luyện tập cách để chuyển đổi nó:
Người có thể kiềm giữ cơn giận đang dấy lên
Như người đang cầm cương xe tuấn mã
Đúng là một người giữ cương giỏi - tôi nghĩ
Những người khác chỉ là giữ dây cương cho nai.
Dhammapada v. 222 (Kinh Pháp Cú)
Sân không nhất thiết phải là một tình cảm mãnh liệt. Nó có thể là sự hờn
dổi ai đó. Có thể là sự chống báng những người không cùng suy nghĩ, niềm
tin, hay hành động giống như chúng ta. Điều đó vẫn thường xảy ra trên đời.
Nạn kỳ thị chủng tộc hay tín ngưỡng là những thí dụ. Sự chống báng người
khác đồng nghĩa với lòng thù nghét.
Khi ta thiếu thốn vật chất, gặp các cơ hội không thuận lợi, ta cũng có thể
oán trách người khác, nghĩ là họ đã cản trở bước tiến của ta. Đó cũng là
sân, nhưng được đè nén. Đôi khi ta không dám chấp nhận sự thật với chính
mình, điều đó càng làm ta khó sửa đổi, trừ khi ta biết chấp nhận sự thật. Đè
nén có thể đem đến cho chúng ta những nội kết, khiến ta không thể phán xét
sự việc bằng công tâm. Mọi thứ đều được nhìn dưới con mắt của sự đè nén,
của lòng sân hận.
Đức Phật khuyên ta có các hành động từ ái, thiền quán về lòng từ bi để
chữa trị căn bịnh nầy. Tập quán tưởng như thế cũng tốt, nhưng tựu trung lại
nó cũng chỉ là lời nói, và phần đông chúng ta đều có nghe qua những lời nói
nầy nhiều lần. Có người nhiếp tâm những lời nầy, nhiều người không. Đó
là sự nguy hiểm của lời nói. Sự nguy hiểm của ngoại giới. Chúng ta thường
mắc phải lổi lầm là vì chúng ta đã nói những lời ấy, nhiếp tâm chúng, đã trì
tụng chúng, đã nghe chúng được trì tụng, ta tưởng là mình đã thực sự hành
chúng. Tất cả chỉ là do ta đã sửa soạn tự trong lòng những tình cảm dào dạt
tình thương để thể hiện ra ngoài. Tình cảm đó là lòng từ ái nhưng chúng
không giúp ta sửa đổi được gì.
Những lời nói chỉ là các dấu mốc, một bảng chỉ đường. Chúng chỉ cho ta
một phương hướng phải đi tới. Lời dạy của Đức Phật cũng chỉ vạch cho ta
con đường đúng phải đi. Chúng không giúp ích gì cho ta, nếu như ta không
tự thay đổi tâm, trí. Và ta biết rằng ta có thể thay đổi tâm trí của mình.
Hằng ngày ta vẫn chẳng thường nói ‘Tôi đã đổi ý...” đó sao? Sao không
thêm một lần đổi ý?
Hành động từ ái là việc ta có thể làm với chủ tâm, nhưng chúng cũng chỉ là
phương tiện giúp ta thay đổi tâm trí. Không phải là cứu cánh. Chúng chỉ là
phương tiện. Quán tưởng về lòng từ cũng như hành thiện, cả hai chỉ là các
phương tiện, công cụ. Chúng không phải là mục đích. Mục đích cuối cùng
là sự thay đổi từ bên trong tâm trí chúng ta.
Hành động từ ái -mà ta biết chỉ là phương tiện- là chăm sóc người đau yếu,
thăm hỏi sức khỏe, viếng thăm họ ở bịnh viện, mang cho họ thực phẩm khi
họ không có khả năng tự lo, quan tâm về người khác, giúp đỡ người khác.
Càng giúp được ai càng nhiều càng tốt, dĩ nhiên là ta có thể bắt đầu từ chính
trong gia đình mình. Nhưng đó chỉ là bước đầu. Vì giúp cho gia đình mình
thì cũng giống như giúp cho cái Tôi của ta được nhân rộng ra. Có rất nhiều
cách để giúp đỡ người khác. Không nên thu hẹp hành động từ ái cho chỉ
một nhóm người nào, hành động nầy cần phải được trãi rộng ra khắp nơi, tới
khắp mọi người.
Đây là những vị thuốc Đức Phật cho ta để chửa trị bịnh sân hận, bên cạnh
các phương thức khác như kết bạn với thiện tri thức, nói điều tốt lành, để
giúp cho tâm hồn ta được trong sạch hơn.
3. HÔN TRẦM
Tôi đã nói với các bạn về hai kẻ thù của chúng ta, bất hạnh thay ta còn ba
kẻ thù khác nữa. Hai kẻ thù đầu: tham và sân, là chướng ngại lớn nhất của
con người. Nói vậy không có nghĩa là ta không có cái đối trị. Đó là sự rộng
lượng và lòng từ bi. Vấn đề là ta phải biết gieo trồng cái tốt và trừ bỏ cái
xấu.
Nói thì dễ, nhưng hành khó lắm thay. Nhưng nếu ta không cố thực hành
chúng thì ta đã không đi theo con đường Phật dạy. Đó là những công việc ta
phải làm không ngừng nghĩ. Những công việc nầy không liên quan gì đến
việc ngồi thiền. Chúng đòi hỏi tất cả thời gian của ta. Giả thử ta ngủ nghỉ
khoảng 5, 6 hay 7 tiếng một ngày, ta còn lại 17 tiếng. Nếu ta nghĩ rằng khi
ngồi thiền một, hai tiếng sáng chiều là đã thực hành được những điều nầy,
nghĩ như thế thì ta chẳng đi tới đâu cả. Nếu ta chỉ nhớ lời Đức Phật dạy
trong vài tiếng mỗi ngày, còn lại không nhớ tới -điều nầy nghe có vẻ lạ,
nhưng vẫn thường xảy ra- thì ta khó thể tìm được sự Giải thoát.
Kẻ thù thứ ba của ta là hôn trầm hay thụy miên, uể oải, và bù ngủ, hai kẻ
thù của ta lúc toạ thiền có phải không? Chúng ta chắc ai cũng kinh nghiệm
qua. Đó là lúc tâm không ngủ, nhưng cũng không thức. Trạng thái dật dờ
khó thể làm nên chuyện gì. Chỉ khác với cái ngủ là ta có thể dễ dàng ra khỏi
đó hơn. Nhưng dầu không mê mang như khi ngủ, nó vẫn đáo đi, đáo lại.
Tâm trạng nầy ở ngoài đời được coi là không có phương hướng, từ đó dẫn
đến thiếu nghị lực. Nó là một trạng thái thông thường đến nổi, khi một
người nào đó có nghị lực, ta sẽ nhận ra ngay. Và Nghị lực là một trong bảy
yếu tố dẫn đến sự Giác ngộ. Thật là một điều không thể thiếu trong việc rèn
luyện tâm.
Nghị lực nẩy sinh khi ta có một phương hướng nhất định. Ta biết rõ con
đường phải đi và miệt mài đi tới. Nhưng khi ta không có mục đích gì rõ
ràng hơn là giữ cho thân thể tứ đại nầy sống, thì không có nghị lực gì có thể
phát sinh. Sống như thế không có gì hứng thú cả. Không ai có thể sống
được như thế. Dồn tất cả sức lực, tâm trí vào chỉ để sống không phải là
một việc làm hiệu quả, ta sẽ không thể có nghị lực để sống như thế. Trái lại
ta còn cảm thầy bị đè nén, trì kéo xuống.
Đức Phật đã so sánh hôn trầm thụy miên giống như một nhà tù. Khi ta bị
giam trong một căn phòng nhỏ, trong tù, ta khó thể làm được gì cho đến khi
được tự do. Khi tâm trí ta bị sự uể oải, ngầy ngật (uể oải ở thân thể, và ngầy
ngật trong tâm), giam hãm, tù túng đến nổi ta chỉ có đủ nghị lực để kéo lê
một kiếp sống.
Phần đông chúng ta không biết hay không nghĩ hành thiền là một việc làm
cần thiết cho ta, nên tâm ta dễ dàng đầu hàng các trở ngại. Ta phải nắm thật
rõ về sự lợi ích của việc tọa thiền. Ta không chỉ cần ăn, ngủ, tắm rửa, giặt
giủ, là những chuyện bình thường trong cuộc sống, không cần nhiều đến
năng lực. Chúng chỉ là các hoạt động theo bản năng. Nhưng hành thiền đòi
hỏi ta phải có nghị lực, và nghị lực chỉ có thể phát sinh khi tâm biết được
tầm quan trọng của thiền, nếu tâm ta biết rõ điều đó thì ta biết là ta phải làm
gì.
Khi mê đọc một quyển sách, ta có thể thức đến nửa đêm để đọc, mà không
thấy mệt, ta chỉ ngồi đó miệt mài đọc. Hay khi dự đám tiệc, ta có thể nói
suốt buổi mà không mệt, vì ta vui thích.
Tu tập thiền cũng phải làm ta say mê. Khi đó không còn lý do gì mà tâm
không phấn khởi. Lúc đầu, tập thiền thật không thú vị chút nào. Nó có vẻ
phiền phức quá. Khó quá. Đau quá. Nhưng khi tâm đã hiểu ra được tầm
quan trọng của việc ta làm, biết từng giây phút tâm khởi niệm, ta sẽ thấy
hứng thú để tìm hiểu chính tâm ta. Còn gì hấp dẫn hơn thế chứ? Đọc một
quyển sách hay trò chuyện với người khác, ta chỉ biết về người khác. Nhưng
nếu ta có thể theo dỏi tâm từng giây phút, lúc nó dấy niệm, lúc nó tĩnh lặng,
rồi lại dấy niệm, lại tĩnh lặng, thì đó là một việc hấp dẫn và lợi ích nhất mà
ta có thể làm chính mình.
Một lần Mahà Moggallàna đến sám hối với Phật rằng ông đã ngủ gục
trong khi tọa thiền. Đức Phật đã khuyên răn ông điều gì? Phật dạy rằng khi
cảm thấy bù ngủ, hãy mở mắt ra, nhìn ngọn đèn, chà xát mặt, kéo tai, cử
động thân mình để cho máu chạy đều, và nếu cần đứng dậy đi. Gì cũng
được miễn là đừng có nằm xuống ngủ.
Đó là những cách thức bên ngoài để chữa trị bịnh bù ngủ, nhưng ta cũng
có những cách thức khác để dẫn tâm đi theo đúng hướng đã vạch như là
quán tưởng về cuộc đời thì vô thường, sự chết thì bất ngờ. Đây là cơ hội tốt
nhất để ta tham thiền. Ta có bạn đồng tu, có thầy dẫn dắt. Có đủ ăn, có nơi
ở, thân không bịnh hoạn. Tất cả các thứ nầy không phải ai cũng có được.
Chúng là kết quả của các căn lành của ta. Đó là phương cách giúp tâm ta
tăng thêm nghị lực.
Hãy nhớ là không còn lúc nào khác hơn là lúc nầy. Tương lai dường như
chắc chắn trước mặt nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Ta có thể chết bất cứ lúc
nào. Khi ta chết -điều không ai tránh khỏi- và tái sinh, -ai cũng thế trừ khi ta
là các vị A-la-hán- để bắt đầu trở lại tất cả. Ta phải học đi, học nói, ăn,
mặc...Phải đi học trở lại, kết hôn, có con, gả con. Đó là tất cả những gì ta
vẫn làm đi làm lại từ kiếp nầy qua kiếp khác. Vì thế, hãy dùng thời gian còn
lại cho những gì quan trọng nhất. Ta đã trãi qua tất cả những thứ đó. Đã
học đi, học nói, ăn mặc. Đã qua bao nhiêu trường học. Có con cái. Đã
chứng kiến con mình thành lập gia đình. Vì thế, ngay bây giờ là thời điểm
để đổi thay. Không có lúc nào tốt hơn lúc nầy.
Nếu ta dùng phương cách nầy để tăng thêm nghị lực cho tâm thiền định,
thì nghị lực sẽ tự phát sinh. Giống như khi ta bật công-tắc điện lên, bóng
đèn phát sáng, và một khi còn có dòng điện thì ngọn đèn còn sáng.
Tu tập thiền cần rất nhiều nghị lực. Thật là lạ khi ta ngồi (toạ thiền) hay đi
chậm rãi (thiền hành) mà ta vẫn cần nhiều năng lực. Lý do tại sao ta cần
nhiều năng lực vì tâm ta không ngừng làm việc. Nếu tâm không luôn phát
khởi các vọng tưởng, hy vọng, ước nguyện, thì tâm đã không mệt nhọc chút
nào. Không phải do các hoạt động của thân thể hằng ngày, mà tất cả chúng
ta ai cũng mệt lử sau một ngày. Nhưng là vì tâm luôn hoạt động lăng xăng,
luôn phán đoán. Tôi thích cái nầy, tôi không thích cái kia. Tôi phải có thứ
nầy, tôi sẽ vứt thứ kia -chính những thứ đó làm mệt mỏi tâm trí ta. Vì thế
người làm việc bằng đầu óc cũng mệt như hay hơn cả người trồng cây hay
làm đường.
Khi ta có thể chú tâm, giữ tâm lắng đọng thì tâm được nghỉ ngơi. Nhưng
trước khi ta có thể làm được như thế, ta vẫn còn phải dùng tâm để tự nhủ ta
không được bỏ cuộc. Chịu thua trước các đòi hỏi bản năng là thói thường
tình của nhân thế. Bản năng ta là muốn được thoải mái, dễ chịu. Trong khi
Đức Phật nói rằng: “Thắng một vạn quân, không bằng thắng lòng mình”.
Thắng lòng mình có nghĩa là không chịu thua trước các đòi hỏi của bản
năng, không để tâm nghe theo những điều đó.
Muốn được ngồi yên tọa thiền phải có một lý do chính đáng nào đó để tâm
có đủ nghị lực làm điều đó. Vì ước muốn được chứng ngộ, không phải là
một lý do chính đáng. Lý do đó không đủ mạnh để giúp ta tu tập thiền,
nhưng phần đông chúng ta đều tu thiền với mục đích đó. Do đó ta sẽ dễ bị
thất vọng, vì được chứng ngộ không phải là điều dễ dàng đạt được. Lúc đó
nghị lục để giúp ta thiền định sẽ biến mất vì ta không đạt được điều ta muốn,
lúc đó việc thiền quán cũng là một thứ phiền não như bao thứ phiền não
khác.
Thiền chỉ có một mục đích duy nhất là sửa soạn cho tâm thoát khỏi những
đau khổ, chuẩn bị cho tâm được giải thoát. Đó là cứu cánh của phương tiện
nầy, chứ không phải là để được chứng ngộ. Việc đó cũng sẻ xảy ra, tại sao
không? Hãy cảm ơn rằng việc đó có thể xảy ra, và coi đó như một động lực
giúp ta tiếp tục công việc của mình. Nhưng khi nó không xảy ra thì cũng
chẳng làm sao. Điểm chính là tâm ta phải tu tập thiền để được giải thoát.
Đức Phật đã so sánh thụy miên, hôn trầm giống như ao hồ mà bùn đã nổi
lên mặt. Mặt hồ đầy bùn thì ta không thể soi mặt vào, chỉ có bóng đen.
Trong trạng thái tranh sáng tranh tối giữa ngủ/thức ta không thể có sự tỉnh
thức. Ngay trong đời thường, khi tâm ta bắt đầu nói “Tôi chán ngấy. Khó
khăn quá. Tôi không thể tiếp tục. Tôi không muôn làm nữa. Tại sao tôi
phải làm chứ? Đâu có ai làm giống như tôi đâu”, đó là tâm đầy bùn, không
có sự sáng suốt, không có một phương hướng rõ ràng cho chính mình.
Một phương hướng rõ ràng đem lại cho ta nghị lực cần thiết. Khi ta biết
đường ta đi, nơi ta đến. Ta có thể hăng hái sấn bước. Khi ta không có đích
đến, ta không có niềm say mê, hứng thú với điều gì. Thật khó tìm được một
hướng đi đúng trong cuộc đời nầy, nhưng Đức Phật đã chỉ cho ta con đường
mà Ngài đã chứng nghiệm, để đi đến sự tự do, đoạn diệt khổ đau, giải thoát,
Niết bàn.
4. TRẠO CỬ
Kẻ thù kế tiếp là trạo cử, lăng xăng lo lắng hay lo ra. Ai cũng bị đau khổ vì
kẻ thù nầy, nên nó rất quen thuộc với chúng ta. Thực ra, cả năm chướng
ngại đều rất quen thuộc với chúng ta. Ai cũng mắc chúng ở những mức độ
khác nhau. Vì thế ta cần phải suy gẫm xem chướng ngại nào là kẻ thù nguy
hiểm nhất đối với ta. Tất cả đều nằm trong ta chờ cơ hội để lộ diện. Nhưng
có một hay hai chướng ngại chỉ cần ta khẻ động tịnh là nhảy ra ngay, làm
chủ ta. Đó là những chướng ngại ta cần đối đầu, tu sửa.
Tâm lăng xăng khiến thân cũng chẳng yên. Thân là tên đầy tớ ngoan
ngoản của tâm. Thân chỉ là một xác chết khi không có tâm. Bất cứ thân làm
điều gì cũng là do tâm điều khiển, dầu ta có ý thức về điều đó hay không.
Thông thường các phản ưư!g của ta xảy ra tức thì, theo bản năng, nên ta
không biết rằng tâm đã ra lệnh: “Làm cái nầy, làm cái kia”, ta nghĩ là thân ta
hành, nhưng không thể có thân hành, nếu không có tâm khiển.
Tâm sinh ra lăng xăng phần lớn là do những kinh nghiệm xảy ra trong quá
khứ, những chuyện ta đã làm, hay đã không làm, tất cả những thứ ta ước
muốn thực hiện trong đời, nhưng đã không thực hiện. Tâm lăng xăng khó
tập trung vì niệm cứ dấy khởi liên tiếp.
Đức Phật đã so sánh nó với một mặt hồ đầy sóng gió. Khi tình cảm ta đầy
sóng gió, ta sẽ chết đắm vì nó. Ta không còn thấy sự việc rõ ràng nửa.
Lo lắng thường vì tương lai, và nhiều người trong chúng ta rất hay lo lắng,
mà quên ngừng lại để suy nghĩ sự lo lắng đó thật vô ích và kỳ quặc. Lo lắng
về tương lai là điều vô ích. Vì có lo lắng về tương lai, ta cũng chẳng thể
sống cho tương lai đó. Vì cuộc đời là vô thường luôn có sự thay đổi, không
những ta sẽ già hơn, khôn ngoan hơn -hy vọng là thế- mà hoàn cảnh cũng
đổi khác, tình cảm, suy nghĩ của ta cũng khác. Thì lo lắng về tương lai thật
vô ích.
Nếu bạn có những tấm ảnh khi bạn ở lứa tuổi 4, 8, hay 12, 15, hãy lấy
chúng ra và soi gương, so sánh gương mặt nào là của bạn. Bạn là chú/cô bé
4 tuổi, 8 tuổi, 15 tuổi hay là người đang nhìn vào kiếng bây giờ, hay tất cả
cũng là bạn? Nếu tất cả là bạn, thì bạn đã là hàng ngàn con người khác
nhau. Và đó chính là chúng ta, luôn biến đổi. Thì cô/chú bé 15, 20 tuổi đi lo
về chuyện gì sẽ xảy ra cho một người già 60, có phải là vô ích không? Ta sẽ
không thể nhớ cô/chú bé đó đã nghĩ suy, lo lắng điều gì. Cũng thế đối với
sự lo lắng cho ngày mai. Dầu cho ta có nhớ được mình đã lo lắng điều gì,
cũng chẳng ích chi. Một con người hoàn toàn khác ngày hôm nay sẽ sống ở
ngày mai.
Điều đó không có nghĩa là ta không thể dự định điều gì. Dự tính và lo lắng
là hai việc khác nhau. Dự tính sẽ trở thành lo lắng khi ta tự hỏi không biết
những dự tính của ta có thành sự thật không. Không có gì sai với sự dự tính,
nhưng sau đó hãy quên nó đi cho đến ngày ta có thể thực hiện được mà
không cần phải lo lắng với những chuyện gì sẽ xảy ra ở tương lai.
Lo lắng làm ta đau khổ, tâm ta bấn loạn. Nó tách ta ra khỏi thế giới thực
tại, ngay giây phút nầy, là khoảng khắc duy nhất ta thực sự sống trong đó.
Những giờ phút ta đắm chìm trong lo lắng, là những giờ phút bị đánh mất
đi. Nếu ta không sống cho từng giây phút hiện tại, có nghĩa là ta đánh mất
cuộc sống. Khi ta hối tiếc dỉ vãng, lo lắng cho tương lai, ta không thực sự
sống. Ta chỉ hoài niệm và phỏng đoán. Đó không phải là cuộc sống. Cuộc
sống không phải để suy tưởng về nó, mà để ta sống trong đó. Chỉ có như thế
thì cuộc đời mới có ý nghĩa, và kinh nghiệm sống mới có thể xảy ra từng
giây phút. Đó là một trong những nghệ thuật, thiền có thể truyền cho chúng
ta, sống trong giờ phút hiện tại mới thật là sống.
Tâm ta sẽ chẳng bao giờ được an bình, hạnh phúc hay tĩng lặng nếu ta
không sống trong giờ phút hiện tại. Tâm sẽ đắm chìm trong đấu tranh tư
tưởng để làm những việc ta nghĩ đáng lý ra ta phải làm, để đến những nơi ta
nghĩ là ta phải có mặt, để bảo vệ những tài sản ta cho là quí giá. Một cuộc
chiến đấu gay go, đau khổ không ngừng nghĩ. Hạnh phúc, an lạc hình như
không thuộc số phận chúng ta. Nhưng ta có thể đạt được những thứ đó nếu
ta cố gắng, nếu ta biết nhận diện kẻ thù và đuổi chúng ra khỏi nhà tâm của
ta.
Căn nhà nội tâm của ta là nơi có bao vị khách không mời mà đến. Vì lòng
hiếu khách ta để họ vào. Để rồi ta khám phá ra họ làm hư bàn ghế, đánh cắp
đồ quý, phá hỏng cửa nẻo. Nhưng thay vì đóng cửa và không để họ vào lần
nửa, hôm sau ta lại để họ vào. Đó là nội tâm của ta, bị xâm chiếm bởi bao
kẻ thù. Họ tạo ra bao rối loạn trong tâm ta, không để ta có được an lạc, hòa
bình mà ta không biết tại sao. Ta luôn đi tìm những lý do ở bên ngoài để tự
biện hộ. Mỗi người có những lý do khác nhau nhưng đều giống nhau ở một
chổ. Chúng không thật, tất cả đều do ta tưởng tượng ra. Lý do chính là vì
ngôi nhà tâm của ta không được yên ổn. Bên trong không an ổn thì căn nhà
bên ngoài làm sao yên. Ta phản chiếu ra bên ngoài, những gì chứa đựng bên
trong chúng ta.
Lăng xăng, lo lắng không những vô ích mà còn là dại khờ. Đức Phật bảo
chúng ta hành động u mê vì không nhìn thấy sự thật. Nhưng ta có thể thay
đổi điều đó có phải không? Lăng xăng và lo lắng được gọi chung là lơ
đãng. Chúng ta lơ đãng trong công việc mình làm, như là thiền quán.
Nhưng điều đó cũng không chỉ thu hẹp trong việc thực tập thiền, nó còn ảnh
hưởng đến đời sống thường ngày của ta. Ta quên chìa khóa, không biết để
nó nơi nào. Ta không nhớ mình đang làm gì, vì ta xao lãng, lo lắng vấn đề
gì đó. Ta khó hoàn thành công việc của mình tốt đẹp, an toàn khi tâm ta
đang ở một nơi nào khác.
Đức Phật chỉ cho ta năm cách để đối trị những tư tưởng xao lãng, lo ra,
bằng các câu chuyện ẩn dụ. Như một người thợ mộc đóng hai khúc gổ vào
nhau và thấy là chúng không vừa nhau. Oâng lấy ra và thay khúc gổ khác.
vừa hơn. Đó là nhờ có thay đổi. Nếu tâm ta cứ lo lắng về tương lai, tiếc
nuối quá khứ thì cũng có sự không ăn khớp. Không có hạnh phúc, không có
an bình trong đó. Vậy thì hãy thay đổí! Hãy thay bằng cái vừa vặn, ăn khớp
hơn. Khi tu thiền, hãy để tâm thiền lắng sâu vào ta. Trong đời sống hằng
ngày hãy để cho tâm được trọn vẹn, hữu ích. Hãy thay đổí!
Aån dụ thứ hai là về một người thanh niên và một cô thiếu nữ ăn mặc đẹp
đẽ để đi ra ngoài. Khi ra tới đường, họ mới nhận ra có ở cổ mỗi người tòng
teng xác một con thú chết. Quá xấu hổ, họ vội vả chạy về để gội rửa. Ta
cũng nên xấu hổ khi tâm ta không trong sạch. Xấu hổ khi tâm ta đầy tiêu
cực. Đức Phật nói sự xấu hổ và sợ hãi là những chiến sỉ bảo vệ cho thế
giới. Không có chúng, thế giới sẽ càng tồi tệ hơn. Hầu hết chúng ta nghĩ
rằng chỉ có bụi bặm, vết nhơ trên quần áo, hay thân thể mới có thể thấy
được, nhưng đó chỉ là ảo tưởng. Những vết nhơ trong tâm ta cũng có thể
nhìn thấy được, không phải bằng con mắt thường mà bằng mắt tâm. Ta biết
khi nhìn một người giận hờn dù họ không nói lời nào. Ta biết khi một người
ngã mạn. Hành động của họ, lời nói của họ đã mách với chúng ta điều ấy.
Vìø hành động, cũng như lời nói đều xuất phát từ trong tâm chúng ta. Nhất
là hành động, ta thường để ý đến lời người khác nói, trong khi hành động
của họ mới chính là phản ảnh của nội tâm họ, tốt hay xấu. Hãy nhớ là
những vết bẩn trong tâm ta cũng giống như xác thú chết ta đeo trên cổ.
Nhưng ta có thể gở bỏ nó ra, và chỉ đi ra ngoài khi ta đã sạch se(, đẹp đẽ trở
lại.
Một ẩn dụ khác của Đức Phật để ví những tư tưởng xao lãng, lo ra giống
như gặp người quen ở bên kia đường. Không nên băng qua đường để chào
hỏi, bắt chuyện, mà cứ giữ con đường mình đang đi. Không nên để ý! Điều
đó hơi khó. Vì khi ta không để ý đến chúng thì ta cũng đã bắt đầu có sự
thay đổi. Làm được như thếù đòi hỏi phải có một tâm cứng rắn. Hai trường
hợp đầu dễ xử hơn. Người ta có thể dễ xấu hổ vì ai cũng có lương tâm.
Nhưng bỏ qua, coi thường các tư tưởng đi qua đầu không phải là điều dễ, nó
đòi hỏi nhiều nghị lực hơn.
Aån dụ tiếp theo kể về một người đàn ông đang chạy trên đường, bổn nhận
thấy mình không được thoải mái, và nghĩ: “Tại sao ta phải chạy? Ta có thể
đi mà”. Nên anh ta bắt đầu đi. Vẫn thấy khó chịu, anh đứng lại. Rồi cũng
không mấy tốt hơn, anh quyết định ngồi xuống. Cuối cùng anh quyết định
nằm xuống, và thấy thật là thoải mái.
Hãy nhận biết những khó chịu trong tâm, trong cả con người ta, khi những
ý nghĩ vô ích, lo lắng, lăng xăng, xao lãng dấy khởi trong ta. Chúng không
mang lại cho ta niềm vui, sự thoải mái nào, trái lại thì có. Chúng làm ta lo
lắng, bực dọc. Hãy nhận ra sự phiền não nầy và biết rằng không ai ngoài ta
trên thế gian nầy có thể đem lại sự thoải mái cho chính ta. Đức Phật không
làm được, giáo lý giải thoát của Ngài không làm được, cha mẹ ta, các thầy
ta, bạn bè ta, tất cả đều không thể làm thay cho ta được. Chính chúng ta
phải tự làm cho tâm mình được thoải mái, vui vẻ.
Đó là bốn phương cách ta có thể sử dụng. Nếu một cách không thành
công, ta dùng cách kia, cách kia nữa. Nếu tất cả cách đều thất bại thì ta phải
dùng đến biện pháp đè nén. Đức Phật dùng ẩn dụ về một người mạnh mẻ, to
lớn, nắm cổ một người yếu hơn, dìm xuống nước. Cũng thế, ta dùng sức
mạnh của mình để đẩy các ý nghĩ vô bổ ra khỏi tâm mình, và buộc tâm
không nghĩ về chúng. Đó là biện pháp tối hậu, nhưng ta có thể thấy rằng thà
là đè nén những ý nghĩ xấu, tiêu cực hơn là tiếp tục nghĩ về chúng. Dần dần
ta sẽ học được cách thay thế chúng bằng những ý nghĩ cao đẹp hơn. Khi đè
nén những tư tưởng thấp hèn, có nghĩa là ta không cho phép chúng tạo nếp,
tạo rãnh trong tâm ta. Ta không để cho tâm ta có thói quen chứa đựng
những tư tưởng nầy. Tâm mà cứ luôn nghĩ lăng xăng, lo lắng một cách tiêu
cực, một cách giận dữ, ích kỷ thì khó mà bỏ được thói quen nầy. Trong
trường hợp đó, sự đè nén là giải pháp tốt nhất.
Để đối trị các tư tưởng lăng xăng, lo lắng, Đức Phật dạy ta hãy học Pháp,
học kinh nhiều hơn. Khi ta thấu hiểu được lời dạy của Ngài, ta có thể hướng
tâm mình đến đó. Nhớ được lời Phật dạy, thuộc kinh điển Phật, khi ấy hình
như ta dễ tìm ra những lời giải đáp rõ ràng, dứt khoát cho các vấn đề của ta
hơn. Các câu trã lời của Phật đều dẫn ta đến chỗ giải thoát. Dẫn ta ra khỏi
ngã mạn, nhưng không phải dễ dàng để theo. Đó là lý do tại sao ít người
làm theo lời Ngài, ai cũng muốn được thoải mái, cũng dễ dãi với chính
mình.
Cách đối trị khác nữa là làm bạn với người khôn ngoan, đứng đắn, bên
cạnh những người bạn đạo. Có nghĩa là ta phải cẩn thận trong việc chọn bạn
mà giao tiếp. Điều đó không có nghĩa là ta phải bỏ hết những người bạn cũ
của mình, nhưng ta phải tìm những người ta có thể trao đổi với họ những
câu chuyện tinh tế, phấn chấn ta. Ta chọn bạn như thế nào cũng nói lên
được con người ta thế ấy.
5. MẠN NGHI
Kẻ thù cuối cùng của ta là lòng nghi hoặc. Đức Phật đã ví nó giống như
một cuộc hành trình đến sa mạc mà không mang theo vật dụng, không có
bản đồ, do đó ta cứ đi luẩn quẩn để rồi bị cướp, bị đói khát.
Ngài cũng ví lòng nghi hoặc như một mặt hồ phủ đầy cỏ cây. Làm sao ta
có thể nhìn thấy đáy nước với một mặt hồ như thế.
Lòng nghi hoặc thường có mặt như khi ta nghi nghờ về sự Giác Ngộ của
Đức Phật, về sự thật của Pháp, về sự diễn giảng Pháp của tăng đoàn. Nhưng
ảnh hưởng nặng nề hơn cả cho sự tiến bộ của bản thân là nghi ngờ về chính
khả năng của mình, về trực giác tâm linh của mình.
Lòng tự tin sẽ phát sinh khi ta có thể làm được những điều mà ta đã vạch
định. Trong thiền, điều đó có nghĩa là ta có thể ngồi cho đến khi tâm ta
chìm sâu trong tĩnh lặng. Như thế ta sẽ có thêm lòng tự tin trong lần tọa
thiền sau, vì ta biết là ta có thể làm được điều ta muốn làm với tâm. Ta biết
là phần nào ta đã làm chủ được tâm.
Lòng tự tin có nhiều khía cạnh. Đó là không phải là sự càng bướng, mà là
một cảm giác tin tưởng rằng mình có thể hoàn toàn dựa vào chính mình. Sự
nương tựa đó chỉ có thể xảy ra khi ta có thể làm chủ được tình cảm mình.
Không thể có lòng tự tin, khi ta còn lệ thuộc vào tình cảm của mình. Khi ta
còn bực tức, giận dữ, lo âu, sợ sệt, thèm muốn, ghen ghét, tham lam, khi tất
cả những thứ tình cảm nầy còn làm chủ ta, thì khó thể tìm được sự an bình.
Và khi không an bình, ta đâm ra thiếu tự tin. Chỉ khi nào mọi thứ tình cảm
sân si trong ta đã được điều phục, ta mới có được nội tâm cứng rắn, mới
chắc rằng dù bất cứ chuyện gì xảy ra ta sẽ phản ứng nhẹ nhàng, tự chủ, lúc
đó ta mới thực sự có lòng tự tin.
Đó là một khía cạnh quan trọng của lòng nghi hoặc vì chỉ khi ta có lòng tự
tin về chính bản thân, lúc đó ta mới có đủ lòng tự tin để đi theo con đường
đạo cho đến tận cùng. Tóm lại nhờ vào lòng tự tin, ta mới có thể nói: “Tôi
có thể làm được. Tôi sẽ theo đuổi việc đó tới cùng”.
Lòng nghi hoặc thường dấy khởi trong những người không có lòng từ. Nếu
không có từ tâm, ta không thể phụng sự một lý tưởng nào, dốc lòng tin theo
một con đường đạo nào. Không có từ tâm, ta khó thể dâng hiến cả đời mình
cho một lý tưởng nào đó. Nếu ta không thể dâng hiến đời mình cho con
đường ta đã chọn thì cũng giống như ta đã thành hôn, nhưng vẫn nghĩ mình
sẽ gặp được một người tốt hơn người bạn đời của mình. Không thể có một
hôn nhân tốt đẹp được khi ta có những ý nghĩ như thế.
Con đường tâm linh còn đòi hỏi một sự dốc tâm hơn thế nửa. Vì chỉ có ta,
không có người thứ hai nào bên cạnh góp sức vào để vun bồi cho sự hòa hợp
nầy. Ta phải hiểu con đường từ trong trái tim mình. Nhu thế sẽ không có
nỗi nghi hoặc nào có thể xen vào. Ta sẽ không cần tự hỏi: “Không biết Đức
Phật có Giác Ngộ không?”. Đó là một câu hỏi thừa thải. Khi chúng ta đi
theo con đường của Ngài, thì tự ta sẽ khám phá ra thôi.
Muốn trọn vẹn đi theo con đường của Đức Phật là một việc làm trọn cả
cuộc đời. Điều đó không có nghĩa là ta không thể có cuộc sống riêng, hay
làm những chuyện khác, nhưng nó có nghĩa là tất cả phải được làm trong
tinh thần của Pháp. Lúc đó bất cứ ta làm gì cũng là cơ hội để ta học hỏi
thêm.
Đức Phật chỉ cách đối trị cho lòng nghi hoặc cũng giống như trạo cử, lo
lắng; đó là học hỏi thêm Phật Pháp, giao tiếp với bạn hiền, bạn đạo.
Đức Phật nói người đã bỏ hết được năm điều chướng ngại kể trên là người
đã hoàn tất cuộc đời mình, không còn gì để làm nửa. Năm chướng ngại nầy
là tờ hộ chiếu đưa ta đến cõi tái sinh. Chúng là thông hành vĩnh cữu của ta.
Ta phải làm một điều gì đó, nếu ta muốn thoát ra khỏi vòng sanh tử nầy.
Chỉ cần một sự thay đổi nhỏ cũng làm cuộc đời ta dễ chịu hơn. Và đó chẳng
phải là điều mà tất cả chúng ta đều đang kiếm tìm sao? Sự thoải mái, hạnh
phúc. Nhưng không phải là thứ lạc thọ ta có tìm thấy qua việc thỏa mãn vật
chất. Hạnh phúc mà ta kiếm tìm chỉ có thể có được qua tâm an lạc và năm
kẻ thù nầy là nguồn gốc của tâm không an lạc.
---o0o---
          Chương 7 - Nghiệp và Luân Hồi
“Tôi làm chủ nghiệp của mình. Tôi kế thừa nghiệp. Sinh ra tôi đã mang
nghiệp. Tôi và nghiệp tương quan lẫn nhau. Tôi sống theo sự dẫn dắt của
nghiệp. Tôi tạo ra nghiệp gì, xấu hay tốt, tôi sẽ là người thọ lãnh sau nầy”.
Đức Phật dạy rằng ta phải tự nhắc nhở mình như thế mỗi ngày. Những điều
nầy quan trọng thế nào mà ta phải tâm niệm mỗi ngày như thế?
Karma có nghĩa là hành động. Vào thời Đức Phật, nó đã được dùng với
nghĩa như thế. ‘Karma Yoga’ có nghĩa là Yoga của hành động. Nhưng Đức
Phật nói: “Karma, hỡi các vị tỳ kheo, ta nói là, sự chủ tâm”. Karma không
chỉ bất cứ hành động nào, nhưng chỉ vào sự chủ tâm ở sau mỗi hành động.
Không chỉ sự chủ tâm khi hành động mà cả trong lúc nghĩ suy, nói năng.
Một cách lý thuyết, nếu ta dùng từ Karma để chỉ hành động, và kết quả của
hành động, là không đúng, nhưng vì đã được sử dụng quá lâu theo nghĩa đó,
người ta khó thể hiểu Karma một cách khác hơn.
Hành động ta làm với sự chủ tâm thì rất khác với hành động vô tâm. Nếu
ta vô ý dẩm chết một con kiến, thì đó không phải là nghiệp sát sanh, dầu ta
có thiếu chánh niệm. Vì không có sự cố ý, chủ tâm sau hành động đó.
Nhưng nếu có một ổ kiến trong vườn, và ta muốn dẹp sạch nó bằng cách xịt
thuốc lên ổ kiến, cố ý giết chúng càng nhiều càng tốt, thì đó là ta đã tạo
nghiệp sát sanh vì đã có sự chủ tâm đằng sau hành động đó.
Bất cứ điều gì ta làm với chủ tâm đều mang lại hậu quả, do ta đã có sự suy
nghĩ về chúng trước khi hành động Vì thế ta nên cảnh giác với mọi tư tưởng
của mình. Đó là điều ta có thể luyện tập khi thamï thiền. Phải biết rõ quá
trình tư duy của mình, mới mong tạo ra nghiệp thiện, nếu không ta chỉ hành
động mà không có sự chủ tâm, cố ý. Khi ta biết tâm, tư tưởng của chính
mình, ta có thể sửa đổi chúng cho tốt hơn, theo một hướng đúng hơn, theo
hướng để tạo ra nghiệp thiện.
Người ta thường nói: “Tôi tạo ra nghiệp thiện để khi tái sinh tôi được đẹp
đẽ hơn”. Đó là một sự trao đổi đó có tính cách thương mại. Làm một cái gì
đó để đổi lấy một cái khác. Dầu có tốt hơn so với hành động theo bản năng,
thiếu chủ tâm, nhưng cũng khó đem lại cho ta kết quả tốt đẹp hơn vì phương
cách đó đầy ngã chấp.
Hành động thiện cần được làm trong sự sáng suốt, biết rằng nếu không làm
thế, ta chỉ đem lại đau khổ cho chính mình. Tâm thiện là điều tiên quyết
giúp ta sống an bình, hoà nhịp với chính ta, với tha nhân. Nghĩ đến kết quả
là có sự chờ đợi, mong mỏi, bám víu. Tất cả những mong mỏi chỉ mang đến
sự thất vọng. Không có sự mong mỏi nào trở thành hiện thực như ta đã
mong muốn. Sự mong mỏi dẫn ta đến tương lai hơn là trụ ở giờ phút hiện
tại. Kiếp sau, hay kiếp sau nữa, hay sau sau nửa, kiếp nào? Năm phút tới thì
sao? Hành động thiện đúng ra phải được làm với tất cả tâm hồn đến nổi
không còn có thể nghĩ đến gì khác nửa. Nhưng nếu như có điều gì khác nửa
chen vào, lúc đó trí tuệ sẽ bảo cho ta cách chọn lựa đúng.
Khi hai người cùng làm một hành động, họ sẽ không có cùng một nghiệp
quả. Đức Phật so sánh việc tạo nghiệp ác của hai người với bỏ một muổng
muối vào ly nước hay bỏ xuống sông Hằng. Ly nước muối sẽ không uống
được, nhưng nước sông Hằng có gì thay đổi đâu. Cũng thế, với người có cả
một dòng ‘sông thiện’ thì một hành động sai quấy cũng không ảnh hưởng
nhiều. Nhưng nếu ta chỉ có một ‘ly nước phúc’ thì chỉ một hành động sai
quấy cũng đủ làm cay đắng cả cuộc đời. Vì ta không biết mình đã tạo tác ra
những gì ở các kiếp trước, tốt hơn hết là giả thuyết rằng phúc của ta chỉ đầy
một ly nước. Đôi khi ta thường tự hỏi tại sao có những người làm bao điều
ác mà vẫn sống hạnh phúc. Gia đình, tiền bạc, sức khỏe đều tốt lành. Tại
sao họ không bị trừng phạt? Họ chưa bị trừng phạt đó thôi. Họ sẽ lãnh
những hậu quả của việc họ làm. Không có gì gọi là tai nạn hay may rủi.
Không có gì xảy ra ngẩu nhiên trong vũ trụ nầy. Trăng, sao, mặt trời - mọi
việc đều đi theo một định luật, trái đất ta đang sống cũng thế. Nghiệp của ta
cũng thế.
Nghiệp không phân biệt, ta nên nhớ điều đó. Nó không biết thiên vị ai.
Nó là nhân quả. Nó không để ý đến người hành động. Những gì đã được
giữ trong dòng sông nhân, sẽ ở đó và sẽ tựu quả khi ‘chín mùi’.
Ta mang theo một số ‘thói quen’ từ trong những kiếp sống trước, nhưng
phần lớn những gì xảy ra cho chúng ta đều là quả của các hành động trong
đời sống hiện tại. Ta không cần phải nghĩ: “À, có lẻ đó là kết quả những
việc tôi đã làm hai, ba kiếp về trước”, hay “Nếu tôi làm như thế, kiếp sau tôi
sẽ được an toàn”. Suy nghĩ như thế là trốn tránh trách nhiệm. Nếu ta có
trách nhiệm với chính mình thì chắc là ta sẽ nhớ lại ta đã làm gì đó hay đã bỏ
qua không làm gì đó; ngay trong chính cuộc đời nầy để đưa đến những kết
quả như ngày hôm nay, như ngay hiện tại nầy.
Ta có thể dễ dàng nhận ra sự tương quan. Bất cứ hành động khéo léo, tốt
đẹp nào ta đã làm trong đời sống hiện tại, cũng cho ta kết quả. Chúng tiềm
ẩn trong khả năng, sức mạnh, sức khoẻ, cá tính của ta. Chúng ta là người tạo
ra số phận của mình. Không ai có thể thực sự làm gì cho ta được. Nếu ta
còn tin rằng ai đó có thể hành động thay ta, thì ta đã không hiểu ý nghĩa của
câu: “Tôi làm chủ nghiệp của tôi”. Nghiệp là thứ duy nhất ta có thể sở hữu.
Mọi thứ khác đều là vay mượn. Ta sẽ không mang theo được gì trừ nghiệp.
Mọi thứ khác kẻ hậu sinh ta sẽ thừa hưởng. Chỉ có nghiệp là của ta.
Khi tái sinh, ta mang theo các nghiệp duyên, và chính nghiệp duyên tạo ra
các hoàn cảnh, cơ hội cho ta. Ta có sự lựa chọn, nhưng không phải là tuyệt
đối. Tất cả chúng ta đều có sự lựa chọn là có nên đến thiền viện không. Khi
bạn đã chọn có mặt ở nơi đó, bạn đã tạo một nghiệp lành. Khi nghe Pháp,
bạn có sự chọn lựa hoặc là nghe mơ mơ màng màng hay nghe với cả tâm
hồn. Khi đã dốc tâm nghe, bạn có lựa chọn là quên liền sau đó hay cố gắng
lưu giữ lại. Và nếu có giữ, bạn sẽ giữ bằng cách luôn thực hành chúng hay
chỉ nhớ vì chúng lý thú. Khi đã chọn sống theo Pháp, bạn lại có thể hoặc
chọn luôn sống như thế hay chỉ khi có dịp, có hoàn cảnh thuận tiện.
Có được sự lựa chọn không ngừng nghĩ, từng giây phút là quyền của
chúng ta. Mỗi giây phút, trừ lúc ngủ, là mỗi phút giây tạo nghiệp. Đó là lý
do tại sao chúng ta cần hoàn chỉnh nghệ thuật sống của mình từng giây phút
một. Nếu ta không canh chừng từng giây phút tạo nghiệp của mình, thì nó
khó tạo ra nhiều điều có lợi cho chúng ta. Có bao nhiêu giây phút tội lổi có
thể xảy ra. Vì thế tâm cần phải được canh giữ từng giây từng phút vì đó là
những giây phút có sự lựa chọn, những giây phút của nghiệp. Ta càng có
những sự chọn lựa khôn ngoan, khéo léo, ta càng tạo ra nhiều cơ hội tốt cho
mình. Giống như sống trong một ngôi nhà có nhiều cửa chính, cửa sổ, ta sẽ
có bấy nhiêu cánh cửa để chọn lựa khi cần ra khỏi nhà. Nếu ta cứ tiếp tục có
những chọn lựa sai lầm, thì cơ hội của ta sẽ giảm dần cho đến khi ta tỉnh dậy
trong lao tù, nơi cơ hội đã ở đằng sau cánh cửa của sự lựa chọn. Lúc ấy, ta
sẽ chẳng có sự lựa chọn nào cho đến khi được giải thoát. Đôi khi ta tự hỏi
sao người khác hình như có nhiều chọn lựa để làm bao công việc thú vị,
trong khi ta chẳng có chọn lựa nào cả, thì đó là vì các nghiệp ta đã tạo ra.
Đức Phật nói có những người sanh ra trong ánh sáng và đi về phía ánh
sáng. Có người sanh ra trong ánh sáng, để đi vào bóng tối. Có người sanh
ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng. Và cuối cùng là có những
người sanh ra trong bóng tối, để tiếp tục đi trong bóng tối. Điều đó có nghĩa
là, dầu ta được sanh ra trong bất cứ hoàn cảnh nào, ta vẫn có nhiều cơ hội để
lựa chọn.
Có một phụ nữ tên là Helen Keller khi sinh ra bị điếc, câm và mù. Vậy mà
bà vẫn học hành, viết sách và chỉ dạy những người khuyết tật khác sống tốt
hơn. Rõ ràng là bà đã sanh ra trong bóng tối, nhưng đi về phía ánh sáng.
Tất cả chúng ta trong mỗi giây phút đều có một cơ hội đến với mình. Nếu
ta để lỡ mất cơ hội đó, có thể ta sẽ chẳng bao giờ có một cơ hội thứ hai như
thế nữa. Vì khi ta đánh mất một cơ hội, cũng giống như ta đã khóa bớt một
cánh cửa của căn nhà cuộc đời ta lại. Do đó hoàn toàn chú tâm cho từng
giây phút là một việc làm cần thiết.
Đức Phật cũng ví nghiệp giống như một ổ nhện giăng, một ổ nhện đã
được bện quá khéo léo đến nổi ta không biết đâu là sợi nhện đầu tiên đâu là
sợi cuối. Chúng ta không thể biết nếu mình bịnh hôm nay là do đã làm việc
gì đó không tốt mười lăm năm về trước hay vì ta đã không để ý đến vấn đề
ăn uống hôm qua. Nhân quả của ta cũng là những sợi dây nhện đan chéo
nhau đến nổi ta không biết rõ ràng tại sao sự việc xảy ra thế nầy, thế nọ.
Tuy nhiên ta có thể hiểu lý do của những việc quan trọng xảy ra trong đời
ta. Ta có thể dễ dàng nhớ lại những lựa chọn sai lầm vì dễ dãi với chính
mình, và hậu quả của chúng gây ra.
Nghiệp đến từ quá khứ hay sẽ xảy ra trong tương lai không quan trọng, vì
quá khứ giống như một giấc mộng còn tương lai thì chưa đến. Việc ta nên
quan tâm là ngay giờ phút hiện tại. Còn lại tất cả chỉ là một giấc mộng,
trong đó ta không biết mình tỉnh hay mê, không biết việc gì đang xảy ra.
Không có gì vui thích trong một cuộc sống như thế khi thực tại như phủ một
lớp sương mùø. Tất cả chúng ta khi chưa giác ngộ thì còn sống trong lớp
sương mù đó, nhưng ta có thể thức tĩnh mình ra khỏi giấc mơ đó. Thực ra
có giây phút nào khác hơn là giây phút hiện tại. Ta không thể sống lại trong
quá khứ hay kinh nghiệm trước tương lai. Chỉ có một việc duy nhất ta có
thể làm là: Sống cho giây phút nầy. Để làm được thế, ta phải hoàn toàn tỉnh
thức, nhận biết. Tỉnh thức và nhận biết về chủ tâm của ta.
Tâm là chủ. Không có gì có thể hiện hữu nếu không do tâm tạo ra. Tâm
là động lực tiềm ẩn của bao nghiệp ta tạo ra. Ta có ba cửa ngỏ: tư duy, ngữ
và hành (thân, khẩu, ý). Đây là ba cửa đưa ta đến sự tạo ra nghiệp, và ta tiếp
xúc với thế giới bên ngoài qua ba cửa nầy.
Dầu rằng tư duy là động lực tiềm ẩn, nó tạo ra nghiệp nhẹ nhất nếu không
thể hiện ra bằng lời nói hay hành động. Thí dụ như ta thù ghét ai, và một tư
tưởng loé qua đầu: “Nếu hắn đến gần ta nữa, ta sẽ giết hắn”, nhưng ta không
nói gì hay làm gì. Dầu đó là một tư tưởng xấu, tạo ra nghiệp ác, nhưng vì
không có hành động cụ thể, nên nghiệp báo cũng nhẹ. Nhưng nếu ta cứ tiếp
tục suy nghĩ như thế, nó sẽ tạo thành thói quen dẫn đến thốt ra lời nói. Nếu
kẻ ta ghét đến gần, ta thực sự nói: “Nếu anh đến gần tôi, tôi sẽ giết anh”, thì
nghiệp sẽ nặng hơn. Trước mắt là ta sẽ tạo ra kẻ thù, và ta đã củng cố tư
tưởng xấu bằng lời nói. Và nếu cứ tiếp tục nói lời ác đó, nó sẽ dẫn ta đến
hành động. Lúc đó nghiệp báo thật nặng nề và mang lại bao hậu quả thảm
khốc. Ý nghĩ, tư tưởng cần phải được canh giữ và sửa đổi nếu cần. Nếu một
tư tưởng xấu dấy lên, tốt nhất giữ đừng cho nó biến thành lời nói hay hành
động
---o0o---
LUÂN HỒI
Luân hồi là một trong những đề tài được nhiều người bàn cãi sôi nổi, đầy
hy vọng, phấn khởi hay phản đối, bác bỏ. Một trong những ẩn dụ cổ điển về
luân hồi là về cây nến. Một ngọn nến đã được dốt cháy đến tận tim. Một
ngọn nến khác được đốt từ ánh nến sắp tàn đó, rồi lại tàn đi, rồi môt ngọn
nến khác lại được thắp sáng lên. Rõ ràng là đã có ngọn nến sáp khác, nhưng
còn ngọn lửa, đó có phải là ngọn lửa cũ được tiếp tục đốt hay ngọn lửa mới?
Nếu ta làm một cuộc trưng cầu ý kiến, thì chắc rằng phân nửa sẽ bảo là củ,
phân nửa baỏ là mới. Sự thật thì không ai trúng cả. Ở đây chỉ là sự tiếp nối
của năng lượng. Sức nóng đã được chuyển tiếp. Sức nóng là năng lựơng, và
điều đó cũng giống như luân hồi của chúng ta -một sự tiếp nối của sức nóng,
năng lượng của lòng yêu sự sống. Nỗi đam mê được trường tồn sẽ không
bao giờ giảm cho đến khi giải thoát.
Một hôm người cùng tử Vacchagotta hỏi Đức Phật: “Bạch Đức Thế Tôn,
sau khi chết kẻ Giác Ngộ đi về đâu?” Đức Phật đáp: “Nầy Cùng tử, hãy
lượm những que củi nhỏ quanh đây và nhóm lửa lên”. Người cùng tử lượm
các que củi và đốt lửa. Đức Phật lại nói: “Hãy bỏ thêm củi vào!” Người
cùng tử làm theo lời Đức Phật dạy. Đức Phật hỏi: “Thế nào rồi?”
Vacchagotta đáp: “Dạ, lủa cháy rất tốt”. Đức Phật lại bảo: “Thôi đừng bỏ
thêm củi vào nữa”. Sau đó đám lửa lụn tàn. Đức Phật hỏi: “Thế nào rồi?”
“Dạ, đám lửa đã tàn, thưa Ngài”. Đức Phật nói: “Vậy đám lửa đã đi đâu?
Đi tới trước? Hay phía sau? Trái? Phải? Lên hay xuống?”. Người Cùng tử
trã lời: “Dạ không đi đâu cả. Nó chỉ tắt”. Đức Phật nói: “Đúng thế. Đó
cũng là điều sẽ xảy ra cho kẻ Giác Ngộ sau khi chết”.
Không chêm thêm củi vào ngọn lửa đam mê, ham muốn, cầu sinh tử, thì
ngọn lửa sẽ tắt. Đấng Giác Ngộ không tạo ra nghiệp thì họ sẽ không luân
hồi. Với chúng ta -vẫn còn lòng ham muốn sinh tồn- và đó là hộ chiều đưa
chúng ta đi vào luân hồi sanh tử. Sức nóng của đam mê là năng lượng
chuyển tiếp. Đôi khi cũng có những nỗi đam mê trái ngược lại phát sinh.
Tôi không muốn sống vì đời sống quá khổ. ‘Tôi muốn sống” hay ‘Tôi
không muốn sống”, đều là các ảo tưởng của ngã chấp. Muốn được sống là
nỗi ao ước mãnh liệt nhất. Mãnh liệt đến nỗi trên giường đợi chết, cũng có
ít người buông tay, chịu thua một cách nhẹ nhàng.
Người ta nói giây phút hấp hối là giây phút hiếm quí nhất để ta giác ngộ,
vì giây phút đó là giây phút ta từ bỏ sở hữu của thân. Nhưng phần lớn chúng
ta không muốn xuôi tay. Dầu cơ thể ta đã bất lực, ta vẫn chống cự, vùng
vẫy. Tuy nhiên, nếu ta tự ý buông xuôi thì đó có thể là giây phút giác ngộ.
Khi cuộc sống của ta còn thoải mái và mọi thứ trên đời còn như ý: ta có thức
ăn ngon, thân thể khỏe mạnh, người quanh ta thương mến - thì ta không thấy
nhu cầu phải từ bỏ cuộc sống nầy. Giải thóat lúc đó không phải là điều tối
ưu. Nhưng khi sắp chết, đó có thể là điều chúng ta phải làm: buông tay theo
số mệnh.
Những gì đã được khắc ghi trong tâm qua các thói quen suy nghĩ, lời nói
và hành động tạo ra chất chồng nghiệp. Những gì luân hồi, tái sinh sẽ là một
đồ họa di truyền, một đồ hoạ của nghiệp, hoàn toàn không phân biệt. Đức
Phật nói thật là sai lầm khi nghĩ rằng người tạo nghiệp và người lãnh nghiệp
báo là một; mà nghĩ rằng khác cũng sai. Sự thật là cả hai. Có một sự kế
thừa nhưng không có một thực thể. Không có một cá nhân nào gây nhân và
lãnh quả, nhưng có sự tiếp nối. Người tái sinh không phải là cùng một con
người vừa mất đi có lẻ dễ hiểu vì thân, tâm, tình cảm đã thay đổi. Mọi thứ
đều đã thay đổi kể từ giây phút nghiệp được tạo ra cho đến lúc nghiệp báo.
Nhưng có một sự tiếp nối giữa người gieo nhân và người lãnh quả, điều đó
cũng rỏ. Vì nghiệp bao trùm cả đời ta. Trong đó đã bao hàm các nghiệp quá
khứ, nhưng không có nghĩa là ta có thể nói: “Ồ, đó chỉ là nghiệp của tôi”, rồi
bó tay đầu hàng.
Có những vị thầy dưới thời Đức Phật đã dạy rằng tất cả mọi thứ đều do
nghiệp tạo ra, do đó ta không có sự lựa chọn nào. Đức Phật bác bỏ lối dạy
đó. Cũng có các vị thầy dưới thời Đức Phật nói không có nghiệp. Bất kể ta
làm gì, không có hậu quả gì cả. Đức Phật cũng không tán thành lối suy nghĩ
nầy. Có tạo nghiệp, có nghiệp báo, nhưng chúng ta cũng có quyền lựa chọn
của mình.
Khi giảng về luân hồi, tái sinh, Đức Phật đã so sánh tư tưởng cuối cùng
của ta trước khi chết với một đàn gia súc trong chuồng. Nếu không có gia
súc nào mạnh nhất, thì con vật thường là đầu đàng sẽ dẫn cả nhóm ra khỏi
chuồng. Nếu thường không có con đầu đàng, thì con đứng cạnh cửa chuồng
sẽ đi ra trước. Nếu không tất cả mọi con đều tranh nhau để ra trước.
Điều đó có nghĩa là ý nghĩ của ta trước giờ lâm chung sẽ tạo sức đẩy cho
luân hồi, tái sinh. Điều đó không có nghĩa là tất cả các nghiệp quá khứ đều
đã hoại diệt, mà chỉ là hoàn cảnh tái sinh của ta bị ảnh hưởng. Nghiệp căn
nào mạnh nhất, nặng nề nhất chắc chắn sẽ hiện lên lúc đó và dẫn ta theo nó.
Nếu không có, thì các suy nghĩ ta thường có sẽ hiện ra trong tâm ta. Nếu ta
thường nghĩ về lòng từ bi, thì điều đó sẽ là những ý nghĩ cuối cùng của ta.
Nếu ta không hay suy nghĩ về điều gì rõ ràng, thì điều gì xảy ra cận kề cánh
cửa tử thần sẽ hiện ra trong tâm ta. Thính giác là giác quan cuối cùng ra đi.
Vì thế muốn giúp đỡ người đang hấp hối, ta nên nói với họ về những hành
động tốt họ đã làm. Những điều tốt đẹp đó có thể dẫn dắt họ đến một sự tái
sinh tốt đẹp hơn. Không có những điều như thế, thì tất cả tư tưởng đều hiện
lên lộn xộn, và bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. May nhờ, rủi chịu.
Tất cả chúng ta đều phải trải qua giờ phút hấp hối, thì tại sao ta không sửa
soạn cho chúng. Ta cần phải chuẩn bị cho giây phút ấy. Sửa soạn cho sự ra
đi của mình bằng cách tập luyện để có những thói quen suy nghĩ một cách
khôn ngoan. Thì ta sẽ được tái sinh một cách khôn ngoan. Khi ta giữ năm
giới luật, không có thói quen phạm giới, ta sẽ được sanh trở lại làm người.
Phần đông chúng ta có những giây phút lơ là, không giữ năm giới, nhưng tạo
ra thói quen phạm giới sẽ làm cho việc tái sinh trở lại kiếp người rất khó
khăn.
Có chuyện kể rằng một hôm Đức Phật đi với các đệ tử của Ngài dọc bờ
biển, và Ngài nói với họ: “Nầy các đệ tử, nếu có con rùa mù bơi qua các
biển của vũ trụ và một khúc gổ trôi. Chú ruà mù chỉ trồi lên thở không khí
mỗi một trăm năm, các đệ tử có nghĩ là chú rùa có thể đụng đầu vào khúc gổ
không?” Các đệ tử trã lời: “Không thể nào, thưa Ngài. Chúng không thể
nào ở cùng một chỗ trong một khỏang thời gian, nếu như chúng cùng lội
quanh các biển vũ trụ”. Đức Phật nói: “Không. Không phải là không thể
nào. Mà là không có thể”. Rồi Đức Phật tiếp: “Cũng thế cơ hội để được tái
sinh làm người cũng khó khăn như thế.” Điều đó đáng cho chúng ta suy
nghĩ xem cần phải làm gì khi ta đã may mắn được sinh trở lại làm người.
Nếu không, ta khó có thể trở lại làm người.
Chúng ta không chỉ được tái sinh làm người -là một điều quá may mắnnhưng
chúng ta lại có đầy đủ tay chân, các giác quan. Ta có đủ thức ăn để
sống, sức khỏe đủ tốt để toạ thiền. Chúng ta cũng rất may mắn được biết
Pháp. Có thể nói là chúng ta được ở trên đỉnh cao so với nhiều người khác,
nếu không coi đó là một đặc quyền thì ta khó có thể hiểu thế nào là làm chủ
nghiệp của mình. Đó không chỉ là một cơ hội, một thuận lợi cho chúng ta
mà còn là một bổn phận nữa. Chúng ta phải sử dụng kiếp tái sinh nầy sao
cho hữu ích.
Cũng cần phải nói thêm rằng: chúng ta đang tái sinh từng giây phút. Rất ít
người có đủ chánh niệm hay chủ tâm để cảm nhận điều đó. Nhưng ta có thể
nhận ra ta được tái sinh mỗi buổi sáng. Điều đó không khó khăn gì. Ngày
đã qua, đêm tới. Thân tâm ta ‘chết’ mệt, ta ngủ thiếp đi. Vào buổi sáng ta
có cảm giác hồi sinh khi thức giấc. Ta trở nên nhẹ nhàng trở lại. Thân tâm
lại tươi mát, trẻ trung, ta lại có một ngày trước mặt để sử dụng sao cho tốt
nhất, giống như nó là một cuộc đời mới. Hãy tập nhìn mỗi buổi sáng như
một sự hồi sinh, thì ta có thể hiểu chỉ có một ngày này hiện hữu. Ta cũng có
thể tạo ra thói quen sử dụng mỗi ngày tối đa cho sự tăng trưởng -phát triển
về tinh thần, tâm linh, tình cảm. Không có nghĩa là lăng xăng làm thật nhiều
việc vào.
Sự tái sinh được nhìn dưới khía cạnh đó thì ích lợi hơn là nghĩ đến kiếp
sau. Việc gì sẽ xảy ra cho chúng ta ở kiếp sau, hoàn toàn tùy thuộc vào
những gì ta đang làm bây giờ, vì thế chỉ có ‘hiện tại’ mới quan trọng. ‘Hiện
tại’ là nhân, kiếp sau là quả. Nó cũng quan trọng hơn là ngồi suy nghĩ xem
mình đã làm gì trong kiếp trước. Điều đó đã qua rồi. Việc ta không thể nhớ
những kiếp sống trước cũng là một điều tốt. Ta đã đau khổ đủ trong cuộc
sống nầy, làm sống lại làm gì những nỗiđau cũ trong tiền kiếp. Một tâm hồn
vẫn còn đau khổ với những bất như ý trong cuộc đời nầy, làm sao có đủ sức
chịu đựng những nỗi đau khổ gấp đôi.
Sự hồi sinh mỗi buổi sáng cũng đủ để mang đến cho ta cảm giác thúc
bách, một yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống tâm linh. Tính cấp bách
phát sinh khi ta nhận biết được sự đau khổ thực sự. Tính cấp bách bắt ta
phải bắt tay ngay vào cuộc, và không thể chờ đợi nửa.
---o0o---
                   Chương 8 - Kinh Từ Bi
Người hằng mong thanh tịnh:
Nên thể hiện pháp lành,
Có khả năng, chất phác,
Hiền hòa, không kiêu mạn,
Sống dễ dàng, tri túc,
Thanh đạm không rộn ràng,
Lục căn luôn trong sáng,
Trí tuệ càng hiển minh,
Chuyên cần, không quyến niệm,
Không làm điều ác nhỏ,
Mà bậc trí hiền chê,
Nguyện thái bình an lạc,
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc,
Chúng sinh dù yếu mạnh,
Lớn nhỏ hoặc trung bình,
Thấp cao không đồng đẳng,
Hết thảy chúng hữu tình,
Lòng từ không phân biệt,
Hữu hình hoặc vô hình.
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết.
Nguyện tất cả sinh linh,
Tràn đầy muôn hạnh phúc.
Đừng lừa đảo lẫn nhau,
Chớ bất mãn điều gì,
Đừng mong ai đau khổ,
Vì tâm niệm sân si,
Hoặc vì nuôi oán tưởng.
Hãy mở rộng tình thương,
Hy sinh như từ mẫu,
Suốt đời lo che chở,
Đứa con một của mình,
Hãy phát tâm vô lượng,
Đến tất cả sinh linh,
Từ Bi gieo cùng khắp,
Cả thế gian khổ hải,
Trên dưới và quanh mình,
Không hẹp hòi oan trái,
Không hờn giận căm thù,
Khi đi, đứng, ngồi, nằm,
Bao giờ còn thức tĩnh,
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh,
Phạm hạnh chính là đây.
Ai xả ly kiến thủ,
Có giới hạnh nghiêm trì,
Đạt Chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử.
Lời Đức Phật dạy (Kinh Nipata)
(Nguồn: Nghi Thức Tụng Niệm, Chùa Đạo Quang, TX USA)
Nếu chúng ta đứng quá gần một tấm kính, ta sẽ không thể thấy gì. Mà xa
quá thì cũng thế. Chúng ta cần đứng một khoảng cách vừa phải thì mới có
thể nhìn thấy rõ.
Kinh Từ Bi quá quen thuộc đối với đa số chúng ta. Chúng ta hiểu nghĩa
kinh khuyên nhủ ta nên thương yêu tất cả mọi người. Điều đó rất đúng.
Nhất là đối với những người gây khó khăn cho ta, những người không theo ý
ta, không như ta mong đợi. Vậy ta hãy bước gần lại với Kinh Từ Bi, nếu ta
đang đứng quá xa, hay lùi lại vài bước nếu ta chỉ biết thuộc kinh, để hiểu
thật sự những lời kinh nói gì, có ý nghĩa gì.
Kinh bắt đầu với: Người hằng mong thanh tịnh, nên thể hiện phép lành. .
. Đó là một lời nói khá thú vị vì nó diễntả tính hoàn thiện như một kỹ năng,
và kỹ năng có thể được rèn luyện, học tập. Tất cả chúng ta đều có những kỹ
năng do rèn luyện mà có được. Nói là một kỹ năng. Đi đứng cũng thế.
Chúng ta đã luyện tập những kỹ năng nầy khi còn bé, và sau bao nhiêu năm,
giờ chúng ta đã trở nên quá thuần thục. Việc hành thiền cũng là một kỹ
năng có thể được học tập, rèn luyện, và trong thực tế thiền đang được người
ta học tập, rèn luyện. Lái xe, giặt ủi cũng là kỹ năng. Chúng ta học tập các
kỹ năng nầy trong các cộng việc hằng ngày ở nhà.
Thiện tánh được rèn luyện qua giáo dục, môi trường, nhưng nó sẽ chẳng
thể hoàn toàn nếu như chúng ta không cố gắng thực hành. Nó không phải tự
nhiên mà có. Tất cả chúng sanh đều có căn tánh thiện, nếu không chúng ta
đã không có mặt ở nơi nầy. Do nghiệp lành mà ta có mặt nơi đây, nhưng
chúng ta cũng mang đầy các nghiệp chướng. Đức Phật trong Tâm kinh đã
hướng dẫn đầy đủ các cách để viên mãn thiện căn trong ta. Đó là một phẩm
kinh ngắn, mở đầu với những lời giáo huấn cơ bản trong cuộc sống đời
thường, dẩàn đến hoàn toàn giải thoát giác ngộ. Đây là bài thuyết pháp có
nhiều cấp độ. Các bài Pháp của Đức Phật thường là như thế; ai cũng có thể
lắng nghe, dầu là những người sơ cơ hay đã huân tập lâu ngày, đều có thể
tìm thấy sự lợi ích. Tất cả chúng sanh, những ai có thể nghe và lãnh hội
được, có thể áp dụng bài kinh để đi từ cuộc sống thế tục dần tiến lên cõi
thanh cao.
Đức Phật nói lời thuyết pháp của Ngài tựa như biển cả. Lúc đầu khi ta
còn ở gần bờ, thì biển cạn. Có thể chỉ làm ướt chân ta. Khi ta tiến sâu hơn
ra xa, biển trở nên sâu hơn, sâu hơn nữa để dần trùm phủ ta trong lòng biển.
Giáo lý của Đức Phật cũng thế. Chúng ta bắt đầu bằng cách nhún chân,
thăm dò nước biển ấm lạnh. Như khi ta thử hành thiền nữa ngày, rồi dăm ba
ngày, cho đến khi cuối cùng ta có đủ can đảm để dự khóa tu thiền mười ngày
và có thể hành thiền suốt thời gian ấy. Chúng ta học Phật pháp cũng thế,
từng chút từng chút, cho đến khi cả cuộc sống của ta đều là sống trong
pháp.
Và rõ ràng sự bình an không phải do ai ban tặng cho ta. Chính ta phải tìm
lấy. Không thể có bình an chỉ vì ta mong mỏi hay ước muốn điều đó. Mà
chúng ta phải nỗ lực tìm kiếm. Không thể đạt được điều gì nếu không có sự
nỗ lực.
Tiếp theo Đức Phật cho biết ta cần có những đức tính gì để có thể viên
mãn thiện tánh, đạt đến giải thoát. Có hai điều căn bản quan trọng nhất
trong bài pháp nầy, đó là cách ta giao tiếp với người. Trước hết ta phải tự
sửa đổi chính bản thân. Không ích lợi gì khi chúng ta chỉ nói, hay nghĩ: “Từ
bi, từ bi” nhưng không làm gì để tự thanh lọc bản thân.
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể
sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân
loại trên thế giới. Những đức tính nầy được kể ra: Ta cần có khả năng,
không phải phụ thuộc vào người khác, chỉ dựa vào chính bản thân. Tự lực
sẽ khiến ta có lòng tự tin; lòng tự tin lại khiến ta cảm thấy tự tại. Khi chính
ta cảm thấy tự tại, ta mới có thể mở lòng thương yêu người khác. Ngược lại
khi ta còn phải phụ thuộc vào kẻ khác, còn phải nhờ vào sự giúp đở, hỗ trợ,
nhờ vào lòng tốt của người khác để có thể sinh tồn hay hoàn thành các công
việc hằng ngày, thì chúng ta luôn sợ hãi rằng họ sẽ bỏ rơi ta. Sự sợ hãi, âu
lo không thể mang đến cho tâm sự bình an. Tất cả chúng ta đều phụ thuộc
lẫn nhau, nhưng lòng sợ hãi bị bỏ rơi hay không có khả năng để tự chăm sóc
là một vấn đề hoàn toàn khác. Sự sợ hãi quá đáng có thể khiến ta phải tuân
phục theo bất cứ điều kiện nào để nắm giữ cái ta đang có, do thiếu lòng tự
tin. Như thế làm sao có thể tự tại.
Cần sự chất phác. . . Người chất phác không chỉ nói lời chân thật, là điều
căn bản, mà cũng không tìm cách lợi dụng người hay tạo điều kiện để thủ lợi
cho cá nhân. Chất phác là hoàn toàn chân thật, chỉ nói những điều dựa vào
sự hiểu biết của mình, chứ không phải để làm vừa lòng người khác. Chất
phác có nghĩa là chúng ta coi trọng sự thật. Giáo lý Đức Phật đặt trọng tâm
ở “bốn chân lý diệu nghiệm”. Nếu chúng ta tự biết mình có tánh chất phác,
trong sạch, ta sẽ không bao giờ xa rời các cảm xúc, hiểu biết của mình.
Chúng ta biết mình chân thật với chính mình. Nếu không như thế, ta sẽ
không bao giờ có được tâm bình an.
Kế tiếp ta phải thẳng thắng. . . có nghĩa là trung thực, không quanh co,
không tô vẽ, không dua nịnh. Người như thế cần có tâm chân thật. Không
có tâm chân thật thì khó có thể là người trung thực. Đó là một khả năng, cần
được trao dồi bằng chánh niệm trong thiền định. Với người thẳng thắng, ta
thấy dễ giao tiếp. Vì ta biết rằng họ chỉ nói những điều họ thật sự nghĩ.
Chúng ta không phải thắc mắc, “Không biết họ có thực sự nghĩ vậy không?
Không biết nói thế, họ có ý gì?” Trái lại, ta có thể tin tưởng họ. Với những
người đáng tin cậy, ta sẽ có được sự liên hệ tốt đẹp. Nếu tất cả mọi người
đều có thể tin cậy lẫn nhau, thì liên hệ giữa con người sẽ dễ dàng, bớt phức
tạp biết bao nhiêu.
Không kiêu ngạọ. . . Một thành ngữ tiếng Anh có nói “Kiêu ngạọ đứng
trước Thất bại”. Kiêu ngạo là sự tập trung vào cái ngã một cách vô lý, dầu
đó là kiêu ngạo về địa vị, sở hữu, sự thành đạt hay vẻ dáng bề ngoài. Tất cả
chỉ để tôn vinh cái ngã. Hay hơn thế nữa. Lòng kiêu ngạo khiến ta có cảm
giác mình hơn người, khiến ta lạnh lùng với người.
Có câu chuyện về một người Bà la môn ở vào thời Đức Phật còn tại thế.
Ông ta được đặt biệt hiệu là Cứng Cỗ (Pridestiff) vì không bao giờ chịu đảnh
lễ một ai. Dầu cho người đó là các đấng ông ta hằng thờ phụng, hay là các
sư phụ của mình. Oâng ta cũng không bao giờ đến nghe Đức Phật giảng
Pháp. Nhưng một ngày, trước sự kinh ngạc của mọi người ông ta đã xuất
hiện. Oâng ta lắng nghe Đức Phật thuyết pháp, và khi Đức Phật chấm dứt
bài pháp, ông đến đảnh lễ Đức Phật. Cả hội chúng đều phải kêu ồ lên. Tuy
nhiên ông ta có giao ước với Đức Phật. Oâng nói rằng sau khi được nghe
bài thuyết pháp của Đức Phật, ông rất muốn được trở thành đệ tử của Ngài,
nhưng ông không muốn đánh mất biệt hiệu của mình. Cho nên sau nầy nếu
có gặp Đức Phật ở nơi công cộng, Đức Phật có chấp nhận cho ông chỉ ngã
mũ chào, thay vì phải quỳ đảnh lể theo đúng phép tắc? Đức Phật đã chấp
nhận lời đề nghị đó. Vì thế ông ta đã giữ biệt hiệu ‘Cứng Cổ’ cho đến ngày
cuối đời.
"Cứng nhắc vì Tự Ái" là cách chúng ta thường nói. Sự cứng nhắc cho
thấy người đó không có khả năng chấp nhận những tư tưởng mới, những cái
nhìn mới. Tự ái là một quan điểm, và bất cứ điều gì mới mẻ đều có thể làm
cho cái nền tảng mà lòng kiêu ngạo được đặt trên đó bị lung lay. Rất khó
cho người tự ái học hỏi một điều gì mới. Người đó rất thường nói, "Tôi biết
rồi" trong lúc thực sự không biết gì hết.
Sống dễ dàng . . . khiến người khác dễ giao tiếp, chuyện trò. Không hay
giận dữ, nổi nóng vì những điều nhỏ nhặt, thường để ý đến điều người khác
nói, có khả năng lắng nghe. Biết lắng nghe là một nghệ thuật, mà đa số
chúng ta chưa phát triển được. Sống dễ dàng, dễ giao tiếp khiến phát sinh
những mối quan hệ tốt với người. Người khác cảm thấy được cảm thông,
được lắng nghe, không bị chỉ trích, được giúp đở.
Tuy nhiên, "dễ giao tiếp" không có nghĩa là hay nói chuyện phiếm, hay nói
để mà nói. Mà đó là người đáng để chúng ta trò chuyện, người đầy lòng
thương yêu với mọi người. Không có lòng thương yêu, thì khó thể khiến
người muốn đến gần ta, vì ta đang mãi lo nghĩ về bản thân hơn là nghĩ về ai
khác.
Trước khi nói đến thương yêu tha nhân, ta cần phải hội đủ những tính chất
trên. Bài kinh đã không nhắc đến lòng từ bi, tình thương cho đến khi tất cả
những điều kiện khác đã được nói rõ.
Đức Phật đã dùng một ẩn dụ để nói về những loại người khác nhau. Đức
Phật đã so sánh những người lắng nghe Ngài với bốn loại nồi khác nhau.
Loại thứ nhất bị lủng ở đáy. Khi người ta chế nước vào, nước lập tức bị
chảy ra. Những người vừa nghe thấu tai nầy đã ra tai kia. Loại thứ hai có
vết rạn. Khi đổ nước vào, nước cũng dần dần thấm ra ngoài. Loại người
nầy khi rời khỏi chỗ ngồi, ra đến cửa là đã quên ngay. Loại thứ ba là loại đã
đầy đến tận miệng. Đây là những người luôn nói "Tôi biết, tôi hiểu rồi".
Những người nầy hoặc là không lắng nghe, hoặc những điều họ nghe thấy
chẳng có ảnh hưởng gì. Ta có thể chế thêm bất cứ gì, nhưng họ đã đầy
những quan điểm riêng, những hiểu biết riêng của họ. Cuối cùng là loại nồi
không thủng đáy, không có vết nứt, hoàn toàn trống rỗng. Ta có thể chế
nước sạch, nước trong vào, nó sẽ giữ nước mãi sạch trong như thế để cho
mọi người cùng uống.
Điều kiện kế tiếp là hiền hòa. . . Hiền hoà đối nghịch với sấn sổ, lấn lướt.
người độ lượng đã phát triển được tâm đến độ thấy được lỗi mình hơn là
thấy lỗi nu. Tự thấy được lỗi mình rất lợi ích cho ta, vì ta có thể tự sữa đổi.
Trái lại thấy lỗi người không ích lợi gì. Chỉ khiến ta thấy không ưa người
khác. Rồi từ không ưa, dẫn đến không thân thiện, cãi vả, trang luận, thuyếp
phục, tất cả đều vô ích. người độ lượng hay tự soi rọi mình với tâm đầy
chánh niệm.
Thanh đạm . . . Người thanh đạm, tự tại là người thanh thản. Do đó ta
cần phải biết bằng lòng với hoàn cảnh, môi trường sống, tiền bạc, vẻ bề
ngoài, hay sự hiểu biết của ta. Không có nghĩa là ta trở nên dễ dãi. Tự tại và
dễ dãi không phải là một thứ.
Sự dễ dãi khiến ta nói: "Tôi đã làm tất cả khả năng rồi. Tôi yên ổn rồi.
Không phàn nàn gì hết". Trái lại, sự tự tại là "Những gì xảy ra cũng là điều
kiện giúp tôi tiến bộ". Sự tự tại rất cần cho hoà bình. Vì sự phật lòng, trái ý
khiến tâm cũng như thế giới trở nên đảo lộn. Khi không vừa lòng, ta dễ làm
những việc kỳ cục nhất để thay đổi những gì ta nghĩ là nguyên nhân. Chúng
ta tranh cãi, cố thay đổi những người sống quanh ta, thế giới ta đang sống,
tranh cãi về các món ăn, về quan niệm, đôi khi cả tôn giáo. Tại sao tất cả
những việc nầy lại xảy ra? Vì ta không tự tại, không vừa lòng. Tất cả các
hành động trên đều không mang đến sự tự tại. Chỉ có một cách khiến ta
được tự tại vừa lòng là hãy tự sửa đổi mình. Là điều không thể thực hiện
được khi không có tự tại. Mà chỉ có thể được thực hiện với lòng kiển nhẫn,
cố gắng và một ít trí tuệ. Không có trí tuệ sẽ không có gì xảy ra cả.
Tri túc . . . Tri túc có nghĩa là chúng ta không có nhiều tham cầu cá nhân;
không phải vì chúng ta đè nén chúng, mà là vì ta nhận thấy chúng không
đem đến cho ta hạnh phúc. Chúng ta không chạy đuổi theo đủ kiểu áo quần
mới, đủ kiểu bàn ghế, ăn uống hay những thứ vật chất khàc. Nhở thế ta
được tự tại vì ta biết bằng lòng với những gì mình đang có. Chúng ta hiểu
rằng dầu ta có mua sắm, sở hữu bất cứ thứ gì, rồi chúng cũng trở thành cũ,
rách, để rồi cuối cùng ta cũng phải vứt bỏ chúng đi, mà ta lại phải khổ sở
chạy đuổi theo chúng, khiến ta không được tự tại. Dĩ nhiên ta cần có những
thứ cơ bản cho cuộc sống của ta được thoải mái, nhưng ta không cần những
thứ ấy trong đủ kiểu dáng, màu sắc, kích cở khác nhau mới có thể sống thoải
mái.
Ham muốn thì khổ đau vì nó chứng tỏ là người ta còn thấy thiếu thốn.
Nếu chúng ta là người tri túc, biết đủ, ta sẽ buông bỏ được lòng ham muốn
vì ta muốn xả phiền não, khổ đau. Nếu ta có được điều mình ước muốn, có
thể ta sẽ thấy vui sướng trong chốc lát; nhưng nếu ta không đạt được ý
nguyện, thì ta cảm thấy khổ đau, rồi sau đó ta lại khởi lòng ham muốn trở
lại. Một vòng luẩn quẩn trong khổ đau, chẳng bao giờ dẫn ta đến được
thanh tịnh. Trước khi hiểu được thế nào là lòng từ bi, tình thương yêu chân
thật, ta cần phải buông bớt tham cầu, để cái ngã của ta không còn chiếm lĩnh
mọi suy tư của ta.
Không rộn ràng, không bị nhấn chìm trong lo toan. . . Nếu chúng ta
không có thời gian để quay vào bên trong, tự vấn lòng, chúng ta sẽ khó thay
đổi được gì. Nếu ta hết tham gia họp hành, lại viếng thăm hàng xóm, bà
con, nếu chúng ta tự tạo ra sự bận rộn, lăng xăng quanh mình, không tự để
ta có được giây phút nào tự suy gẫm, thiền quán, thì ta sẽ không có được sự
bình an. Chúng ta cần thời gian để tạo ra một môi trường lành mạnh, bình
an quanh ta cũng như trong ta.
Biết cần kiệm cũng là một trong muôn cách. . . Cần kiệm là một đức tính.
Nó chứng tỏ lòng trân trọng đối với những gì đã được tạo ra bằng sức lao
động, công khó nhọc của người khác; ta không vứt bỏ đi sản phẩm của họ
khi chúng bắt đầu hao mòn. Cần kiệm cũng có nghĩa là biết bằng lòng với
những cái ít ỏi, không đòi hỏi những cái tốt nhất cho mình. Vì lúc nào cũng
có cái tốt hơn cái ta đang có. Một chiếc TV lớn hơn, một tủ lạnh rộng hơn,
một cái nhà đẹp hơn, một cái xe tốt hơn, không kể đến bao nhiêu thứ có thể
khác. Không có chỗ dừng cho các ham muốn. Nếu cuộc đời ta chỉ để chạy
đuổi theo những ham muốn đó thì thật là phí thời gian, phí một kiếp người.
Cần kiệm có nghĩa là biết bằng lòng với cái càng ít càng tốt, chứ không
phải cố gắng để có được càng nhiều càng tốt. Chút ít đến đâu để có thể chấp
nhận được thì có chừng mực, nhưng lòng ham muốn thì không có giới hạn.
Tham cầu có thể dẫn ta lên đến mặt trăng. Còn nói được gì hơn nữa? Ai cần
đến mặt trăng chứ? Chúng ta có thể suy nghĩ thêm về điểm nầy, và cố sống
cần kiệm, vì nó đem đến cho ta sự bình yên.
Các căn thanh tịnh. . . Sự thanh tịnh của các căn là một trong những yếu
chỉ của Đức Phật. Các căn của ta luôn dẫn ta đi lạc hướng. Nhìn thấy cái gì
đẹp, ta liền muốn sở hữu ngay, dầu chỉ là một đóa hoa. Nhìn thấy hoa đẹp,
liền khiến ta có những hành động sai quấy như hái hoa, khiến cánh hoa bị
hủy hoại, không còn mang lại niềm vui cho ai khác nữa.
Thực tập chánh niệm giúp ta nhận thức được rằng nghe chỉ là nghe, thấy
chỉ là thấy. Nghe chỉ là âm thanh. Thấy chỉ là cảnh. Rồi tâm bày vẽ thêm
bao điều quanh những cái ta thấy nghe như là: "Cái nầy đẹp quá, tôi muốn
có. Cái kia xấu quá, tôi không muốn nhìn, muốn nghe về nó nữa". Các căn
của ta không ngưng tiếp xúc với thế giới bên ngoài. Chúng ta đâu muốn
không được thấy, nghe, ngửi, sờ, nếm. Cuộc sống của ta sẽ khó khăn biết
bao nếu thiếu chúng, nhưng chúng cũng mang đến cho ta bao ảo tưởng trong
cuộc sống. Chúng giống như các nhà ảo thuật vì bất cứ lúc nào, khi vừa tiếp
xúc với bên ngoài, chúng lập tức khiến tâm ta tạo ra bao tiếng vang dội,
phản ứng. Do vậy ta luôn phải canh các cánh cửa giác quan để cho dầu có
thấy, có nghe, có ngữi, có xúc chạm, chúng ta cũng không sinh tâm luyến ái
hay ghét bỏ. Điều nầy rất khó thực hiện, nhưng là một yếu tố quan trọng
gíup ta thoát khỏi được khổ đau.
Vào thời Đức Phật còn tại thế, có một vị tu sĩ trưởng lão, tên là Bahia. Là
người đã tu nhiều năm, cũng được bao người kính trọng, nên vị tu sĩ nầy
nghĩ là mình đã đắc đạo. Ông nghĩ mình đã dứt bỏ được nhiều ham muốn,
sân hận trong nhiều năm. Một đêm kia, một vị thần hiện ra nói với ông:
"Bahia, ông chưa thật sự đạt được giải thoát giác ngộ. Thật ra, ông còn chưa
biết đến con đường đưa đến giác ngộ". Nghe vậy, thầy Bahia rất giận, ông
nói: "Gì chứ? Tôi mà không biết con đường giải thoát giác ngộ sao? Vậy
thì ai biết? Hãy nói cho tôi biết mau". Vị thần trã lời: "Chính Đức Phật mới
là người biết con đường đi đến giác ngộ. Hãy đến tham kiến Người".
Thầy Bahia liền hỏi thăm nơi Đức Phật ở. Vị thần liến bảo cho ông biết,
lập tức, giữa đêm khuya, thầy Bahia ngồi dậy, bắt đầu đi tìm Đức Phật.
Sáng hôm sau, ông tìm đến ngôi nhà nơi Đức Phật đang trú ngụ, nhưng
người ta trã lời: "Xin lổi. Ông không thể gặp Đức Phật bây giờ. Ngài đang
đi khất thực". Bahia trã lời: "Tôi sẽ đi tìm Ngài". Lại được trã lời: "Không.
Xin ông đừng đi. Đức Phật không trã lời tham vấn khi Ngài đang đi khất
thực". Nhưng Bahia nhất quyết làm theo ý mình. Vì ông rất nóng lòng
muốn biết con đường đưa đến giác ngộ.
Ông chạy tìm và gặp Đức Phật đang trên đường khất thực. Ông đảnh lễ
Đức Phật và nói: "Thưa Ngài, tôi muốn được hỏi Ngài một câu". Đức Phật
trã lời: "Bahia, ông đã đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi và lại được trã
lời: "Ông đã đến không đúng lúc". Bahia lại hỏi đến lần thứ ba, Đức Phật
nói: "Thôi được rồi Bahia. Thế ông muốn biết điều gì?" Bahia đáp: "Tôi
muốn biết con đường đi đến giác ngộ". Đức Phật trã lời: "Nầy Bahia, khi
thấy chỉ thấy. Khi nghe chỉ nghe, khi biết chỉ biết". Thầy Bahia liền tạ ơn
Đức Phật rồi đi.
Buổi chiều, khi Đức Phật cùng đi với các vị đệ tử khác, Ngài nhìn thấy xác
Bahia ở bên đường, chết vì một con trâu đâm phải. Đức Phật nói: "Bahia đã
chứng đắc giác ngộ trước khi chết". Bahia đã tu hành trong ba mươi năm,
và có thể trong nhiều kiếp trước đó nữa, nên đã có thể hiểu ngay những lời
dạy của Đức Phật. Khi ta thấy cái gì, đó chỉ là cái thấy, nhưng ta lại vẽ thêm
bao nhiêu điều về người hay vật ta thấy, do đó sinh ra thương ghét. Với các
giác quan khác cũng thế, kể cả cái biết, cái nghĩ suy. Tất cả các căn đều
không thể khiến ta tạo ra nghiệp kể cả ý căn, trừ khi chúng ta bắt đầu thấy
ưa, thấy thích, thấy ghét, thấy chán. Thầy Bahia đã hiểu được điều đó.
Giờ có lẽ chúng ta cũng đã hiểu, và có thể thực hành như thế. Điều đó có
thể thực hiện trong mọi hoàn cảnh. Tiếng ho, tiếng chó sủa, tiếng cửa mở,
tiếng chuyển động -đó là những lúc ta có thể thực hành chỉ nghe tiếng động.
Khi ta nhìn thấy một bông hoa đẹp, chỉ tập nhìn mà không nói rằng: "Tôi sẽ
trồng loại hoa đó trong vườn", hay, "Cho tôi đi, tôi sẽ đem chưng trong bình
hoa". Hãy chỉ nhìn, và nhận biết được các vọng tưởng khởi lên khi tiếp xúc
với các căn.
Các vị A-la-hán vì đã thanh tịnh được các căn, đã buông bỏ được mọi ham
muốn, nên được tự tại. Đó là sự tự tại với chính mình, khi không có gì được,
có gì mất.
Thanh tịnh các căn, không có nghĩa là hủy bỏ các căn hay đè nén chúng.
Chỉ có nghĩa là nhận biết được các căn bằng trí tuệ, biết được bản chất chân
thật của chúng. Khi chân bị đau, liền biết đó là do xúc chạm. Từ xúc chạm
dẫn đến cảm giác, trong trường hợp nầy là một cảm giác khó chịu. Cảm
giàc đó dẫn tới ý thức: "Đây là sự đau đớn". Từ ý thức dẫn đến tâm hành,
"Tôi khó chịu quá. Tôi phải thoát ra khỏi cảnh nầy". Cũng như với các
cảnh, cái nghe, cái thấy khó chịu, ở đây ta cũng muốn thoát khỏi cảm giác
khó chịu. Sự thực tập nầy giúp ta thêm chánh niệm, để chấm dứt các hành
động theo thói quen. Khi chúng ta có thể thanh tịnh dần các căn, lòng ham
muốn của ta cũng dần giảm bớt, giúp ta có được sự tự tại. Vì lòng ham
muốn khiến tâm ta xáo trộn, không được an. Lòng ham muốn càng mãnh
liệt, sự bất an càng lớn, nhất là đối với những ước muốn không được toại
nguyện. Không có được cái ta muốn có là khổ đau. Thanh tịnh các căn dẫn
đến sự bình yên. . .
Trí tuệ. . . Thật thú vị khi biết trí tuệ là một trong mưới lăm điều kiện, vì
ta thường nghĩ con người được sanh ra hoặc là có trí tuệ hoặc là không.
Nhưng rõ ràng không phải thế. Nếu ta nằm trên giường ba tháng, ta phải
học đi trở lại. Nếu ta không sử dụng cái đầu, thì ta phải học lại cách suy tư.
Trí tuệ là cái có thể rèn luyện và phải được vun trồng bằng phương pháp
luyện tâm trong thiền định. Nếu không tu tập thiền, rất khó định được tâm.
Tâm không uốn nắn muốn đi đâu thì đi, từ hạnh phúc đến khổ đau, từ lo âu
đến sợ hãi, từ phấn chấn đến trầm cảm, từ ham muốn đến nhàm chán. Tâm
được rèn luyện trong thiền quán có thể sử dụng các khả năng bẩm sinh của
mình một cách hữu hiệu nhất. Cần phải có trí tuệ mới hiểu được những lời
dạy của Đức Phật. Tâm sáng suốt là tâm nhanh nhẹn, có thể đổi thay, theo
hướng dẫn của ta. Nó sẽ đi đến nơi nào ta muốn và còn có thể phát triển.
Nó không cố chấp bám vao những thói quen, lế thói, phong cách cũ mòn.
Nó có thể phát triển.
Không luyến niệm . . . Đức Phật đưa ra một ẩn dụ rất thú vị về nam giới
và nữ giới. Ngài nói: "Đàn ông giống như những con quạ bay vênh váo trên
cao, tìm kiếm con mồi; phụ nữ thì như giống cây leo, mong tìm một thân cây
để tựa nương. Cả hai đều phải từ bỏ tánh cách của mình. Con quạ là biểu
tượng của càn bướng. Ở tu viện của chúng tôi, các chú quạ vẫn tranh phần
ăn của mèo. Thật là càn, phải không? Chúng đi thẳng vào hành lang, giựt
đồ ăn ngay dưới miệng mèo. Liều càn là biểu hiện của sự quyết đóan.
Quyết đoán không giống như tự tin. Tự tin dựa vào sự bằng lòng với chính
bản thân, khiến ta cảm thấy tự tại. Không cần phải lấn lướt ai. Không ai
thích người càn bướng, chỉ biết có mình, bất chấp đến ai, giống như chú quạ
kia. Trái lại người tự tin có thể tự đứng trên đôi chân, tin chắc vào khả năng,
triển vọng của mình. Không cần phải cho người khác biết về những điều
đó. Ngược lại càn bướng không phải là để phát huy lòng tự tin, mà chỉ thổi
phồng thêm ngã chấp.
Không bị đám đông lôi kéo. . . Nếu người khác sân hận, ta không để lòng
sân đó lôi kéo. Nếu ai đó âu sầu, ta không ủ rũ theo. Nếu người khác có ý
chỉ trích ai, ta không hùa theo vì thích nói những chuyện như thế. Chúng ta
có thể làm chủ được các cảm xúc của mình.
Khi chúng ta không kiềm chế được lòng sợ hãi, ta sẽ bị khiếp đảm. Khi
không kiềm chế được sân hận, sẽ có giao tranh. Khi ta không làm chủ được
các cảm xúc của mình, ta sẽ bị kẻ khác lôi kéo -đàm tiếu, nói xấu, hỗn loạn,
khiếp đảm, chiến tranh. Để không bị cảm xúc của đám đông lôi cuốn, chúng
ta cần phải cảm nhận được những cảm xúc của riêng mình, và phải trụ nơi
đó. Ta phải tự biết khi nào chúng tốt đẹp, khi nào chúng xấu ác.
Hãy tránh xa những điều mà bậc hiền trí chê bai. . . Đó là điều kiện thứ
mười lăm, có nghĩa là không phạm ngũ giới:
1. Tôi nguyện không giết hại sinh vật.
2. Tôi nguyện không lấy của người
3. Tôi nguyện không phạm tà dâm
4. Tôi nguyện không nói lời sai trái
5. Tôi nguyệng không uống rượu hay dùng các thứ làm mê say. . .
Bất cứ ai có chút hiểu biết cũng thấy nếu phạm vào bất cứ giới nào cũng
đáng chê trách. Giận dữ, sân hận cũng đáng trách. Thật thú vị khi biết rằng
người ta muốn bỏ tánh nầy biết bao. Không chỉ vì đó là khuyết điểm, mà vì
lòng sân hận khiến ta rất khó chịu. Lòng ham muốn, tham lam tuy không bị
chỉ trích bao nhiêu, nhưng cả hai cũng đều cản trở sự phát triển tâm linh của
ta như nhau. Cả hai được nêu lên ở đây để chuẩn bị cho lòng từ bi đối với
người khác.
Chúng ta không cần đi đâu để hỏi ý kiến của ai. Tất cả chúng ta đều có
lương tâm, để tự biết hành động nào đáng chê trách. Nhưng chúng ta
thường bào chữa, "Đúng, nhưng tôi phải làm vì . . . ", và chúng ta có cả một
bảng liệt kê của bao lý do: 'vì cô ấy quá tệ; vì anh ta không để tôi làm thế; vì
lúc nào họ cũng nói . . ." Chúng ta cần ngưng lại ở nhận thức, "Đây là điều
đáng trách". Chỉ cần nhận biết được rằng một y(nghĩù, một lời nói hay một
hành động nào đó của ta bất thiện là đủ. Cần biết, vì điều đó giúp ta tránh
lập đi lập lại hành động đó. Nhưng chúng ta không cần phải tự dằn vặt
mình: "Tôi thật là tệ. Tôi đã nghĩ suy, nói năng, hành động quái gở quá
vậy?" Đó không phải là từ bi. Chúng ta cũng cần được thương vậy.
Không cần phải bào chữa, cải chính. Lầm lổi chỉ có nghĩa là khả năng
hành động của ta chưa được viên mãn, có nghĩa là ta phải vun trồng thêm
khả năng đó. Đây là mười lăm điều kiện tiên quyết để vun trồng tình cảm
tình thương người khác. Đức Phật chỉ bắt đầu nói đến lòng từ bi trong đoạïn
kinh kế tiếp.
Bài kinh tiếp nối như sau: "Đây là điều ta phải hằng ghi nhớ trong tâm:
Nguyện cho tất cả sinh linh tràn đầy muôn hạnh phúc, và nguyện cho tất cả
đều được thái bình an lạc. . . . Nếu chúng ta luôn giữ được lời nguyện nầy
trong tâm, thì ta sẽ không bao giờ có những tư tưởng chống báng lại ai.
Bài kinh tiếp nối bằng cách liệt kê đủ loại người:
Bất cứ chúng sinh nào ở trên cõi đời
Dầu cho là loại yếu ớt hay mạnh mẽ
Lớn nhỏ hoặc trung bình
Thấp cao không đồng đẳng,
Hữu hình hoặc vô hình,
Đã sinh hoặc chưa sinh,
Gần xa không kể xiết. . .
Chúng ta cần hướng lòng từ bi đến tất cả chúng sinh, dầu đang sống hay
đang tìm đường tái sinh, hoặc là người hay súc sanh, bất kể hình thể, kích cở
nào, có tướng hay không tướng, ở bất cứ cõi giới nào, không ngoại trừ chi.
Chúng ta chỉ thấy được loài người, loài thú, nhưng điều đó không có nghĩa
là không còn có những hiện hữu khác. Không thể vì tầm nhìn của ta hạn hẹp
mà cho rằng không còn gì hơn thế nữa. Các chú ong, là một thí dụ, có thể
nhìn thấy tia cực tím, nhưng ta thì không. Chó có thể nghe những âm thanh
rất nhỏ mà ta thì không hề hay biết. Do đó những gì ta không thấy, không
nghe, vẫn có thể hiện hữu.
Nguyện cho tất cả chúng sanh tràn đầy muôn hạnh phúc . . . Chúng ta
mong tất cả chúng sinh đều được sống trong hòa bình, hạnh phúc. Chúng ta
tập không làm hại đến chúng sinh có nghĩa là ta có lòng nghĩ đến người
khác. Mục đích của chúng ta là không làm hại ai. Nguyện cho tất cả được
sống bình an, hạnh phúc và nguyện cho tất cả được tự tại trong lòng. Nếu
chúng ta luôn biết tư duy như thế thì sẽ được bình an, tự tại nơi bản thân, và
ở nơi những người ta tiếp xúc.
Câu tiếp theo: Nguyện không ai làm hại ai, Đừng lừa đảo lẫn nhau, Chớ
bất mãn điều gì, Đừng mong ai đau khổ. . . Hãy nguyện cho chúng sinh
không sát hại lẫn nhau. Dầu cho chúng ta không chấp nhận một hành động
nào đó, cũng không có nghĩa là ta phải khinh rẻ người thực hiện. Hành động
có thể bất thiện, nhưng hãy nhớ có thể người ta hành động như thế vì bị vô
minh che phủ. Nếu chúng ta miệt thị người khác, ta sẽ tạo ra ác nghiệp cho
mình. người khác đã hành động như thế cũng đã quá đủ.
Như người mẹ hiền hy sinh thân mạng để bảo vệ, che chở cho đứa con duy
nhất của mình, chúng ta nên nuôi dưỡng một tình thương như thế đối với tất
cả chúng sanh trong vũ trụ. . . Chúng ta hãy tương tượng mình như mẹ hiền
của tất cả chúng sinh -và cũng có thể lắm chứ trong những kiếp quá khứ- có
thể chúng ta sẽ biết phải tiếp xúc với người khác, với tất cả chúng sanh,
không trừ một ai, như thế nào. Đây là những lời giáo huấn của Đức Phật, và
Ngài đã khai thị cho chúng ta như những lời chỉ lối, dẫn đường. Đức Phật
đã nói, nếu chúng ta có thể xếp được xương của tất cả những người làm mẹ,
làm cha của ta trong hằng hà sa số kiếp, nối tiếp nhau, thì xương đó có thể
bao quanh trái đất nầy không biết bao nhiêu lần. Nếu chúng ta đã có nhiều
cha, nhiều mẹ như thế, thì chúng ta cũng có thể là cha, là mẹ của bao đứa
con. Nếu chúng ta có thể nghĩ một cách rộng rãi bao trùm vũ trụ, thay vì
chỉ với một vài đứa con của mình ở nhà, thì ta có thể trãi rộng tình thương
đến cho biết bao nhiêu người. Nếu tất cả nhân loại đều là con cái của ta, dĩ
nhiên ta không thể mong mỏi tất cả đều theo ý của ta muốn, chúng phải như
thế nầy, hành động như thế kia. Tất cả đều không phải 'của tôi". Nếu chúng
ta có thể tư duy như thế thì những cái ta coi là 'cái của tôi' hẳn là sẽ giảm
bớt. Người mẹ sẽ hy sinh thân mạng để che chở cho đứa con một của mình,
Đức Phật đã dạy. Chúng ta cần nên đối với mọi người bằng tấm lòng của
người mẹ như thế.
Điều đó dường như không thể thực hiện được, nhưng đó là những lời khai
thị, giúp ta nhận ra rằng chúng ta rất thiếu tình thương dành cho tha nhân.
Điều nầy càng rõ ràng hơn, nếu như ta so sánh tình thương mình dành cho
con mình với tình thương dành cho con của người hàng xóm. Nói gì đến tất
cả chúng sanh trên thế giới nầy? Nhưng cũng không phải là không thể nào
ươm trồng sự quan tâm, chăm sóc, thương yêu, hỗ trợ cho tất cả chúng sanh,
nhất là những người đang sống trong những hoàn cảnh ngặt nghèo.
Đức Phật mỗi sáng đều toạ thiền, lúc đó Ngài thường phóng chiếc lưới từ
bi ra ngoài. Với thiên nhãn của mình, Ngài sẽ cứu vớt chúng sanh nào có
thể cúu vớt được. Sau đó Ngài đến với người ấy và truyền Pháp cho họ.
Ngài đã hoằng pháp như thế trong bốn mươi lăm năm, đi trên bao lộ trình để
đến với chúng sanh. Đó là lòng từ bi của đấng Giác ngộ. Chúng ta cũng có
thể phát triển tình mẫu tử đến với những ai đang khổ đau, cũng như Đức
Phật đã nhìn thấy họ khi Ngài phóng chiếc lưới từ bi.
Từ tâm siêu việt, đến cõi trời, ngạ quỷ hay khắp trong vũ trụ. . . Tình
thương trãi rộng đến tất cả chúng sanh từ tâm rộng lớn, tâm không bị nhiễm
ô cấu uế của hồng trần. Đó là tâm tỉnh thức trong thiền định. Tâm bình
thường lúc nào cũng bị phiền não ngậm nhấm như chú chuột ngậm nhấm
trên thân gỗ mục. Khi tâm đó tràn đầy lòng từ và bi mẫn, nó chỉ gắn chặt
vào đấy, và buông bỏ những suy nghĩ tầm thường. Tâm đó không còn bị
phiền não quấy nhiễu.
Không hẹp hòi, oan trái, Không hờn giận căm thù. . . Nhưng không có
nghĩa là tất cả mọi vấn đề vụn vặt đều đã biến mất. Chúng sẽ không bao giờ
biến mất. Nếu bạn thử nhìn lại trong giây lát, bạn có nhớ trong hai mươi
năm qua, có ngày nào mà không có việc khiến bạn phải bận tâm? Tâm
không phiền não, không chứa đựng sân hận vì tâm không phiền não tràn đầy
hạnh phúc, mà tâm bình an, hạnh phúc không thể có chỗ cho lòng oán thù.
Khi đi, đứng, nằm, ngồi
Bao giờ còn thức tĩnh
Giữ niệm từ bi nầy,
Thân tâm thường thanh tịnh
Dầu ở đâu, đi, đứng, ngồi hay cả khi nằm mà chưa ngủ, ta nên ươm trồng
lòng từ bi. Chánh niệm về lòng từ bi như một người mẹ đối với tất cả chúng
sanh. Tâm hồn ta sẽ bị giới hạn trong tình thương dành cho một, hai hay ba,
hay bốn, năm người, trong khi quanh ta có đến hơn bốn tỉ người cần được
thương yêu.
Khi là cha, là mẹ, ta sẽ không thấy khó khăn biểu lộ tình cảm mình với
người khác, vì ta biết tình cảm của mình đối với con cái ra sao. Cũng như ta
vẫn nhớ đến cách cư xử của chính cha mẹ mình. Với những kinh nghiệm cá
nhân nầy làm nền tảng, chúng ta có thể cố gắng để trãi rộng tình thương xa
hơn nữa.
Phạm hạnh chính là đây. . . Đời sống thánh thiện ngay trên mặt đất nầy.
Điều nầy tạo cho ta cảm giác hoàn toàn tự tại, yên ổn, an toàn cũng như tất
cả bao trạng thái tốt đẹp khác nữa. Được thế giúp tâm ta dễ đi vào định, là
một trong mười một điều lợi của tâm từ bi. Đó là một cách sống thánh thiện
ngay trong hiện tại. Ta không cần phải chờ đợi đến khi ta đã vào cõi thiên
mới được.
Ai xả ly kiến thủ
Có giới hạnh nghiêm trì
Đạt chánh trí viên mãn,
Không ái nhiễm dục trần,
Thoát ly đường sinh tử
Những lời trên dường như diễntả một vị A-la-hán. Khi ta sống không còn
chấp kiến. . . Bất cứ là gì! Chánh kiến duy nhất là Tứ Diệu Đế, đưa ta đến
giác ngộ. Ngoài ra quan điểm chỉ là quan điểm, không dựa trên những kinh
nghiệm đích thực.
Nazarudin, một vị thần Sufi vĩ đại, đã từng nói: "Đừng nhọc công tìm kiếm
giác ngộ. Chỉ cần biết buông bỏ quan điểm, ý kiến". Buông bỏ kiến hoặc
không có nghĩa là đánh mất sự phận biệt phải trái trong hành động của ta.
Nhưng nhiều người trong chúng ta chứa chấp những quan điểm, ý kiến tự
trói buộc mình vào ngục tù của tâm. Buộc họ, cũng như người chung quanh
phải nói năng, hành động, dáng vẻ như thế nào, và thế giới phải như thế nào.
. .
. . . có giới hạnh nghiêm trì, đạt chánh trí viên mãn . . . Tuệ giác tròn đầy
đạt được là nhờ ở nền tảng của các đạo đức vẹn toàn.
Không ái nhiễm dục trần. . . Mọi ái dục đều được đoạn trừ, không còn ham
muốn điều gì, thì không còn khổ não. Đó là cánh cửa mở đến niết bàn, giải
thoát hoàn toàn mọi mong cầu.
Không còn phải luân hồi sinh tử. Không tái sinh! Bài kinh nầy dẫn ta đi
từ những trạng thái bình thường của khả năng, chất phác, ngay thẳng và
khiêm cung, đến giác ngộ chỉ trong vài vần thơ ngắn ngủi. Trước hết ta
phát tâm từ bi thương yêu đến tất cả chúng sanh như thể thương yêu con cái
của mình, nhờ đó giúp ta đi vào thiền định, vì từ bi là một trong ba trụ thiền.
Khi luôn có tâm chánh niệm, ta có mặt 'ngay trong giờ phút nầy và ở tại nơi
đây", nên ta không còn chấp kiến về ngã, về nhân, về thế giới bên ngoài ta.
Dựa trên nền tảng đạo đức đó, ta sẽ có được tuệ giác và giác ngộ. Một con
đường thẳng tắp, không lối ngang, ngã rẽ, không phải luận bàn gì nữa, chỉ cứ
thế mà thực hành.
Đó là những điểm trọng yếu của bài kinh quen thuộc nầy, lời kinh quen
thuộc, nhưng hành động thì khó làm. Đức Phật đã truyền cho chúng ta
những lời dạy rõ ràng để thanh tịnh hoá tâm, chỉ cho ta cách xếp đặt cuộc
đời mình trong ngoài vẹn toàn. Tất cả đã bày sẳn cho ta nắm bắt, nhưng
không ai có thể làm thay cho người khác. Mỗi người phải tự dấn thân.
Xưa có một người tìm gặp Đức Phật để tham vấn. Ông ta nói rằng đã nghe
pháp của Phật nhiều năm nay, trong thời gian đó, ông ta đã được gặp gở với
nhiều vị tăng ni, đệ tử của Đức Phật. Ông ta đã kết thân với một số họ, và
thấy rằng có người đã hoàn toàn thay đổi. Họ đã trở nên từ bi, tử tế, thông
thái, kiên trì hơn, nhưng cũng có nhiều người không thay đổi gì cả. Lại có
người còn đánh mất tính kiên nhẫn, không còn thương yêu hay tử tế với
người khác nữa. Trong khi tất cả các vị tăng ni nầy đều cùng nghe những
bài thuyết pháp giống nhau. Ông ta muốn biết tại sao lại như thế.
Đức Phật bèn hỏi người đó: "Nhà ngươi ở đâu?". Người đàn ông trã lời:
"Ở Rajagaha". Đức Phật lãi hỏi: "Thỉnh thoảng ngươi có về thăm lại
Rajagaha?" Người kia trã lời: "Tôi vẫn thường trở lại nơi đó, vì tôi có công
việc làm ăn và gia đình ở đó". Đức Phật lại hỏi: "Ngươi có biết đường về
Rajagaha?" Người ấy trã lời: "Tôi biết rõ đến độ có thể đi trong đêm. Tôi
không cần phải nhìn nữa, tôi biết đường quá rõ". Đức Phật lại nói: "Nhưng
nếu có người muốn đi Rajagaha, ngươi có thể chỉ lại không?" Người kia trã
lời: "Nếu Ngài thấy ai cần giúp, cứ bảo họ đến tìm tôi, vì tôi có thể chỉ họ rõ
ràng. Tôi đã đi trên con đường ấy quá nhiều lần". Đức Phật nói: "Ta tin
ngươi. Nhưng nếu ngươi chỉ cho họ đường đi đến Rajagaha, nhưng họ cứ ở
mãi trong thành Benares, đó có phải do lỗi của người không?" Người kia trã
lời: "Dĩ nhiên là không. Tôi chỉ là người chỉ đường thôi". Đức Phật trã lời:
"Ta cũng thế. Ta cũng chỉ là người chỉ đường".
Tất cả những gì các bạn đã nghe, đã ghi chú hay đã hiểu, chỉ là những cột
mốc, bảng tên đường cho bạn biết hướng đi đúng sai. Nhưng nếu chúng ta
không bắt đầu khởi hành thì ta sẽ mãi là người lữ hành tại chổ. Bài kinh về
lòng từ bi cần được thực hành. Không có lời giả dối trong đó, mỗi chữ đều
có ý nghĩa, đều rõ ràng.
Đức Phật lại nói: "Nầy các tỳ kheo, nếu tất cả những lời ta nói không đem
lại lợi ích cho các ngươi, ta đã không bảo các người nghe theo. Điều nầy có
thể thực hiện được". Đức Phật bảo chúng ta có thể phát khởi tâm từ bi như
mẹ hiền đến với tất cả chúng sanh. Cũng như chúng ta có thể chứng ngộ,
nếu không Đức Phật đã không khuyên tất cả đệ tử của Ngài như thế. Một
điều chắc chắn rằng chúng ta có thể chỉ phát thiện tâm, chỉ tràn đầy bi mẫn.
Ý nghĩ quan trọng hàng đầu. Cần phải suy tư, khởi ý như thế nào, trong
kinh nầy đều đã nói rõ. Chúng ta suy nghĩ như thế nào sẽ khiến ta phải chịu
phiền não, âu lo, bất ổn hay bình an, hạnh phúc.
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an.
Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân. Mà là những điều ta cần
làm cho chính bản thân, đó là động lực thúc đẩy ta phải hành động. Đúng
thế, vì chỉ có ta mới có thể tự sửa đổi lấy mình. Tha nhân sẽ được hưởng
phúc lợi từ lòng từ bi của ta, chỉ là thứ yếu. Điểm chính yếu ở đây là tâm
thanh tịnh của ta, đó mới là mục đích chính. Trước hết ta cần phát khởi tâm
từ bi, sáng suốt. Hai đặc tính nầy đi với nhau, vì tâm tràn đầy tình thương
không thể có chỗ cho sự hỗn loạn. Tâm không xáo trộn là tâm có thể tư duy,
nói năng rõ ràng.
Khi ta đã quyết thanh tịnh hoá tâm, ta có thể tận dụng bài kinh nầy để làm
thước đo: "Tôi đang làm gì? Tôi có đang hành động theo lời kinh dạy?" Đó
là một trong những cách để biết chắc rằng chúng ta không bị lạc đường.
Không cần phải tự trách mình. Chúng ta có thể chuyển đổi tâm mình.
Không khó khăn gì. Chúng ta càng tinh tấn hành thiền, việc đó càng dễ
thực hiện. Khi đó tâm ta trở nên mạnh mẽ, khiến ta có thể chuyển hoá tâm
theo ý mình. Người mà có thể làm chủ mọi tư tưởng của mình, là người đã
đạt được tri kiến.
---o0o---
                  Chương 9 - Bốn Hỉ Lạc
Tất cả chúng ta đều kiếm tìm hạnh phúc, nhưng rất ít người bắt được. Hai
điều trong Tứ diệu đế của Đức Phật đã nói rằng hạnh phúc thế gian là ảo
tưởng, vậy mà ta chẳng bao giờ từ bỏ hy vọng tìm thấy nó. Tuy nhiên điều
đó cũng không hoàn toàn xấu, vì nếu không có lòng mưu cầu hạnh phúc, ta
sẽ trở nên thối chí, nản lòng khi không thể tìm được hạnh phúc hoàn toàn.
1. Hỷ Lạc Do Các Cảm Thọ Mang Đến
Đức Phật nói về bốn loại, bốn cấp bực của hạnh phúc. Thứ nhất là dục
giới, hỉ lạc do sự cảm thọ của các giác quan mang đến. Đức Phật ví đó
giống như một con bò chỉ có da, trong khi bọn ruồi đậu thì cố tìm thịt sống,
nên luôn tạo ra sự đau khổ. Đó là một cái nhìn sâu sắc về ngũ dục. Đức
Phật cũng nói về ngũ dục là phương tiện đầu tiên đem lại cho ta hạnh phúc.
Và phần đông chúng sanh trụ ở cấp bực nầy. Nhưng không phải lúc nào ta
cũng nắm bắt được dục lạc ta tìm kiếm, ngay như ta có tìm được, thì nó cũng
đến rồi đi, do đó không thể có hạnh phúc trường cửu qua sự tiếp xúc của sáu
căn với sáu trần. Khi sự xúc chạm đem lại cảm giác dễ chịu ta thấy hạnh
phúc. Nhưng cũng có những sự xúc chạm, đem lại khó chịu, khi cơ thể ta
không được thoải mái hay khi ta không được nghe những lời mát lòng mà ta
muốn được nghe, khôngï được nếm những mùi vị ta ưa thích, hay ngửi phải
mùi hôi thối, hay nhìn thấy những cảnh ta không thích. Không ai thoát khỏi
những cảnh nầy. Không ai có thể sống mà không kinh qua những xúc chạm
gây khó chịu.
Nhưng cũng không có ai đi qua cuộc đời mà không kinh qua những cảm
xúc dễ chịu. Nếu có nghiệp thiện, ta có 50-50 cơ hội. Phân nửa thời gian ta
được những xúc chạm dễ chịu, phân nửa không. Phần đông chúng ta tìm
cách để tăng thời gian của xúc chạm dễ chịu lên, và muốn chúng xảy ra 100
phần trăm lần, là điều không thể có. Không thể nào có chuyện đó, nhưng
người ta vẫn theo đuổi chúng. Và lại trách cho hoàn cảnh bên ngoài khi cảm
xúc khó chịu hay cảm giác đau đớn dấy khởi làm cho ta đau khổ. Lý do thật
sự, dĩ nhiên, nằm bên trong chúng ta, vì chúng ta phản ứng lại với các cảm
xúc.
Người càng trong sạch, càng có nhiều lạc thọ. Một tâm hồn trong sáng sẽ
tìm thấy niềm vui ở những điều nhỏ nhặt nhất. Một ngày đẹp trời, thảm cỏ
xanh, một cuộc đàm thoại thú vị.
Người không trong sạch có lẻ chẳng để ý đến những thứ nầy. Có thể họ
chẳng bao giờ biết ngắm bầu trời đẹp hay một thảm cỏ xanh. Có lẻ họ đi tìm
cảm xúc ở những thứ tầm thường hơn. Rượu, thuốc phiện, đồ ăn ngon, gái
đẹp, có lẻ là những thứ mang đến cho họ lạc thú hơn.
Nếu các cảm xúc thanh tao, vô hại thì đâu có gì là xấu. Tuy nhiên Đức
Phật cho rằng chúng nguy hiểm vì ta dễ biến chúng thành mục đích của đời
sống, con đường ta phải đeo đuổi, ta cố gắng tìm thêm, tìm thêm và giữ
chúng lại bên ta mãi mãi. Đó chính là sai lầm của ta, vì điều đó không thể
thực hiện được. Không có cảm thọ nào vĩnh viễn cả. Thật ra nếu chúng
vĩnh viễn thì chưa chắc chúng còn cho ta những cảm giác thích thú. Hơn
nửa cũng không thể chắc là ta có thể tìm được các khoái cảm. Việc tìm
kiếm làm chúng ta mất thì giờ, sức lực, ta sẽ không còn thì giờ để làm những
việc có ý nghĩa hơn.
Thân có các giác quan. Điều đó hiển nhiên. Tuy nhiên nếu chánh niệm, ta
có thể thấy rằng các cảm giác dễ chịu do sáu căn mang lại đều là của báu của
người ngu. Chúng lấp lánh, nhưng chẳng có giá. Ta có thể nhìn ngắm vẻ
hào nhoáng đó, nhưng chớ bám víu vào chúng. Vậy mà chúng sinh vẫn cứ
luôn đau khổ vì không thể có được những gì do sáu căn đem lại.
2. Hỷ Lạc Của Chư Thiên
Hạnh phúc thứ hai là hạnh phúc như ở cõi Trời. Nói thế không có nghĩa ta
phải thành thánh, hay phải chết trước đã, mới được vào cõi Trời Dục Giới.
Điều đó xa vời, không liên quan gì đền đời sống hiện tại của ta. Nhưng thật
ra, người đã vun trồng được bốn đặc tính cao quý (tứ vô lượng tâm): từ, bi,
hỷ và xả sẽ được hưởng niềm vui của cõi Trời Dục Giới. Thứ hạnh phúc đó
được so sánh với sống trong thiên đàng ở cõi giới. Thứ hạnh phúc đó không
tùy thuộc vào ngũ dục mà chỉ tùy thuộc vào tâm ta. Điều kiện duy nhất là
phải thanh tịnh hoá tâm ta để có thể chứa đựng được từ, bi. Cả từ và bi là
hai đặc tính của trái tim, cũng như thông minh là đặc tính của trí tuệ, chúng
có thể được vun trồng, nuôi dưỡng. Khi ta đạt được những điều đó, thì hạnh
phúc, an lạc sẽ ở tại tâm. Tha nhân cũng sẽ được nhờ, nhưng ta là người
được hưởng quả an lạc trước tiên, vì lúc đó tâm ta hoàn toàn không phụ
thuộc vào những gì xảy ra quanh ta. Người khác nói gì, làm gì, chuyện gì
xảy ra hay không xảy ra trên thế giới nầy, đều không ảnh hưởng đến ta. Khi
tim ta đã được ươm trồng thanh tịnh với từ, bi, thì không có gì có thể đụng
chạm đến nó. Có một sự an lạc, hài hòa, dễ chịu, một cảm giác an toàn luôn
ngự trị trong tâm trí ta.
Niềm vui nầy thanh cao hơn so với niềm vui do ngũ dục mang đến. Tự nó
không dẫn đến sự gỉai thóat, nhưng chắc chắn nó là hành trang cần thiết trên
đường đến giải thoát.
Từ và bi, tự chúng không sinh ra cái thấy bên trong. Chúng chỉ làm lắng
dịu những ngọn sóng tình cảm. Khi những làn sóng của đau khổ, buồn
phiền, lo âu, sợ hãi, ganh ghét, tị hiềm, hối hận, cuối cùng lắng xuống thì
mặt nước sẽ trong xanh, không gợn sóng, giống như một tấm gương, tấm
gương của tâm. Tấm gương đó giúp ta thấy mọi việc rõ ràng. Không có sự
vun trồng những tình cảm tốt đẹp đó, ta không thể phát triển hơn. Ta có thể
hiểu Pháp, nói Pháp nhưng ta không thể đoạn trừ đau khổ. Những ngọn
sóng tình cảm là vực chắn. Chúng không chỉ ngăn trở cái nhìn của ta được rõ
ràng, mà còn che khuất chính con đường ta phải đi. Khi còn u mê, mờ mịt,
ta sẻ không biết mình đang đi đâu. Thậm chí có thể quên rằng mình đang dự
vào một cuộc hành trình nào đó.
An lạc ở cõi Trời Dục Giới không tùy thuộc vào luân hồi, sinh tử. Nó có
thể xảy ra ngay ở đời sống hiện tại. Đó là sự tu tâm, và ai cũng có thể tu
được. Không cần phải theo khóa thiền nào, hay phải là người đặc biệt gì, ai
cũng có thể làm được. Đây là một niềm vui có thể tìm thấy do chính sự tu
tập không cần phải tìm kiếm đâu xa.
3. Hỷ Lạc Qua Nhiếp Tâm
Niềm vui thứ ba đến từ sự nhiếp tâm trong thiền định. Niềm vui nầy cũng
chỉ có được khi ta đã thanh tịnh hóa hành động của mình, đã có được sự độ
lượng, lòng từ ái trong tâm hồn. Nó cũng không đòi hỏi ta phải là người
hòan toàn, vì chỉ có bậc A la hán mới được như thế. Nó chỉ đòi hỏi chút
khoáng đạt trong tâm.
Người tu thiền thường tìm được niềm vui như thế. Nhưng ta cần phải
huân tjập sự chú tâm, thường xuyên thực hành tọa thiền để đạt được sự lắng
sâu trong thiền định. Có rất nhiều mức độ của niềm vui, thanh thoát, dễ chịu
khi thiền định. Chúng giúp cho tâm được an lạc ngay cả sau khi đã xả thiền.
Người mà có thể lắng tâm trong thiền định và tìm được hỉ lạc trong đó là
người có thể tìm thấy niềm vui ngay cả trong những hòan cảnh bất như ý.
Người đó biết rằng bất cứ lúc nào mình cũng có thể được sự an lạc của trong
thiền định. Biết được như thế, tạo cho họ cảm giác dễ chịu trong tâm vì
không có gì còn là quan trọng với họ nữa. Khi một người có thể nhập định
lúc nào họ muốn, trong bao lâu tùy họ, thì đó là thực tại của họ, không phải
những tranh giành, cãi cọ, chiến tranh, tương lai, quá khứ làm họ bận tâm
như bao nhiêu người khác. Những thứ đó không còn quan trọng đối với họ.
Thực tại trụ ở trong niềm vui của thiền định.
Nhiếp tâm hay chánh niệm cũng sửa soạn cho tâm. Nó mang đến cho tâm
không những chỉ khả năng hạnh phúc, mà cả khả năng duy trì niềm vui đó.
Tâm có thể ổn định theo ý mình, là tâm kiên cố. Tâm chúng sinh khó ổn
định. Nó luôn dao động mà không cần một động lực nào tác khởi, vì đó là
bản thể của nó. Nó không đủ sức mạnh để xuyên qua bức tường ảo tưỡng.
Trước bất cứ trở ngại nhỏ bé, hoặc một lời chê bai nhẹ nhàng, hay hơi khó
chịu của cơ thể, tâm yếu đuối như bún lập tức tan thành mãnh vụng. Nó còn
làm được gì khác hơn chứ?
Tâm kiên cố cứng như đá tảng, không thể lay chuyển. Một tảng đá kiên cố
chắc chắn là một dụng cụ tốt hơn cọng bún để đập bể bức tường. Tâm kiên
cố sẽ không lay chuyển trước những khó khăn nào. Nó có đủ sức mạnh để
xuyên qua thực tại của cuộc sống, tiến đến một thực tại tuyệt đối hơn.
Có tám mức độ của sự nhiếp tâm trong thiền định, giống như tám căn
phòng trong một ngôi nhà. Nếu cuối cùng ta đã có thể tìm được đúng chiếc
chìa khóa để mở căn phòng thứ nhất ở cửa ngoài, thì không có lý do gì ta
không thể đi vào những căn phòng khác. Không có gì khó để tìm ra chìa
khóa vào căn phòng đầu tiên. Chìa khóa là sự chủ tâm vào hơi thở, và cánh
cửa phòng ngoài được mở khi ta tiếp tục hành thiền với lòng kiên trì và
quyết tâm. Ta sẽ không bỏ nửa chừng ‘À, đủ rồi, chân ta đã đau rồi’, hay
‘Có ích gì?’ hay ‘Cho kiếp sau à?’ hay ‘Khó quá cho tôi’, hay bất cứ lý do
nào khác.
Đức Phật dạy “Kẻ ngu nói: ‘Sớm quá. Trể quá. Nóng quá. Lạnh quá. No
quá. Đói qua’ù”. Cánh cửa đằng trước mặt chỉ chờ ta mở ra. Ta lại có chìa
khóa. Và ta chỉ cần tra chìa khóa vào ổ khóa. Khi cửa mở, ta sẽ thấy các
phòng đều hoành tráng. Sự hoành tráng ở ngay trong tâm trí ta nhưng hiện
giờ nó còn bị khóa. Ta sẽ không thể mở khoá nếu như ta không biết tu
thiền. Nhiều người không bao giờ có thể mở được khóa vì họ không biết
chìa khóa là gì hoặc không biết có một cửa vào như thế. Chúng ta rất may
mắn được biết lối vào, và có thể cửa đã hé mở cho ánh sáng tràn vào.
Khi sự nhiếp tâm đã được kiên định một thời gian, tâm sẽ trở nên trong
sáng, và thân thanh tịnh. Mỗi giây phút nhiếp tâm là mỗi giây phút thanh
tịnh. Những ô trược mà ta thường đắm chìm, mang lại cho ta bao đau khổ,
phiền não được gạt sang một bên trong thiền định. Càng có cơ hội để gạt
chúng sang một bên, chúng càng khó thể trở thành thói quen của ta. Ta càng
thường có thể nhiếp tâm, ta càng dễ lãng quên chúng. Lúc đó việc đạt được
một tâm trong sạch, sáng lạng chỉ là việc dễ dàng thôi.
Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng những cảm giác dễ chịu. Những cảm giác nầy
dấy khởi vì tâm ở trong trạng thái đó không bị quấy nhiễu. Điều nầy chứng
tỏ cho chúng ta thấy là nếu ta không phiền não, và giữ được tâm luôn trong
sáng, thanh tịnh thì ta luôn có những cảm giác thoải mái, dễ chịu.
Ở đây ta đã biết về những thành quả ta có thể đạt được, điều đó làm ta
muốn được ở trong trạng thái đó lâu dài. Niềm mong ước lành mạnh, lợi ích
dần dần đưa ta đến trạng thái không còn mong cầu, do đó không còn đau
khổ, thất vọng.
Sự nhiếp tâm bắt đầu bằng cảm giác dễ chịu, rồi dần dần đưa ta đến trạng
thái an lạc, hạnh phúc. Điều nầy chứng tỏ một lần nữa là tâm thanh tịnh chỉ
biết có an lạc. Khi có phiền não, thì có ô trược. Hai thứ nầy đi với nhau như
hình với bóng. Người an lạc không mong đạt được hạnh phúc qua các căn
trần vì họ biết chúng rất ngắn ngủi. Người hạnh phúc thật sự là người luôn
an lạc mà không phụ thuộc vào ngoại cảnh. Người như thế sẽ dễ dàng nhiếp
tâm thiền định, để tìm cho tâm mình một chỗ an trú thanh tịnh, không còn
phiền não dấy khởi. Còn phiền não là do tâm ta còn chưa thanh tịnh. Khi có
phiền não dấy khởi, nếu ta nghiệm xét sẽ thấy rằng do có sự ô trược ngầm
ẩn chứa trong tâm. Nếu không tìm ra được điều đó, thì do ta chưa thật sự soi
xét lại mình.
Khi ở trong thiền định, tâm không còn bị năm chướng ngại quấy nhiễu.
Khi các cảm giác dễ chịu, an lạc dấy khởi thì tâm hỉ, xả cũng theo sau. Xả
bỏ đưa đến cảm giác không còn ham muốn điều gì. Có người còn có cảm
giác mình hoàn toàn không còn tham ái dục nữa nhưng đó chỉ là ảo giác.
Dầu gì, ít ra trong những giây phút đó, lòng ham muốn cũng bị hoại diệt.
Đó là một kinh nghiệm quí báu khi đạt đến trạng thái không còn tham
dục. Đó là một niềm hạnh phúc tuyệt đối. Một hạnh phúc đáng kiếm tìm.
Khi đã kinh qua kinh nghiệm đó, ta sẽ biết được mình phải theo đuổi điều
gì. Không phải là theo đuổi để được việc gì. Mà theo đuổi để cởi bỏ hết
mọi thứ. Đây là điều nhiều người đã lầm tưởng một cách khá buồn cười.
Khi mới bắt đầu tọa thiền, ta mong tìm được an bình, vui vẻ, hạnh phúc
tuyệt vời, là những điều ta chỉ có thể có được khi ta đã buông bỏ những thứ
khác. Như chấp ngã và tham dục.
Khi ta đã được nếm -dầu chỉ trong giây phút- niềm hạnh phúc tuyệt vời
của lòng không tham dục, ta biết mình phải làm gì. Không phải để đuổi theo
sự hỉ lạc, mà cái ta cần ươm trồng chính là sự cởi bỏ, buông xả. Không có
sự buông xả, đời sống là một chuổi dài của ham muốn. Sự buông xả là câu
trã lời cho mọi chứng bịnh đạt thành tích, dầu trong thế gian hay trong đời
sống tu hành. Cố gắng để đạt được cái gì đó trong đời sống tu hành thì cũng
mê muội như cố gắng đạt được điều gì trong đời sống thế gian. Không có gì
cần đạt được. Chỉ cần tập buông xả. Càng cởi bỏ nhiều ràng buộc với chấp
ngã, lòng ham muốn và những thứ tương tự, thì hạnh phúc tuyệt vời càng dễ
đến hơn.
Niềm an lạc do thiền định mang đến dựa vào sự thanh tịnh. Cũng vậy, trong
đời thường, nếu ta biết gieo trồng thanh tịnh, thì ta cũng sẽ được an vui. Tuy
các cảm giác dễ chịu, an lạc, xả bỏ trong thiền định thâm sâu hơn các lạc thọ
thế gian, nhưng trước hết ta phải thanh tịnh trong đời thường, rồi ta mới có
thể tìm được sự thanh tịnh trong thiền định. Chúng đi đôi với nhau. Ta càng
khó tìm được các cảm giác dễ chịu khi tham thiền, thì ta càng phải nổ lực
thực tập thanh tịnh hoá thân tâm hơn.
Niềm vui trong thiền định được coi là thành quả tối ưu mà ta có thể đạt
được. Đó là một sai lầm, vì niềm vui đó cũng chỉ tạm thời, và không hòan
toàn độc lập, hay vô điều kiện. Có nhiều điều kiện kèm theo như là: phải có
nơi yên tịnh, thân thể phải khỏe mạnh để có thể ngồi yên, và có khả năng
nhiếp tâm. Dầu niềm vui nầy không phụ thuộc vào căn trần bên ngoài, nó
vẫn còn phải tùy thuộc vào các điều kiện của thân, tâm. Niềm vui đó chưa
phải là tuyệt đối.
4. Hỷ Lạc Qua Kiến Tánh
Niềm hạnh phúc thứ tư, ở cấp bậc cao nhất, là niềm vui của nội tâm hay là
cái thấy, còn gọi là kiến tánh. Kiến tánh, trong ngôn từ Phật học, được dùng
khi nói đến sự hiểu biết về vô thường, phiền não và vô ngã. Nếu ta có thể
thấy rõ được bản tánh của một trong ba đặc tính nầy, thì ta biết tất cả, vì
chúng liên hệ nhau.
Niềm hạnh phúc tuyệt vời của kiến tánh có nghĩa là ta đã dẹp bỏ được
chấp ngã. Khi ta có thể buông bỏ cái tôi, thì ta sẽ nhẹ nhàng, giải thoát xiết
bao.
Ramana Maharshi, một hiền triết ở miền Nam Aán Độ, so sánh những
vọng tưởng về Ngã chấp giống như một người hành khách trên tàu hỏa. Đã
bước vào toa rồi, người ấy cứ đứng ôm chặt các hàng lý trong tay, thay vì bỏ
các hành lý vào chỗ để hành lý. Cũng thế, dầu không cần thiết, ta luôn
mang mớ hành lý nặng nề của ngã chấp theo bên mình. Những vọng tưỡng
về ngã chấp làm ta thấy mọi việc đều có vẻ đe dọa, tấn công ta, họa hoằng
lắm thì bảo vệ ta, nhưng khó đối trị, như ngọn núi ta phải vượt qua. Nó làm
cho cuộc đời thêm khó khăn.
Các món phiền não, ô trược là lòng ham muốn, sân hận, yếu đuối, lo âu,
càn bướng, bám víu vào quan điểm riêng của mình. ‘Khi ta hoàn toàn buông
bỏ các quan điểm, ý kiến của mình, ta có thể nhìn thấy bản thể của mọi vật
rõ ràng hơn’, đó là đức tính của bậc A-la-hán. Với chúng ta, các quan điểm,
ý kiến chính là sự thất bại của ta. Khi ta bắt đầu ‘bảo vệ’ quan điểm, ý kiến
của mình, thì thực ra ta đang bảo vệ cho cái tôi của mình. Sự tranh cãi về
một quan điểm cho ta thấy rằng quan điểm đó không được thiết lập dựa trên
kinh nghiệm. Vì người ta không cần bào chữa cho kinh nghiệm. Giáo lý
của Đức Phật dựa trên kinh nghiệm mà có. Trong khi quan điểm dựa vào
Ngã chấp. Cả hai (quan điểm và Ngã) đều không phải là sự thật tuyệt đối.
Nhìn thấy rõ ràng tất cả những thăng trầm, biến đổi của vạn vật, trong đó
có bản thân chúng ta, giúp ta thấy rằng không có gì trong cõi đời nầy đáng
gìn giữ, bám víu. Nhờ có kiến tánh, ta không chống báng quan điểm của
người khác, tránh nẩy sinh ra bao nhiêu phiền phức trong cuộc đời. Mỗi
người có quan điểm riêng của mình. Không có gì tốt hơn là chúc phúc cho
họ thay vì tranh cãi. Sự bám víu vào quan điểm của mình cho thấy là ta vẫn
chưa hiểu rõ tính cách vô thường của sự vật. Nếu hiểu rõ được sự vô
thường, ta sẽ không nói “Tôi thế nầy, tôi thế nọ”, để có thể xem xét sự việc
cẩn trọng hơn. Tôi là ai? Tôi có phải là người sáng hôm qua được thiền
định? Hay là người sáng nay toạ thiền mà cứ lo ra? Là kẻ có tâm nghi hoặc
hay người hết lòng tin tưởng vào Phật Pháp? Ngưòi nào là tôi? Hay tôi là
tất cả những người ấy? Nếu thé, tôi thật là hỗn tạp. Tôi phải là thiên hạ, chứ
không phải một người. Vậy thì ta phải chọn lựa: Tôi là tất cả hay là không.
Nếu không nhận là không, thì phải là tất cả. Thử tưởng tượng cả trăm ngàn
con người khác nhau trong một con người. Nói thế không phải là khuếch
đại đâu, trong suốt cuộc đời ta đã có hằng triệu tư tưởng, ý nghĩ, cảm giác,
quan điểm, phản ứng khác nhau, đó là chỉ một cuộc đời. Nếu ta chọn làm tất
cả thì cuộc đời ta sẽ phức tạp, đau khổ hơn nếu ta không là ai trong họ cả.
Vậy thì tại sao không chọn cái không?
Kiến tánh không dung chứa Ngã chấp. Tại sao? Vì ‘cái Tôi’ muốn hiện
hữu. Muốn được là gì đó. Là gì? Là ai? Ở đâu? Để làm gì? Tất cả chỉ là các
quan điểm, được điều kiện hóa qua quá trình tư duy của ta. Khi ta không
chấp vào bất cứ điều gì, an lạc sẽ đến với ta. Ta hạnh phúc trong sự biết
chấp nhận. Không có gì cần được hòan thành, tạo tác hay thay đổi. Tất cả
đều như tự thể của chúng.
Bốn mức độ của niềm vui khởi đi từ ngũ dục đến kiến tánh là một quá
trình thanh tịnh hóa liên tục. Tất cả chỉ có thể chứng nghiệm bằng kinh
nghiệm của bản thân. Vì lẻ đó sự tu tập cho đời sống nội tâm phải được ưu
tiên. Ta không thể lơ là, chểnh mãng dù đang ở đâu, làm gì: ở bãi biển,
trong thiền viện, đang lái xe, hay ở trên máy bay. Không được ngơi nghỉ.
Để thoát ra khỏi ngũ dục, ta cần tập nghĩ đến việc phục vụ cho người khác
trước tiên. Nghĩa là tu tập từ bi. Phúc vụ cho người khác nghĩa là tập quên
mình. Phục vụ người khác có thể bằng nhiều hình thức. Giúp người rửa tay
chân hay giúp người tu thiền, cũng là phục vụ, không có gì khác nhau. Phục
vụ là lòng từ. Từ tâm là phục vụ. Tâm định có được là nhờ lòng từ. Một
trong mười một điều lợi ích khi có từ tâm là tâm ta sẽ vào định dễ dàng.
Không nên coi định như là một mục đích, cứu cánh của ta. Đó chỉ là
phương tiện. Phương tiện nuôi dưỡng tâm để quán sát thực tại. Có hai loại
thực tại: tương đối và tuyệt đối. Ai cũng biết thực tại tương đối. Trong đó
có đàn ông, đàn bà, trẻ, già, giàu, nghèo, ngu, khôn. Có thú vật, cây cỏ,
bông hoa, trăng sao, thiên đàng và tất cả những thứ mà ta nghĩ sẽ mang lại
cho ta hạnh phúc. Trong thực tại tuyệt đối, không có gì giống như thế. Chỉ
có các bản thể vật chất của những thứ tạo ra bởi tâm. Tất cả chỉ có thế.
Không có cái gọi là ‘tôi’, là ‘anh’. Không có gì -chỉ có bản thể sự vật luôn
biến đổi. Ngay đến vũ trự quanh ta cũng thay đổi. Và chúng ta cũng thế.
Tâm định, an lạc, hạnh phúc là tâm có thể chấp nhận được thế giới luôn
biến đổi nầy và xử đụng nó như thế nào để có ích. Tâm không ổn định sẽ
không thể chấp nhận những việc bất như ý, họ nói: “Nhưng tôi muốn được
hạnh phúc, sung sướng”. Đó là tâm của đa số chúng sanh. Tâm luôn an lạc
không phụ thuộc vào ngoại giới, là tâm có thể nói: “Đây là sự giải thoát ra
khỏi những khổ đau. Đây là hạnh phúc thực sự”. Tâm đó sẽ nhìn rõ được
thực tại tuyệt đối của tất cả những gì đang xảy ra trên thế giới, không phải
bám víu, nương tựa vào bất cứ điều gì, không phải trở thành gì, hay là gì đó
trong đời. Tâm chỉ làm những gì cần thiết phải làm ở một thời điểm nào đó,
rồi buông xả.
Niềm vui kiến tánh không phải là sự tưng bừng, oà vỡ. Đó là thứ hạnh
phúc chứa đựng sự bình an, không phải có được do tham cầu, mong ước.
Khi không còn vọng tưởng, tâm chân thật sẽ nhận biết được điều đó.
---o0o---
                  Chương 10 - Ngũ Uẩn
Khi mới bắt đầu hành thiền, ai cũng rất phấn khởi. “Tôi sẽ thực tập thiền
thật tốt kể từ hôm nay”. Sau vài ngày, khi đã quen quen, thì tâm bắt đầu suy
nghĩ: “Không biết tu tập đến chừng nào đây? Biết bao giờ mới chấm dứt?”
Nó sẽ chấm dứt, tôi bảo đảm với bạn, vì mọi thứ đều phải chấm dứt. Không
có gì vĩnh cữu.
Khi tâm bắt đầu bàn ra, ta cần nhận biết điều đó để tự nhủ: “À, tâm lại sắp
dở trò gì đây?” Đừng nghe theo nó. Ta đã không nghe nó khi đang tọa thiền
thì tại sao lại phải nghe nó lúc khác. Có toạ thiền hay không, tâm cũng thích
đùa cợt ta.
Mỗi khi tâm nói những lời như :”Tôi bỏ cuộc. Tôi sẽ chẳng bao giờ có thể
giác ngộ” hay “Tôi tiến bộ quá rồi, tôi có thể nghĩ xã hơi”, thì ta phải trấn an
tâm bằng: “Hãy im đi. Tôi đang hành thiền đây”. Vấn đề là ta phải có quyết
tâm, kiên định, là một trong mười điều thiện. Không có lòng quyết tâm, ta
sẽ chẳng đi tới đâu cả.
Không chỉ vậy, tâm còn biết bao điều khác để nói. Không được hưởng dục
lạc tâm muốn được tiêu khiển bằng những trò chơi khác. Nó vẫn thường
được giúp vui, bằng bao nhiêu trò hấp dẫn. Nó thường được chuyện trò, đi
đó đi đây, xem bao nhiêu cảnh lạ, đi mua sắm, chọn lựa những thứ nó ưa
thích. Nó thường được gặp, làm quen với bao nhiêu bạn bè mới. Còn ở đây,
toàn những khuôn mặt quen củ. Không có gì mới lạ. Không có gì đáng bàn
cải, thảo luận. Nó thường được thưởng thức bao nhiêu thức ăn ngon và có
quyền chọn lựa món mình thích. Còn ở đây, chi những gì được dọn lên.
Tất cả những thứ nầy đều làm tâm bực dọc, vì nó vẫn từng được mọi thứ
nó muốn. Cái Tôi nói: “Tôi muốn làm theo ý tôi, không theo ý ai cả”.
Chúng ta đã quá quen suy nghĩ nhu thế đến nổi ta chẳng bao giờ ngừng lại
đề suy xét về thái độ nầy. Nếu biết suy xét ta đã thấy rằng: đó là lòng ham
muốn, tham đắm. Chính lòng ham muốn đó sẽ đưa chúng ta đến khổ đau.
Không thể khác hơn được.
Khi tâm bắt đầu ‘dở chứng’, ta phải biết cách đối trị tâm. Hãy làm bà mẹ.
Để nói với tâm, như một đứa trẻ đang quấy, rằng bạn chỉ muốn điều tốt lành
cho tâm, muốn bảo vệ tâm và bạn biết điều gì tốt cho nó. Hãy vừa làm
người mẹ, vừa là đứa con. Thông thường ta là năm mươi hay cả trăm con
người khác nhau. Nghĩ tốt, nghĩ xấu, thương người nầy, ghét kẻ kia, tạo bao
lăng xăng lộn xộn bên trong. Và ở đây cũng vậy, ta là mẹ, mà cũng là con.
Đứa con muốn tất cả mọi thứ phải chiều theo ý nó, và người mẹ khuyên lơn:
“Không. Ta phải làm cách gì tốt nhất, không hẳn là dễ chịu nhất, nhưng
khôn ngoan nhất”.
Lý do tại sao có những khó khăn nầy đã được Đức Phật giải thích do sự
bám víu vào ngũ uẩn của chúng ta. Là những gì ta đã được cấu tạo thành.
Ngũ uẩn ở trong chúng ta. Nhưng ta vẽ vời thêm cho chúng. Rồi tin vào
những điều đó như thật theo như ý muốn của tâm.
1. THÂN (Sắc)
Cơ quan lớn nhất, dễ nhận thấy nhất của ngũ uẩn là Thân (sắc). Không ai
không có, và không ai không khổ vì nó, không lúc nầy thì lúc khác. “Tôi
không ngồi được. Đầu gối tôi đau. Lưng tôi mỏi. Bụng tôi khó chịu. Tôi
chóng mặt. Tôi mệt mỏi”.
Đức Phật nói kẻ không giác ngộ, không tu tập có hai mủi tên làm đau hắn,
và người giác ngộ, tu tập thì chỉ có một. Hai mủi tên đó là thân và tâm, và
một mủi tên là thân. Đức Phật thỉnh thoảng cũng có bịnh nhưng Ngài vẫn
tiếp tục thuyết pháp. Bịnh hoạn không cản trở được Ngài. Cuối đời, Ngài
bịnh rất nặng, khi sắp sửa ra đi, Ngài nhập thiền định, rồi tịch.
Các đấng Giác ngộ, có tu tập cũng không thoát ra khỏi cái khổ do thân gây
ra. Thân không hoàn toàn và luôn bất như ý. Đối với người không biết tu
khi bị bịnh, bị ảnh hưởng bởi căn bịnh, tâm họ phản ứng bằng cách kêu lên:
“Tôi không khoẻ. Tôi không thể làm được điều nầy, điều kia vì bịnh; cơ thể
tôi đau nhức quá tôi không ngồi, nằm hay đứng được” hoặc bất cứ thứ gì đã
làm họ đau đớn. Tệ hại nhất là khi ta phải thay đổi tất cả các sinh hoạt của
mình theo sự đòi hỏi của thân. Có sự thay đổi nào rồi làm vừa lòng thân
không? Có ai đã tìm ra phương cách gì để thân luôn cảm thấy thoải mái
không? Bạn có thể di chuyển nơi nầy, nơi nọ, thay đổi khí hậu, dời từ ghế
qua giường, từ giường xuống đất, rồi trở lại ghế. Có gì thay đổi không? Tất
nhiên không. Lúc nào cũng có vấn đề. Nên tốt nhất là cứ ngồi yên trên gối
thiền.
Thân nầy, một trong năm uẩn, có đặc tính là vô thường, luôn thay đổi.
Không ai chối cãi điều nầy. Nhưng tính vô thường mang đến phiền não.
Nếu ta có thể ngồi thoải mái thì cũng năm hay mười phút sau là thân thấy
khác. Sự khó chịu, đau đớn lại phát sinh. Ngay như tối ngủ, nằm trên
giường êm, thân vẫn không chịu yên.
Vì thân mang tính cách vô thường, biến đổi nên luôn có sự va chạm. Sự
tuần hoàn của máu, chuyển động của phổi, tim, hơi thở -tất cả để duy trì sự
sống, nhưng mỗi chuyển động gây ra cọ xát, va chạm. Đâu có thể nào khác
hơn. Sự chuyển động gây ra những khó chịu nhỏ. Càng tỉnh thức, ta càng
nhận biết rõ hơn các cảm giác khó chịu đó. Ta càng nhận ra rằng khi nào
còn có thân là ta còn có khổ. Dần dần ta phải tập bỏ quên thân, không chạy
theo mọi đòi hỏi của nó. Vì thân luôn có những đòi hỏi mới. Khi đã no
bụng, nó đòi được bài tiết. Xong lại đòi ăn. Thân luôn đòi hỏi và không bao
giờ chịu thỏa mãn. Vì thân luôn thay đổi, nó cần cho vào, cho ra luôn, nếu
không nó không thể tồn tại.
Đức Phật luôn nhắc nhở chúng ta là con đường đi đến giải thoát là phải
biết quán sát thân với chánh niệm. Ngài nói, ai không biết quán sát thân
bằng chánh niệm sẽ không thóat khỏi vòng sanh tử. Điều đó khuyến khích
ta buông bỏ không chạy theo mọi đòi hỏi vô lý của thân, cũng như giúp ta
soi rọi lại tâm để thấy câu nói ‘Đây là thân tôi’ là vọng tưởng. Nếu thật sự
đây là ‘thân tôi’, nếu tôi thật sự là chủ thân nầy thì tại sao thân không làm
theo những điều tôi muốn nó làm? Sao nó không luôn trẻ đẹp, mạnh khỏe?
Ngay cả khi trẻ đẹp, mạnh khỏe, tại sao thân có những đòi hỏi ta không thể
thỏa mãn được như luôn muốn được thoải mái? Tại sao nó chết khi ta còn
muốn sống?
Cho nên hoặc là tất cả đều đảo lộn, hai là ta đã có những quan niệm sai
lầm trong tâm về thân, Ngã, và sự sống chết. Chúng ta ai cũng tin tưởng
mãnh liệt rằng thân nầy là của ta. Nhưng ta chẳng có thể làm được gì với
thân ngoài việc luôn phải thỏa mãn các đòi hỏi của nó. Cho nó vào giường
khi nó mệt, cho ăn khi nó đói, cho uống khi nó khát vân vân. Ta bám theo
các đòi hỏi của thân mà không thật sự làm chủ nó. Chánh niệm giúp ta chú
tâm vào các chuyển động của thân, các đặc tính của thân, để dần dần nhận rõ
ra rằng thân chỉ là một tổ hợp của nhiều thứ mà khi nào còn có sự sống,
chúng còn hợp tác nhau làm việc. Sự hợp tác của các thành phần nầy cũng
không phải là luôn ăn khớp, nếu không ta đã không cảm thấy đau nhức chỗ
nầy, chỗ nọ, và sự hợp tác đó cũng chỉ kéo dài một khỏang thời gian nào đó
thôi.
Ta gọi thân nầy là ‘của tôi’, tạo ra ảo tưởng của Ngã. Chúng ta nghĩ là
“Tôi biết tôi ra sao mà. Khi nhìn vào gương, tôi thấy ‘tôi’ và tôi biết ‘tôi’”.
Vậy mà nếu ta quan sát kỷ hơn, ta sẽ thấy có cả ngàn ‘cái tôi’, đủ kích cỡ,
màu sắc. Đôi khi mập hơn, đôi khi ốm hơn, trước thấp, sau cao, tóc đen rồi
tóc trắng, lúc đau khổ, lúc mừng vui. Vậy thì câu hỏi sẽ là “Cái nào là tôi?”
Nếu câu trã lời là “Tôi là tất cả những người khác nhau đó”, thì ít nhất ta
cũng nhận ra rằng mình không phải là một, mà có thể là hằng trăm ngàn
người như đã nói trước đây. Ai trong số cả trăm ngàn người đó thực sự là
tôi? Phải có một người nào đó thực sự để duy trì ‘cái tôi’. Không thể một
người mà là hằng trăm ngàn người khác có phải không?
Chúng ta có thể nghĩ: “Tôi sẽ chọn ‘tôi’ ở ngay lúc nầy.” Nhưng còn
những giây phút sau đó thì sao? Mười năm sau thì thế nào? Luôn luôn ở
giây phút hiện tại, đó là tôi. Cuối cùng với cái tôi luôn thay đổi ta trở thành
khó nhận diện nổi. Vậy mà ta cứ nghĩ thân nầy là của tôi, và coi nó quan
trọng xiết bao. Tất nhiên là ta phải chăm sóc thân nầy. Nếu không ta có
khác nào kẻ khờ. Nhưng để thân làm chủ cuộc đời ta thì thật vô vọng, vì
thân chẳng bao giờ biết thỏa mãn. Cho tới giờ lâm chung, thân luôn đòi hỏi
sự thoải mái. Trong các bài thuyết giảng về nền tảng của Chánh niệm, Đức
Phật có nhắc đến một số phương pháp thiền định có thể giúp ta buông bỏ sự
bám víu vào thân, ảo tưởng chấp Ngã.
Phải có sự hài hòa giữa sự bình an và trí tuệ. Trí tuệ là điều tiên quyết và
có thể đạt được vô điều kiện. Sự bình an sẽ phát sinh khi ta có khả năng chú
tâm. Nếu vì lý do gì đó, thân không thể ngồi yên, thì sự bình an, tĩnh lặng
cũng biến mất vì trí tuệ đã không phát sinh. Trí tuệ về thân phải là một
phần, là trang bị của con đường tâm linh.
Cách quán thân Đức Phật đã dạy chúng ta trong các bài giảng về chánh
niệm gọi là quán thây ma hay cách quán về cái chết của chính mình. Ai rồi
cũng phải chết, nên tốt nhất là chúng ta nên chấp nhận nó ngay từ bây giờ,
chứ đừng đợi đến khi nó xảy ra. Hôm nay có thể ta còn thấy sợ hãi mỗi khi
tim ta đập sai nhịp hay khi ta cảm thấy không được khoẻ mạnh như hồi còn
trẻ. Một trong những cách quán về sự chết là tự nhìn mình như là một bộ
xương. Hãy tưởng tượng ra một bộ xương đang ngồi trong tư thế tọa
Thiền. Kế tiếp lấy từ bộ xương ra những mãnh xương nhỏ xếp từng cái bên
nhau. Hãy để bộ xương tan rả thành cát bụi. Phép quán nầy làm tan đi
những vọng tưởng về ngã và sự bám víu vào thân xác nầy.
Một trong những yếu điểm của ta là lòng ưa thích được thoải mái tấm
thân. Chúng ta không dám thức khuya vì sợ nó mệt. Lo bảo vệ nó khỏi
muỗi mòng, khỏi thời tiết nóng lạnh, khỏi tất cả những gì có thể gây cho
thân sự khó chịu. Chúng ta luôn bận rộn bảo vệ thân và mất quá nhiều thì
giờ quý báu cho việc nầy.
Biết về cái chết là một chuyện, những có thể tưởng tượng ra cái chết của
chính mình trong đầu và chấp nhận nó với tinh thần xả bỏ là một chuyện
khác nữa. Hãy thử phép quán nầy trong lần tọa Thiền tới. Hãy quan sát cái
chết của mình, và ghi nhận các phản ứng của mình. Có thể phản ứng đầu
tiên sẽ là: “Không, tôi không thể thực hiện được, tôi không muốn làm điều
đó”. Hãy cố gắùng lên. Các bài giảng căn bản về chánh niệm nổi tiếng vì
nó giúp ta đạt được trạng thái không còn sanh tử, gọi là giải thoát. Phần
đông chúng ta thực hành Thiền quán vì ta cần tìm sự an bình, tĩnh lặng. Vì
ta muốn trốn chạy những phiền não, tìm niềm vui trong Thiền định. Tốt
thôi. Nhưng đó chỉ là một khía cạnh của Pháp. Đức Phật gọi đó là ‘hạnh
phúc thường hằng’, do những điều kiện thuận lợi mang tới. Tuy nhiên có
nhiều người không thể ngồi Thiền do những điều kiện của thân thể không
cho phép. Có người đã bỏ cuộc ra về, vì tâm họ không chịu được sự khó
chịu của thân. Tất cả chúng ta đều có thể phản ứng nhưthế. Hãy cẩn thận
trước khi nó xảy ra, và sửa đổi bằng cách nhìn thân đúng hơn.
2. THỌ
Kế tiếp là thọ uẩn, gồm các các cảm giác vui buồn của chúng ta. Thọ uẩn
cũng góp phần quan trọng vào việc tạo ra ảo tưởng về cái Tôi, vì chúng ta
thường nghĩ rằng các cảm giác là Ta. Tôi cảm thấy vui, tôi cảm thấy buồn,
thấy bình an, thấy bất an. Tuy nhiên, nếu chúng là của ta, thì sao ta không
có quyền hạn gì đối với chúng cả? Sao ta không thể lúc nào cũng được vui,
được hạnh phúc? Tại sao không? Ai là người có quyền quyết định sự vui
buồn của ta?
Aỏ tưởng về Ngã chấp phát sinh vì ta tin rằng thân nầy, các cảm thọ nầy là
của ta. Tuy nhiên, khi thật sự quán xét về chúng, ta thấy rằng ta chẳng có
quyền hạn gì với chúng cả. Mọi việc chỉ xảy ra như thế. Thì sao ta lại nghĩ
chúng là ta? Khi có cảm giác khó chịu, buồn khổ, bực bội, tuyệt vọng thì ta
trở nên khó chịu, buồn bực, chán nản, tuyệt vọng. Chúng ta phản ứng bằng
cách đeo bám vào các cảm thọ, thay vì chỉ nhận biết là chúng đã dấy khởi,
rồi chúng sẽ qua đi như tất cả mọi cảm thọ khác.
Ngay giây phút ta có thể bỏ qua, không chú tâm đến các cảm thọ vui buồn,
chán nản, tưởng chừng không thể chịu đựng được, thì chúng sẽ biến mất,
qua đi. Nhưng thay vì thế, ta lại tin rằng những cảm thọ nầy sẽ ở lại với ta,
để bị chúng lôi cuốn theo. Khi cảm giác sân giận dấy khởi, ta trở nên sân
giận, thay vì chỉ nói: “À, đúng rồi, đó là cảm giác giận hờn. Nó sẽ qua thôi.
Tôi sẽ không để ý đến nó”. Sẽ không có gì tạo ra cái Tôi, nếu như không có
niềm tin rằng: “Thân nầy là tôi. Các cảm giác nầy là tôi”.
3. TƯỞNG
Kế tiếp là Tưởng, có nhiệm vụ cho ta biết về các sự vật. Khi mắt nhìn
thấy vật gì, nó chỉ có thể nhận ra hình dáng, màu sắc. Mắt chỉ có thể thấy là
vật đó vuông, trắng ở phía trước, phía sau đen. Nhưng vì ta đã nhìn thấy vật
đó nhiều lần trước đây, ta biết đó là cái đồng hồ. Lúc đó trong đầu ta sẽ nói
‘đồng hồ’, rồi nó tiếp theo, “không biết đó là đồng hồ nội hay ngoại. Có thể
là ngoại, ở Úc chăng? Không biết bên đó giá bao nhiêu?” Đó là sự đối thọai
của tâm. Nhưng nếu đó là một em bé ba tuổi, thì em không thể biết đó là
cái đồng hồ, mà tưởng rằng đó chỉ là một món đồ chơi. Là những thứ em
bé đã quen thuộc. Đó là cái Tưởng của bé về chiếc đồng hồ.
Thị giác chỉ nhìn thấy hình thể, màu sắc, nhưng chính là cái Tưởng có
những điều kiện của ký ức cho ta biết việc nầy, việc nọ. Người không có
đồng hồ, sẽ có thể nghĩ: “Tôi muốn có một cái như thế”. Trong khi người
có cái tốt hơn, sẽ có thể nghĩ: “Cái của tôi giá trị hơn nhiều”. Ngã chấp lập
tức dấy khởi, khẳng định lòng ham muốn, hay cảm giác hơn người. Trên
thực tế, tất cả chúng ta đều thấy một cái hộp vuông, trắng ở phía trước, phía
sau đen. Nhưng vì ảo tưởng về cái Tôi, các điều kiện hóa cái Tưởng đã tạo
ra một quá trình tư duy làm ta tin rằng thế nầy, thế nọ. Vì chưa bao giờ mổ
xẻ, quán sát sự suy tưởng của mình, ta tin vào đó. Sự tin tưởng đó càng nuôi
dưỡng thêm lòng chấp Ngã. Lúc nào ta cũng suy nghĩ vì ta cần nuôi dưỡng
ảo tưỡng về cái Ngã của mình. Tự Ngã rất mong manh, nó sẽ ngã đổ nếu
không có sự tiếp sức của ta. Khi chúng ta luôn thỏa mãn những đòi hỏi của
thân, vàø trở thành các cảm thọ để nâng đỡ cho ảo tưởng về Ngã. Nhưng
nếu chúng ta có thể quán xét các cảm thọ và nói rằng: “Đó chỉ là một cảm
thọ”, thì ngã chấp đã không được tăng trưởng.
Tự Ngã luôn cần được nâng đỡ vì nó không có thật. Ta không cần phải
luôn nói: “Đây là cái nhà. Đây là cái nhà to. Đây là cái nhà cũ”. Điều đó
quá rõ ràng. Vì cái nhà có thật. Nhưng tự Ngã thì không, do đó nó cần sự
khẳng định về nó luôn luôn. Sự ủng hộ nầy do quá trình tư duy, cộng thêm
các giác quan, các cảm giác được thương, được yêu, và cái Tưởng của ta
mang đến.
4. HÀNH
Hành được coi là nguyên nhân của nghiệp. Hành tạo ra nghiệp. Ngay
giây phút ta có tư tưởng, suy nghĩ, ta đang tạo ra nghiệp của mình. Nếu như
ai đó thấy chiếc đồng hồ và nói: “Đó là cái đồng hồ, tôi không có, ước chi
tôi có một cái”, lúc đó nghiệp đã tạo hình, đó là nghiệp tham ái. Hay có
người nói: “Cái đó đẹp quá. Của tôi không đẹp bằng”. Đó là nghiệp ganh
tỵ. Ngay khi tư tưởng dấy khởi, thì một nghiệp nào đó liền được tạo hình.
Có nghiêp trung tính. Không có ảnh hưởng gì. Như khi người ta nói: “À, đó
là cái đồng hồ”, đó là một nhận xét khách quan. Nhưng phần đông chúng ta
đều tạo nghiệp lành hay nghiệp ác. Nếu thấy một màu sắc nào đó, ta có thể
nói: “Tôi sẽ sơn nhà tôi cũng màu đó”, đó có thể là trung tính, không lành,
không ác. Nhưng đằng sau đó, có thể ta đã có một ý muốn có được cái nhà
đẹp hơn hàng xóm. Thì đó không phải là nghiệp lành.
Khi ta tin vào tất cả những gì đi qua tâm trí mình, là ta đã vô tình nuôi
dưỡng thêm lòng chấp Ngã. Vì lẽ đó khi toạ Thiền, ta khó dẹp bỏ hết mọi
suy nghĩ. Vì làm thế thì sự nâng đỡ cho tự Ngã không còn. Ngay như khi
ta có thể ngưng suy nghĩ trong chốc lát, và có được sự an bình, tĩnh lặng, lập
tức tư tưởng quay trở về: “Cái gì vậy? Ồ, cảm giác dễ chịu quá”. Vậy là sự
chú tâm của ta bị gián đoạn, lại phải bắt đầu trở lại. Vì ta suy nghĩ không
ngừng, nghiệp của ta cũng được tạo tác liên tục. Nào là phán đoán, quyết
định, bám víu, xô đuổi. Chỉ có tâm chánh niệm từng giây phút mới có thể
giúp ta quán xét đúng. Lúc đó ta sẽ có thể biết mình đang làm gì, và không
cần phải tin vào tất cả những gì trong đầu ta. Trong khi tham Thiền, ta có
thể thấy là hầu hết những suy nghĩ của ta đều không chính đáng. Có thể
chúng quá xưa cũ, đã qua rồi hay chưa xảy đến. Hay chỉ thuần là tưởng
tượng. Phần lớn các tư tưởng đi qua trong đầu thật sự không dính dáng với
những gì ở quanh ta. Tâm ta chỉ chờ có chất xúc tác nào đó, là bám lấy để
giở trò đùa với chúng ta.
5. THỨC
Uẩn cuối cùng là Thức, tức sự cảm nhận của các giác quan. Là sự xúc
chạm của các giác quan. Mắt, vật thể và thị giác, tạo nên cái nhìn. Tai, âm
thanh và cảm nhận của tai, tất cả tạo nên cái nghe, v.v... Chúng ta luôn sử
dụng các giác quan. Ngay bây giờ, các bạn đang sử dụng thính giác, thị
giác, xúc giác và tâm thức. Thị giác giúp bạn quan sát sự vật quanh mình,
thính giác giúp bạn nghe được tôi nói, và xúc giác giúp bạn biết được vị trí
chỗ ngồi của mình, trong khi tâm giải mả những điều nó đã tiếp thu được.
Chúng ta luôn cố gắng tạo ra những điều kiện, trạng thái để các sự xúc chạm
sẽ đem đến cho ta sự dễ chịu. Nhưng chỉ hoài công. Khó thể có được những
cảm giác xúc chạm hoàn toàn dễ chịu. Qua các giác quan, lúc nào ta cũng
gặp phải sự đối kháng từ bên ngoài. Đó là cuộc đời của mọi chúng sanh hữu
tình, nhất là ở cõi giới của người. Thí dụ như khi có tiếng động lớn, ta
thuòng sợ hãi. Ngay với những thứ âm thanh dễ chịu, nhưng nếu ta phải tiếp
tục nghe chúng, ta cũng không thể chịu nổi.
Các giác quan không giống như ta nghĩ. Thực ra ta cũng không để ý đến
chúng, coi sự có mặt của chúng như là đương nhiên, và chỉ nghĩ đến các cảm
giác khoái lạc. Dĩ nhiên là ta có thể tìm được các cảm giác khoái lạc qua các
giác quan, nhưng ít ai nghĩ được rằng chính chúng đem lại đau khổ cho ta.
Chúng không ngừng thúc đẩy, áp lực ta từ mọi hướng, để tìm cảm giác
thoải mái cho chúng.
Đức Phật đã kể một ẩn dụ về thân, sự đòi hỏi không ngùng của nó và kết
quả khổ đau của nó. Một cặp vợ chồng đi qua sa mạc với đứa con nhỏ. Họ
không còn thúc ăn, nhưng cứ tiếp tục cuộc hành trình cho đến khi quá kiệt
súc, đói khát, họ không còn thể cất bướùc. Cuối cùng, họ phải giết đứa con
để ăn thịt.
Thức thì được so sánh nhu một kẻ tù đày đang bị hai người bạn kéo vào lò
lửa. Cũng thế quá trình tư duy của ta, dầu tốt hay xấu, cũng kéo ta vào ngọn
lửa luân hồi. Với các câu chuyện nầy, Đức Phật cho ta thấy đau khổ đã gắn
với kiếp con người, để ta cố gắng tu sửa để thoát ra khỏi vòng luân hồi sinh
tử. Chúng ta phải hiểu rằng không có ai là chủ của thân, của thọ, tuỏng,
hành, và thức. Đó là điều khó nhất trong giáo lý Phật giáo. Khó để hình
dung và khó để chứng nghiệm. Không có Thiền quán, điều đó sẽ mãi chỉ là
một sự thực tập có tính cách trí tuệ.
---o0o---
             Chương 11 - Muời Điều Thiện
Bố thí, Giới hạnh, với Xuất ly
Trí tuệ, Tinh tấn nữa là năm
Nhẫn, Chân, Kiên định, Từ bi,
Và Xả bỏ nữa là mười.
(Lời Phật dạy
Buddhavamsa II, Kệ 76)
Muốn tu Thiền, hành giả cần có ba đức tính: độ lượng, đức hạnh và từ tâm.
Nhưng cuộc sống tâm linh cao đẹp còn cần đến những đức hạnh khác nữa và
chúng cũng cần được vun trồng.
Những đức hạnh nầy là Paramis (Parama) có nghĩa là tối thượng (ba la
mật), là bản tánh chân thật đã có sẳn trong chúng ta. Nếu không, có khác
nào ta vun trồng từ mãnh đất hoang. Vì chúng đã có sẳn trong ta, ta có thể
bắt đầu từ đó. Tuy nhiên nếu ta không có ý muốn thực hành những điều
thiện nầy, ta sẽ không có được tâm mạnh mẽ và ổn định, là điều tối cần để
làm chủ nghiệp mình. Chúng ta luôn phải dựa vào tình cảm và lòng tốt của
người khác, phải dựa vào môi trường chung quanh và sự thoải mái của thân.
Chừng nào chúng ta còn phải dựa vào một hay tất cả những thứ kể trên, là ta
còn phải nô lệ chúng. Mà phải sống kiếp nô lệ thì chẳng thú vị gì. Phải luôn
sống trong sự sợ hãi. Dĩ nhiên, ai cũng có những nỗisợ hãi, nhưng phải tùy
thuộc vào người khác, hay hoàn cảnh, thì không thể có được sự tự do suy
nghĩ hay hành động. Những thứ tự do sẽ giúp chúng ta được giải thoát. Nói
như thế không có nghĩa là chúng ta muốn làm gì cũng được. Tự do tư tưởng
có nghĩa là ta có những suy nghĩ độc lập, cá biệt và có thể tự quyết định
hành động của mình.
1. BỐ THÍ
Điều thiện đầu tiên ta cần bắt đầu là bố thí, chìa khóa mở mọi cánh cửa.
Không có nghĩa là những đức hạnh khác kém quan trọng, nhưng nếu lòng bố
thí không được vun trồng, thì con đường tiến đến một đời sống đạo đức khó
thể khai thông. Chúng ta phải bắt đầu cuộc hành trình và đó là bước đầu
tiên, là đức hạnh đầu tiên ta cần phải có.
Đức Phật nói về ba loại bố thí: loại cho người ăn xin, loại cho bằng hữu và
loại vương tước. Loại bố thí cho người ăn xin là khi ta bố thí những thứ ta
không cần đến --những thứ khi dọn dẹp nhà cửa, ta cần vứt đi. Bố thí những
thứ nầy, dầu có tốt hơn là không bố thí, nhưng không được rộng rãi lắm, vì
ta không làm giảm bớt những tham muốn và bám víu của mình.
Loại bố thí thứ hai là khi ta chia sẽ những gì ta có với người quanh ta. Ta
bố thí có chừng mực, bố thí phần này và giữ lại phần khác.
Loại bố thí vương tước là khi ta cho nhiều hơn ta giữ lại. Rất hiếm thấy,
có phải không? Phần đông chúng ta không làm thế.
Bố thí cần phải có động lực chính đáng. Nếu ta bố thí vì muốn đánh đổi
lại một thứ gì đó --lợi lộc, lời khen tặng, lòng biết ơn-- thì sẽ chẳng ích lợi
gì. Điều nầy nghe có vẻ nghịch lý: Bố thí không phải để được nhận trả lại
điều gì đó. Bố thí chỉ vì ta muốn bố thí. Nhưng nếu suy xét kỹ, ta sẽ thấy sự
thật rất rõ ràng. Nếu ta bố thí chỉ vì muốn bố thí, ta chắc chắn sẽ được hạnh
phúc, vui vẻ, tâm an bình và sung sướng. Người ta có thể bố thí vì cảm thấy
mình dư dả. Hay vì muốn chia sẽ với người khác sự sung túc, giàu có của
mình. Hoặc bố thí vì lòng từ bi đối với người khác. Đức Phật bố thì vì lòng
từ bi đối với chúng sanh.
Bố thí không chỉ bằng tài vật. Không phải ai cũng có của cải vật chất để
ban phát, dầu phần lớn đều có khả năng đó. Thật ra phần đông chúng ta
không nhớ mình có gì nữa, cho đến khi phải dọn nhà, lúc đó ta mới thấy
mình có quá nhiều. Chúng ta có quá nhiều những đồ dùng trong nhà đến nổi
ta có thể cho bớt đi mà vẫn không thấy thiếu thốn. Nhưng của cải không
phải là thứ duy nhất ta có thể san sẻ. Ta có thể chia sẻ thời gian, sự quan
tâm, chăm sóc của mình cũng như chia sẻ tài năng, khả năng của mình. Đó
là mặt quan trọng của bố thí, và sự bố thí nầy được chính phủ cũng như các
cơ quan từ thiện thực hành rộng rãi. Chỉ có một điều là với những hình thức
từ thiện nầy, đôi khi người trực tiếp làm các công tác nầy chỉ làm vì đồng
lương chứ không vì lòng từ bi thật sự, nên công việc làm của họ có tính cách
thương mại. Nhưng nếu ta bố thí khả năng, tài năng của mình mà không
nghĩ gì đến việc được trả ơn thì ta bố thí vì lòng từ. Đức Phật đã bố thí Pháp
với lòng thương xót chúng sanh.
Bố thí không chỉ có đi mà cũng có lại. Ta càng bố thí vì lòng từ bi, lòng từ
bi trong ta càng tăng trưởng. Điều nầy cũng dễ hiểu thôi, nhưng ít ai nghĩ
đến. Có người bố thí để được người khác tử tế lại với mình. Nhưng nếu ta
bố thí thật sự vì lòng tốt phát ra từ trái tim, thì rõ ràng ta phải có nhiều lòng
tốt hơn thế để ban phát cho người khác.
Tuy nhiên bố thí dù dưới hình thức nào cũng giúp ta bớt chấp ngã, và đó là
lý do tại sao bố thí được kể đầu tiên trong mười điều thiện mà ta cần vun
trồng, bảo vệ. Khi Đức Phật chưa thành đạo, đó là những đức tính Ngài
hoàn thiện và có bao nhiêu câu chuyện về các đức tính nầy của Đức Phật
trong quyển Jataka, chuyện từ các tiền kiếp của Đức Phật.
Lòng từ bi của bậc Bồ Tát còn đi xa hơn nữa, họ còn bố thí cả thân mình.
Hy sinh tánh mạng mình cho ai là cách bố thí cao cả nhất. Người tầm
thường như chúng ta khó mà làm nổi. Tuy nhiên có nhiều mức độ bố thí, mà
một sự bố thí dù nhỏ đến thế nào, cũng sẽ làm giảm bớt lòng chấp Ngã của
ta. Bố thí nhiều hơn sẽ làm giảm nhiều hơn nữa lòng chấp Ngã, nếu đằng
sau đó là những động lực chính đáng.
Làm giảm Ngã chấp là mục đích chính trên con đường thanh tịnh hóa, dần
dẫn ta đến kinh nghiệm của sự vô ngã. Ta không thể chỉ hy vọng, cầu
nguyện hay tưởng tượng mình sẽ được có kinh nghiệm đó, trừ khi ta bắt đầu
làm gì đó để thay đổi sự bám víu vào tự Ngã. Bằng cách nào? Bố thí là một
sự khởi đầu tuyệt vời.
2. GIỚI HẠNH
Kế đến là giới hạnh, liên quan đến việc giữ gìn năm giới. Đức hạnh nầy
nhằm làm giảm bớt và dần giúp ta chế ngự được lòng tham và sân. Làm
giảm bớt lòng sân tham cũng là một cách để làm giảm Ngã chấp vì sân tham
chỉ có thể phát sinh do có các ảo tưởng về Ngã.
Tất cả các Pháp của Đức Phật cũng là như thế. Đôi khi ta cảm thấy bối rối
trước các giáo lý của Đức Phật về sự giải thoát tâm linh. Nhưng các giáo lý
nầy giống như những mảnh rời của một bản hình xếp khổng lồ. Khi ta có
thể đặt một vài mảnh vào đúng vị trí của chúng, thì các mảnh còn lại sẽ được
an bài thôi. Tất cả Pháp đều nhắm đến việc trước tiên làm giảm lòng chấp
Ngã, rồi dần dần đến chỗ phá bỏ hoàn toàn ngã chấp, để đi đến Vô ngã.
Tuân giữ các giới luật là một phần của bức ảnh tổng thể đó. Khi chúng ta
không làm hại đến các sinh vật khác, thì lòng ta bớt sân hận. Ta chỉ có thể
làm hại hay hủy hoại những gì ta không thích. Khi ta không lấy những gì
không phải của mình, thì lòng tham được giảm xuống. Chỉ khi có lòng
tham, ta mới lấy của cải của người. Cũng thế đối với những sai phạm trong
tình dục. Aùc ngữ là do lòng tham hay sân mà ra. Các thứ độc hại như
rượu, ma túy là do lòng tham muốn thỏa mãn nhục dục mà những thứ nầy có
thể dễ dàng mang đến cho ta.
3. XUẤT LY
Xuất ly thường được nghĩ đến như một đức tính của riêng quý tăng ni, các
thầy yoga hay những người sống ẩn dật trong các hang núi, nhưng đó không
phải là một suy nghĩ hoàn toàn đúng. Xuất ly có nghĩa là buông xả những
ảo tưởng về tự Ngã. Nếu trong khi tọa Thiền ta không cố gắng phần nào làm
được như thế, thì ta khó mà đạt được Thiền định. Cái Ngã của ta thích được
nuông chiều, chú ý đến luôn. Khi bị bắt phải im lặng, và không được làm
điều gì thú vị, nó phản ứng lại dữ dội, và cố thoát ra khỏi tình trạng đó bằng
những việc làm như trò chuyện, đọc sách, mơ màng hay bất cứ thứ gì vừa
lòng nó. Trừ khi chúng ta có thể phá bỏ những thói quen nầy, việc tọa Thiền
của ta khó thể thành công.
Cũng thế, tất cả các thiện tánh đều giúp cho sự tọa thiền của ta. Chúng
nâng đỡ cột sống của ta. Thiền định cần có một cột sống vững mạnh, không
phải chỉ do ngồi thẳng, mà còn phải có tâm chánh niệm.
Muốn bước trên con đường tâm linh, ta cần phải biết xuất ly. Điều đó có
nghĩa là biết buông bỏ mọi ý niệm về cái tôi, mọi tham vọng, ước muốn của
cái tôi. Tất cả những suy nghĩ đó chỉ củng cố thêm lòng chấp ngã, đưa ta
đến chỗ sai lầm. Những gì ta nghĩ ta sở hữu -cái nhà ‘của tôi’, bàn ghế ‘của
tôi’, chồng ‘của tôi’, vợ ‘của tôi’, con cái ‘của tôi’, thân quyến ‘của tôi’, xe
‘của tôi’, nghề nghiệp ‘của tôi’, văn phòng ‘của tôi’, bạn bè ‘của tôi’ -làm
cho ‘cái tôi’ cảm thấy an toàn hơn vì tất cả hợp thành một hệ thống bảo vệ.
Tạo cho tự Ngã những ảo tưởng về một sự vững bền. Nhưng không có
người nào hay sở hữu nào thường hằng, vĩnh viễn cả, tất cả đều luôn biến
đổi.
Nếu thật sự có sự bền vững đó, thì cái nhà, cái xe càng to, càng có nhiều
bạn bè con cái, nhiều vợ, nhiều chồng, thì con người càng cảm thấy thêm an
tâm. Thực tế thì càng có nhiều những thứ kể trên, con người càng thêm
phiền não, lo âu. Thử tưởng tượng xem nếu ai đó có mười ông chồng hay bà
vợ thay vì một. Hãy dẹp bỏ ngay tư tưởng đó! Đó chỉ là một trong những tà
kiến về những gì có thể mang đến cho con người sự an tâm. Ta chỉ thích
bao bọc mình với những gì tạo nên ‘cái tôi’, ‘cái của tôi’. Tư duy của ta
khiến ta trở nên như thế, dầu rõ ràng ta không thể làm chủ ai khác được.
Con người có thể ra đi không định trước, có thể chọn lầm người phối ngẫu,
hay bỏ rơi nhau không lời từ giả. Mỗi người tự tạo ra nghiệp của họ. Vậy
mà ta vẫn gọi họ là ‘của tôi’, và thật sự tin rằng họ thuộc về chúng ta. Một
khi ta tin như thế, ta bám víu vào họ suốt đời. Họ phải lúc nào cũng là ‘của
tôi’. Đó là quá trình tự xác định cái Ngã với gia đình của chúng ta, với công
việc của chúng ta và với tất cả những sở hữu của chúng ta. Thay vì với chỉ
một ‘cái tôi’, giờ chúng ta bành trướng, bao gồm thêm nhiều người khác
nữa. Như thế chúng ta trở nên to lớn thêm.
Xuất ly sự xác định nầy là một bước quan trọng khởi đầu: chỉ khi nào ta có
thể tự đứng một mình, ta mới có thể thực sự tu tập theo con đường đạo.
Không có nghĩa là ta phải đuổi mọi người ra khỏi nhà. Nhưng khi ta còn tùy
thuộc vào ý kiến, hành động của người khác, thì làm sao ta có thể thực tập
cho sự tự do, giải thoát của chính mình? Không có sự dựa dẫm nầy, cái Tôi
sẽ trở về kích thước bình thường, của chỉ cái tôi, không có gì hơn. Như thế
dầu tự Ngã vẫn chưa được phá bỏ, nhưng ít nhất nó cũng nằm trong khả
năng chế ngự của ta. Một thân, một tâm, không sở hữu, không bám víu vào
bao nhiêu người, bao nhiêu thứ khác.
Ngay đối với một thiền sư, nếu vẫn muốn đạt được điều gì đó hay trở nên
thế nầy, thế nọ, thì cũng chỉ là một cách củng cố thêm Ngã chấp. Thay vì có
mặt trong giờ phút hiện tại, chánh niệm trong từng giây phút, ta muốn trở
nên, là một cái gì thuộc về tương lai. Có thể nói gì về tương lai chứ? Không
có gì. Tương lai thì hoàn toàn trống không. Nhưng có mặt, ngay trong hiện
tại, là điều ta có thể làm được với tất cả chánh niệm.
Trở nên, trở thành một thứ gì hơn chính chúng ta -một thiền sư đạt đạo,
một ông chủ có danh vọng, giàu có, được mến mộ -sẽ làm cho lòng chấp
Ngã của ta thêm nặng. Trở nên, trở thành không ích lợi gì, là như thế nào thì
ích lợi hơn. Lúc đó ta sẽ dễ đối trị ngã chấp hơn. Ta có thể chánh niệm về
sự có mặt đích thực của mình. Nhưng ta không thể chánh niệm về cái ta sẽ
trở thành. Nó không có thực. Nó chỉ là những giấc mơ ban ngày. Nó chỉ là
mơ ước và hy vọng. Nó là điều ta muốn xuất ly.
Trong quá trình xuất ly, ta có thể buông bỏ sở hữu, sự khẳng định của cái
tôi và các vọng tưởng. Nếu trong đời thường, ta không biết buông xả, thì ta
càng khó buông xả hơn trong Thiền. Khi Thiền định, ta phải buông xả tư
duy, ước vọng, mọi phán đoán, lòng mong muốn, cầu vọng, các dục lạc. Ta
phải biết buông bỏ, nếu ta muốn hành Thiền, vì thế ta cần phải thực tập sự
xả ly ở mọi lúc, mọi nơi. Không có nghĩa là ta phải vứt bỏ mọi sở hữu hay
xa lánh gia đình. Ta chỉ phải vứt bỏ tâm bám víu, sự khẳng định mình qua
những thứ đó.
Xuất ly có nhiều hình thái. Nó có thể là sự tự khắc kỷ như dậy sớm hơn
thường lệ, xả bỏ khuynh hướng muốn được hưởng thụ. Xuất ly cũng có
nghĩa không phải lúc nào muốn ăn thì ăn, mà phải chờ đến lúc thật sự đói.
Khi từ giả cuộc đời, ta phải buông bỏ mọi thứ. Ta không thể mang theo của
cải hay người thân mà ta coi là của chúng ta, cũng như không thể mang theo
thân của mình. Tốt hơn hết là ta nên hiểu về cái chết trước khi nó đến. Đó
là lý do tại sao người ta thường vật vã trước giờ ra đi. Một số ít người có thể
ra đi một cách bình thản, nhưng phần đông không thế, vì họ chưa sẳn sàng
để buông bỏ tất cả. Trước đó, họ chẳng bao giờ nghĩ đến giờ phút nầy.
Tất cả những gì ta bám víu vào là một trở ngại, một vật cản. Thí dụ như
nếu tôi cứ ôm mãi chiếc gối nầy, không chịu bỏ ra, thì tôi sẽ gặp trở ngại khi
bước ra cửa. Thực tế, ta thường bám víu vào người khác và điều đó cần phải
buông bỏ. Không có nghĩa là ta phải xua đuổi người khác. Nhưng có nghĩa
là ta phải đoạn diệt thái độ bám víu của ta với người khác, đó mới chính là
trở ngại lớn nhất. Nếu ta không sửa đổi theo hướng đó, việc hành Thiền của
ta cũng bị trở ngại thôi, vì ta cũng sẽ bám víu vào tư tưởng, hy vọng, ước
muốn của ta.
Chúng ta có thể vẫn ở trong căn nhà của mình, vẫn mặc quần áo đó, vẫn
không có gì thay đổi về hình dáng bề ngoài, nhưng bên trong ta đã xuất ly
được những dính mắc của mình. Không có nghĩa là ta không còn thương
yêu gia đình của mình nữa. Ngược lại, tình thương mà không có sự bám
víu, sở hữu là loại tình thương không có lòng sợ hãi, hoàn toàn thuần khiết.
Trong khi tình thương với lòng bám víu, sở hữu là một cực hình. Nó bao
gồm những làn sóng tình cảm và thường tạo nên những hàng rào kẻm gai vô
hình. Tình yêu thật sự là tình yêu không có sự sở hữu, được cho mà không
mong đợi một sự trả lại. Nó cho ta cảm giác có người đứng cận kề nhưng
không dựa vào ta.
4. TRÍ TUỆ
Muốn đi đúng hướng trong cuộc đời ta cần có nghiệp thiện kế tiếp là trí
tuệ. Bổ sung cho trí tuệ là đức tin. Đức tin và trí tuệ là hai đức tính không
thể tách rời.
Đức Phật đã so sánh Đức tin như một người khổng lồ mù với một gã nhỏ
bé, tàn tật với đôi mắt cực sáng là Trí tuệ. Đức tin đã nói với Trí tuệ rằng:
‘Tôi rất mạnh, nhưng tôi không thấy đường đi tới. Còn anh yếu đuối, nhưng
mắt anh thì tinh. Hãy đến ngồi lên vai tôi. Hai chúng ta hợp lại thì nơi nào
mà ta không đến được’. Lòng tin mù quáng có thể dời non, nhưng nó sẽ
không biết dời ngọn núi nào. Trí tuệ không thể thiếu để chỉ đường cho lòng
tin. Trí tuệ có đôi mắt nội tâm thật sáng suốt.
Trí tuệ là một đức tính khá đặc biệt, vì ta không thể đạt được trí tuệ nếu
không có tâm thanh tịnh.
Trí tuệ phát triển qua ba giai đoạn. Đầu tiên là sự học hỏi sẽ mang đến
kiến thức. Ta có thể có được kiến thức qua nhà trường, sách vở, và qua lời
nói của các bậc uyên thâm. Sau đó ta phải suy gẫm về những điều đã học
hỏi được để chúng trở thành một phần của nội tâm ta. Như khi thực phẩm
vào cơ thể ta, những gì cơ thể không sử dụng sẽ bị thải ra ngoài. Những thứ
khác sẽ được đưa vào máu, tạo ra năng lực. Cũng thế với kiến thức. Ta có
thể tiêu hóa kiến thức, thải bỏ những gì ta không cần đến và đưa những cái
bổ ích vào máu. Chúng sẽ dần dần chuyển đổi để tạo nên trí tuệ, cũng như
đồ ăn được tiêu hóa dần chuyển đổi thành nhiên liệu để giúp cơ thể sinh tồn.
Đây là sự chuyển đổi nội tâm và không đòi hỏi ta phải nghiền ngẫm, tiêu hóa
hàng tấn kiến thức. Nó không đòi hỏi số lượng, mà cần chất lượng, cũng
như đồ ăn vào cơ thể của ta vậy.
Suy gẫm, hấp thụ những điều ta học hỏi được trước khi tiêu hóa chúng.
Điều nầy đòi hỏi phải có tâm hành, đó là một phần quan trọng trong sự
trưởng thành, cũng như đồ ăn vật chất đúng chất lượng là yếu tố quan trọng
cho cơ thể tăng trưởng. Nếu không có sự hoạt động của nội tâm đối với
những điều Phật dạy, thì những điều đó vẫn là lời của Phật, của Tăng.
Chúng sẽ không bao giờ là của ta, dầu ta có lập đi, lập lại biết bao nhiêu lần.
Trừ khi ta nghiền ngẫm, hấp thụ, tiêu hóa được những điều ta đã học hỏi, ta
mới có thể chuyển đổi chúng thành trí tuệ nội tâm.
Càng có nhiều trí tuệ, ta càng dễ có một đời sống bình an không có nhiều
biến động lên xuống. Thiếu trí tuệ, ta sẽ thấy lúng túng, khó xử trước nhiều
hoàn cảnh. Đôi khi phải một thời gian sau ta mới thoát ra khỏi. Nếu có trí
tuệ ta đã không phải lâm vào cảnh khó xử đó rồi. Hơn nữa, nếu bên cạnh trí
tuệ còn có thêm lòng tin thì nó càng thêm sức mạnh. Lòng tin rộng lớn đầy
sức mạnh, không có gì có thể lay chuyển được. Cộng thêm đôi mắt sáng của
trí tuệ, chúng sẽ đưa ta đến đích cuối cùng.
Chỉ có trí tuệ, không có lòng tin, đôi khi đưa ta đến cái nhìn hai chiều. Đối
với vấn đề gì, thắc mắc gì ta cũng nhìn theo hai chiều. Nó không có sự gắn
bó bên trong như đối với lòng tin. Lòng tin không cần dựa vào một thứ gì ở
bên ngoài. Lòng tin mà dựa vào yếu tố bên ngoài nào đó, thì lòng tin đó
không bền vững, vì nó cần yếu tố đó để hiện hữu như một chứng minh,
không thể nghi ngờ gì. Không ai có quyền được nghi ngờ về những gì họ tin
vào. Lòng tin hữu hiệu nhất là lòng tin vào chính khả năng thành công của
mình. Thêm nữa, lòng tin có thể phát sinh khi ta đã chọn được con đường đi
đúng. Đó là niềm tin không thể lay chuyển vào Pháp, cộng với con mắt sáng
của trí tuệ.
5. TINH TẤN
Kế tiếp là năng lực hay tinh tấn, mà ta có thể so sánh với nhiên liệu để cho
máy chạy. Chúng ta phải tự chế ra nhiên liệu cho mình. Đó cũng là một
trong bảy yếu tố của Giác Ngộ, nên ta có thể thấy sự quan trọng của nó như
thế nào.
Năng lực có thể được sử dụng dưới nhiều hình thức. Người ta có thể bỏ ra
rất nhiều năng lực để trở thành một nhà tỷ phú hay để xây một ngôi nhà hay
để lợi dụng lòng tốt của ai. Tất cả những việc ta làm đều cần có năng lực.
Năng lực có thể khiến ta lăng xăng. Chạy từ việc nầy qua việc nọ, nghĩ
thứ nầy, thứ kia. Nó có thể mang ta từ nơi nầy của thế giới đến nơi khác, cố
tìm cho được cái gì có thể làm thỏa mãn nó. Nếu không sử dụng năng lực
đúng chổ, nó sẽ mang đến những hậu quả tiêu cực. Chính tự nó không toàn
diện. Nó chỉ là nhiên liệu, còn bổn phận của ta là tìm cho nó một chiếc xe
đúng loại.
Đức Phật đã nói về năm yếu tố tâm linh và so sánh chúng với một đoàn
ngựa kéo một toa xe với một con ngựa đầu đàn và hai cặp theo sau. Con
ngựa dẫn đầu là chánh niệm và nó có thể đi nhanh theo sức của nó. Nó
không cần phải cân xứng, chờ đợi ai. Chánh niệm là đầu đàn, là điều quan
trọng nhất. Không có nó, toa xe không thể đi tới. Nhưng hai cặp ngựa còn
lại phải cân xứng nhau. Cặp thứ nhất là năng lực phải cân xứng với chú
tâm.
Sự chú tâm giúp ta ổn định. Nhưng nếu chỉ có chú tâm mà không có năng
lực, sẽ khiến ta hôn trầm. Làm ta trở nên trơ đá, không xúc cảm. Loại chú
tâm nầy không ích lợi gì. Nó cần có năng lực để giữ thăng bằng. Nhưng có
năng lực mà không có chú tâm thì cũng vô ích vì nó có thể khiến ta quá lăng
xăng đến nổi, lúc nào ta cũng phải làm cái gì đó.
Năng lực phải có định huớng. Không lợi ích gì nếu chỉ đổ nhiên liệu vào
xe, nổ máy nhưng không biết phải đi đến đâu. Làm thế chỉ lãng phí nhiên
liệu thôi phải không? Trên thế giới việc khủng hoảng năng lượng cứ liên tục
xảy ra, vì thế thật đáng xấu hổ, nếu ta góp tay vào việc làm lãng phí nhiên
liệu, có phải không? Chúng ta cần phải biết rõ chiếc xe của ta cần đi về
hướng nào. Nó cần có một hướng đi duy nhất thôi. Thẳng tiến đến sự lớn
mạnh để đạt được sự tỉnh thức cao hơn, thậm sâu hơn.
Khi ta lớn lên cái nhìn của ta bao quát hơn. Khi đã đạt được sự trưởng
thành về trí tuệ và tâm linh, ta có thể nhìn mọi thứ như một người đứng trên
cao nhìn xuống, những gì xảy ra ở dưới đường không ảnh hưởng đến ta.
Dầu có lụt lội, hạn hán, động đất trên quả đất của ta, hay có đĩa bay trên
không trung, sự tỉnh thức của ta cũng không hề bị ảnh hưởng. Có cái nhìn
của con chim ở trên tầng không, ta có thể nhìn mọi vật một cách tổng quát
chứ không phải cá thể. Trong khi nếu ta ở phía dưới, tất cả những gì ta có
thể thấy được là căn phòng nầy.
Cũng thế đối với cái nhìn bên trong. Cái nhìn hạn hẹp chỉ có thế thấy
được cái gì ngay trước mắt nó: cái đau của thân, sự sợ hãi, lo lắng cho tương
lai, tiếc thương cho quá khứ, yêu, ghét người quanh ta. Ta chỉ có thể thấy
những thứ như thế vì cái nhìn không được phát triển. Nhưng khi cái nhìn đã
thay đổi, ta có thể thấy là đau khổ bao trùm mọi thứ, ta không còn phải lo âu,
sợ hãi nửa vì ta biết rằng tương lai và quá khứ là một. Chỉ có giây phút hiện
tại.
Năng lực cần phải nhằm đến một hướng, chăm chăm vào một việc mới
mong có kết quả. Chúng ta phải hao hụt một phần lớn năng lực tinh thần
trong Thiền định: năng lực duy nhất trong vũ trụ nầy. Tất cả mọi vật chất
chỉ là kết quả của năng lực tinh thần. Khi ta đã tu Thiền một thời gian, sự
tiêu tốn năng lực không còn làm ta mệt mỏi. Trái lại là khác. Ta cảm thấy
như hấp thụ được nguồn năng lực mới qua Thiền định.
Để làm chủ các bản năng, đòi hỏi phải có năng lực. Sống theo bản năng là
cuộc sống của loài thú. Con người hơn loài thú vì có khả năng tư duy, vậy
mà ta vẫn bắt gặp không ít những phản ứng có tính cách bản năng ở bản thân
và ở người. Vì bản tính của con người là phản ứng theo bản năng, ta cần
phải có nhiều năng lực để chế ngự chúng. Những gì có vẻ tự nhiên đối với
ta -đến với ta một cách dễ dàng- là những cái ta cần chế ngự. Chỉ sống
buông trôi theo bản năng sẽ đem lại đau khổ cho ta. Chuyển đổi từ một
người tầm thường thành một người cao quý (ariya) là những bước đến với sự
giải thoát. Cần phải có nhiều năng lực để chế ngự cách sống theo bản năng
và phản ứng một cách tầm thường trần tục.
Tất cả những gì ta làm đều cần có năng lực. Sự quyết tâm là bước khỏi
đầu, nhưng năng lực giúp ta tiến bước. Và ta chỉ có thể tiến bước không
chần chừ nếu ta biết rõ hướng đi của mình. Người có thể làm được như thế
là những người có thể đạt được nhiều thứ hơn người khác và luôn được
người khác ngưỡng mộ. Không có gì to tát cả. Họ chỉ là những người giỏi
điều khiển năng lực của mình.
6. KIÊN NHẪN
Kế tiếp là kiên nhẫn. Nếu trong cuộc sống hằng ngày, ta không có lòng
kiên nhẫn, ta sẽ luôn âu lo, khó thể an tâm. Ta sẽ cố làm những việc vô ích
với hy vọng thúc đẩy công việc của ta mau chóng có kết quả.
Sự thiếu kiên nhẫn chứng tỏ ta có tâm chấp Ngã vì ta muốn mọi việc xảy
ra theo như ta dự tính. Hơn nữa ta lại muốn chúng xảy ra vào khoảng thời
gian ta mong mỏi. Ta chỉ nghĩ đến những suy nghĩ, dự định của mình. Ta
quên là còn có nhiều yếu tố khác, nhiều nhân duyên liên hệ khác. Quên rằng
ta chỉ là một trong hằng tỉ người trên quả đất nầy, và quả đất nầy chỉ là một
chấm nhỏ trong tinh cầu, và còn có hằng ha sa số các tinh cầu khác nữa. Vì
tư lợi của mình, ta quên đi những điều ấy. Ta chỉ muốn mọi việc xảy ra theo
ý mình ngay lập tức. Khi mọi việc không xảy ra theo sự suy nghĩ, xếp đặt
của mình, người thiếu kiên nhẫn thường trở nên giận dữ. Đó là một vòng
tròn oái oăm của sự thiếu kiên nhẫn và sân hận.
Lòng kiên nhẫn có một giá trị nội tâm. Ta nhận thức được rằng ta có thể
dự tính nhưng kết quả không thể chắc chắn được. Đôi khi đó lại là một việc
tốt hay do nghiệp quả của ta. Ta cần phải biết chấp nhận những trở ngại
nầy. Nếu ta không thể chấp nhận những gì xảy ra trong cuộc đời mình, thì ta
càng thêm đau khổ. Ai cũng từng kinh qua đau khổ, nhưng khi ta không biết
chấp nhận, thì sự chống cự, phản kháng càng làm khổ đau tăng lên gấp bội.
Như khi ta đấm tay vào một vật cứng, tay ta sẽ bị đau. Nhưng nếu ta tựa tay
nhẹ nhàng vào cánh cửa hay bức tường ta sẽ không thấy đau. Phản kháng
hay mong muốn đều là nguồn gốc của khổ đau.
Người kiên nhẫn có cái nhìn tổng thể hơn, họ có thể nhìn thấy sự vật thay
đổi, chuyển động và trôi theo dòng chảy. Có những sự việc ngày hôm nay ta
thấy khó chấp nhận, thì ngày mai, hay tháng sau, năm sau, ta thấy chúng
cũng bình thường. Có những việc năm ngoái ta thấy quá cấp thiết, không
thể thiếu trong cuộc sống, thì hôm nay chúng không có ý nghĩa gì nữa với
ta. Suy nghĩ như thế giúp ta thản nhiên trước bất cứ việc gì có thể xảy ra.
Nếu sự việc xảy ra không như ta dự tính, ta cũng có thể nhìn chúng như một
phần của dòng đời lên xuống.
Những đức tính nầy chỉ có thể vun trồng trên mãnh đất mầu mỡ của nội
tâm. Nội tâm ẩn náo bên dưới sự ươm trồng của trí tuệ và năng lực cần thiết
để đi đúng hướng, trong khi kiên nhẫn và xuất ly cần có để đối trị với ngã
mạn, vì tất cả đều vô thường, khổ và vô ngã.
‘Nội tâm’ trong ngôn ngữ Phật giáo có nghĩa là sự suy gẫm thậm sâu về ba
đặc tính trên: vô thường, khổ và vô ngã. Chúng không ngừng xảy ra. Chỉ có
sự chú tâm của ta đối với chúng là có thể ngừng lại. Ta thường tìm cách
trốn tránh chúng. Ta không thích vô thường, khổ và vô ngã, nên ta phản
kháng lại chúng. Ta từ chối sự hiện hữu của chúng, và luôn nghĩ ra đủ mọi
cách để trốn tránh chúng. Nhưng cách trốn chạy hữu hiệu nhất là chấp nhận,
thấu hiểu và thâm nhập chúng vào đời sống của ta, đó cách giải thoát duy
nhất, vĩnh cửu. Tất cả những cách khác đều chỉ là sự trốn chạy tạm thời,
không đi đến đâu, ngoài việc dẫn ta trở lại điểm bắt đầu.
Trước hết ta cần phải có kiên nhẫn với chính mình. Nếu không, ta không
thể có kiên nhẫn với ai cả. Nếu không có kiên nhẫn với chính mình, tức là
ta không biết tự quí trọng mình. Ta phóng đại về khả năng của mình, sự
quan trọng của mình, rồi khi sự việc không xảy ra như ta dự tưởng thì ta tức
giận. Thí dụ như ta nghĩ là ta phải Giác Ngộ lâu rồi, hay ta có thể tọa thiền
trong hai tiếng đồng hồ không nhúc nhích, hay có thể Thiền đến độ không
cần ngủ nghĩ. Đủ thứ ‘phải’. Sự mong mỏi đó ta cũng đem áp dụng cho
mọi người khác, và ta trở nên thiều kiên nhẫn với sự thiếu sót của họ.
Tuy nhiên cũng không nên đồng hóa tính kiên nhẫn với sự dễ dãi. Một
người rất kiên nhẫn có đức tính đáng yêu của sự chịu đựng. Nhưng nếu
không có đủ trí tuệ và nghị lực nội tâm, lòng kiên nhẫn đó dễ dàng xuống
cấp trở thành sự dễ dãi, buông xuôi khi nghĩ rằng có làm gì cũng vô ích, là
một điều không đúng sự thật. Sao cho rằng vô ích, khi ta khéo léo, đức
hạnh. Vấn đề là ta cần phải có trí tuệ để biến kiên nhẫn thành một đức tính.
Dầu biết chấp nhận thực tế cuộc đời không như ta dự tính, ta vẫn phải có
quyết tâm và năng lực để chuyển hướng về những điều tốt đẹp hơn.
Trong khi một kẻ buông xuôi có thể nhìn y phục của mình và nói: ‘Dơ rồi.
Nhưng ta có thể làm được gì chứ? Tất cả y phục rồi cũng sẽ bị dơ’. Đó là
một thí dụ cực đoan. Giống như một người nhìn quanh phòng rồi nói:
‘Phòng dơ quá. Mà phòng nào rồi cũng dơ”. Hay có người quan sát nhà
mình rồi nói: ‘Nước sơn đã bạc màu rồi. Mà có sơn lại rồi cũng bạc màu’.
Đó là thái độ để mọi việc xảy ra mà không có quyết tâm hay năng lực cần
thiết để chuyển đổi mọi việc cho tốt hơn, ở hình thức hay nội tâm. Nếu ta tự
xét thấy có điểm yếu kém rồi ta nói: ‘Oâi, còn làm gì được nữa? Ai không
tham lam, sân hận’ và rồi để mọi việc buông xuôi. Như thế chưa đủ tốt.
Mặt khác, nếu ta nhận thấy tánh tham sân trong con người mình, ta trở nên
thiếu kiên nhẫn, điều nầy cũng chẳng ích lợi chi. Tất cả mọi thứ đều cần
thời gian. Từ vô thủy ta đã lập đi lập lại những tánh xấu nầy. Ta cần phải
có thời gian để thay đổi. Kiên nhẫn rất cần thiết, nhưng buông xuôi thì
không.
7. CHÂN THẬT
Tiếp theo là chân thật, và đức tính nầy có nhiều khía cạnh. Đầu tiên và
tiên quyết là ta phải nói sự thật. Đó là giới luật thứ tư - không nói dối.
Nhưng còn hơn thế nữa. Ta cần phải tự khám phá mình với sự chân thật rốt
ráo ở nội tâm. Đó là một việc khó thực hiện. Ta cần có trí tuệ để nhận biết
lỗi mình, không phải của người. Tìm lỗi của người không khó. Lỗi của
người khá hiển nhiên. Nhưng để tìm ra lỗi của mình, đó là điều khó làm, ta
cần sự thật thậm sâu và một nội tâm chân thật.
Điều đó giống như tự mổ xẻ bên trong, tự chất vấn mình. Khi câu hỏi đầu
tiên được trã lời, ta lại phải đặt câu hỏi về câu trã lời đó, ‘Tại sao tôi lại hành
động như thế? Tại sao tôi lại có những cảm thọ đó? Tại sao tôi phản ứng
như thế?’ Cuối cùng các câu trã lời đều đưa về một ‘cái ngã’, nếu ta đã tự
phân tích mình đầy đủ.
Các phản ứng dễ dãi như ‘Ôi, đó chỉ là cái tôi, tôi không thể làm gì khác
hơn’, hay ‘Đó là nghiệp của tôi rồi’, không ích lợi gì. Cả hai thái độ đều vô
hiệu quả, vì nếu ta đã thật sự tự phân tích mình rốt ráo, và đã nhận ra đó là
do ngã mà ra, thì ta phải tìm cách tháo gở sự bám víu vào cái ngã.
Rất khó nhìn ta như người khác nhìn ta. Ta phải đặt một tấm gương trước
mặt, không phải để soi hình dáng bề ngoài, mà là để theo dõi sự hình thành
của tâm sinh lý của ta. Tấm gương đó gọi là chánh niệm. Đôi khi cách
người khác đối xử với ta cũng tạo nên một tấm gương, nhưng không hẳn là
một tấm gương trung thực vì có cái tôi của họ nằm trong đó. Do đó, công
việc chính của ta lả phải tự chất vấn mình thôi.
Sự thực có nhiều mặt khác. Biết được sự thật tức là biết được bốn sự thật
cao quý (tứ diệu đế) và đó là Pháp chân thật. Nhận biết được bốn sự thật cao
quý đó có nghĩa là ta đã quan sát chúng bằng cái nhìn nội tâm: sự thật về
khổ, sự thật về nguồn gốc của khổ (tập đế) là tham sân; sự thật về chấm dứt
khổ đau (diệt đế), nghĩa là sự giải thoát; và sự thật về phương tiện chấm dứt
khổ đau (đạo đế), đó là bát chánh đạo. Tóm lại sự thật chỉ có nghĩa như thế.
Tất cả các chân lý cuối cùng phải dẫn ta đến sự tự do, giải thoát. Người ta
có thể đi tìm chân lý bằng nhiều cách khác nhau, qua nhiều lý thuyết học.
Có nhiều lý thuyết đáng kinh sợ vì nó dạy người ta đàn áp tầng lớp người
nầy và tôn vinh tầng lớp khác. Nhóm khác lại nói về sự đàn áp và chủ nghĩa
tối thượng. Tất cả là do tâm con người tạo ra. Tâm u mê sẽ đặt lý thuyết
của mình dựa trên ảo tưởng về ngã chấp, do đó chúng không thể nào đem lại
sự thỏa mãn hoàn toàn.
Đi tìm chân lý là một điều nên làm, người trẻ nên đeo đuổi theo chân lý và
người già không nên ngừng nghỉ. Đáng buồn thay, sự tìm kiếm chân lý có
bị gián đoạn. Con người bị ràng buộc vào quá nhiều bổn phận hằng ngày vì
mục đích sinh tồn, đến nỗi sự tìm kiếm chân lý có vẻ vượt quá khả năng của
họ. Họ không còn đủ năng lực hay ý chí. Thật đáng tiếc khi người trẻ
không có đủ trí tuệ để khám phá ra sự thật đằng sau mọi việc, còn người già
thì không còn đủ năng lực. Như Bernard Shaw đã nói: “Tuổi trẻ bị lãng phí
bởi những người trẻ tuổi”.
Ta không nên bao giờ bỏ cuộc trong việc tìm kiếm chân lý, dù chỉ một
phút. Nếu ta tiếp tục kiếm tìm, thì chẳng lâu sau ta sẽ khám phá ra rằng
chân lý không thể là một sản phẩm của loài người. Chân lý phải có tính
cách toàn cầu. Phải được áp dụng cho tất cả mọi người, không phải cho một
loại người nào, một tầng lớp xã hội nào, một giới tính nào hay một quốc gia,
tôn giáo nào. Chân lý phải dẫn đến sự giải thoát khổ đau cho con người
tuyệt đối, mãi mãi - không chỉ tạm thời, cho một nhóm người nào đó thôi.
Chân lý phải là sự thật tuyệt đối, chứ không phải tương đối. Chân lý tuyệt
đối nằm trên những khổ đau và kiếm tìm của con người. Nó nằm trong
những cuộc kiếm tìm của tâm linh và chân lý chỉ có thể tìm được trên các
con đường tâm linh. Chúng ta sống trong một thế giới tương đối, hai chiều.
Nó có ngày mai và hôm qua, tốt xấu, anh và tôi, họ và chúng ta, tôi muốn và
tôi không muốn, tiềm ẩn trong đó. Trong đó có cá tính ‘của tôi’ và cá nhân
‘của tôi’ mà ‘tôi’ muốn khẳng định và ‘tôi’ muốn bành trướng. Điều đó chỉ
có tính cách tương đối và không phải là chân lý tuyệt đối có thể làm thỏa
mãn mọi người. Ai đó phải chịu thiệt thòi trong thế giới đó. Chân lý tuyệt
đối bỏ qua tất cả những thứ đó. Hiểu được rằng không có cá tính và cá
nhân, ta sẽ nhận ra rằng những gì được coi là ‘tôi’, ‘của tôi’ là một sai lầm
và những gì là ‘anh’, ‘của anh’ cũng là một hiểu lầm đáng tiếc. Không có
tha nhân để ta lo ngại, sợ hãi. Tất cả chỉ là một dòng chảy và thể chất chỉ là
lớp vỏ bên ngoài. Chân lý tuyệt đối không hạn chế cho một tôn giáo nào.
Nó có tính cách toàn cầu và có thể kinh nghiệm qua sự thực hành của con
đường bát chánh đạo. Sự hoàn thiện các đức tính nầy tạo nên sức mạnh bên
trong ta, và để phá vở sự thật tương đối, tìm ra chân lý tuyệt đối, ta cần phải
có rất nhiều sức mạnh.
8. QUYẾT TÂM
Hạt giống lành chúng ta cần ươm trồng kế tiếp là sự quyết tâm. Không có
quyết tâm ta chẳng thể thành tựu được gì. Ngay cả việc mỗi sáng thức dậy
cũng cần có quyết tâm. Tuy nhiên có việc đòi hỏi nhiều quyết tâm hơn các
việc khác, thí dụ như là ngồi Thiền. Lúc bắt đầu, đối với đa số, ngồi Thiền
không có gì hứng thú, lại khó chịu nữa. Không hấp dẫn và cũng không
mang lại kết quả tức thời
Chúng ta quen sống trong một thế giới của kết quả tức thời. Nhấn một cái
nút, tức thì các số tiền mua sắm được tổng cộng ngay. Nhấn một cái nút
khác, máy quạt chạy, tạo ra không khí mát mẻ. Nhấn một nút nữa, đèn
được bật tối, sáng. Tất cả đều ngay lập tức. Xã hội chúng ta, hơn bao giờ
hết, đòi hỏi các kết quả ngay tức thời. Đó là lý do tại sao các viên thuốc
giảm đau được người ta ưa thích hơn các loại thuốc đông y thường cần thời
gian lâu hơn mới có công hiệu.
Thiền định tuy chậm nhưng là một loại thuốc đảm bảo. Muốn tu Thiền, ta
cần phải có quyết tâm, một đức tính kiên cường. Tâm yếu đuối không thể có
quyết tâm. Nhưng tâm mạnh mẽ, định tĩnh thì trái lại. Mỗi khi ngồi xuống
tọa Thiền, ta cần phải quyết tâm ngồi một chổ, không nhúc nhích, để giữ tâm
ở yên một chổ, để chú tâm vào việc ta đang làm.
Trong đời sống hằng ngày, ta cũng cần có quyết tâm. Nếu ta chỉ ngồi chờ
cơ hội, thì cơ hội khó xảy đến cho ta. Ta cần phải làm một cái gì đó. Phải
có quyết tâm bạn mới đến Thiền viện để học Thiền, vì ở nhà thì thoải mái
hơn rồi.
Tất cả chúng ta đều có những nghiệp thiện trong ta. Ai cũng biết điều tốt
xấu. Nếu không, thế giới nầy càng hỗn loạn hơn thế nữa. Tất cả chúng ta
đều có tính quyết tâm, nhưng ta không có trí tuệ thậm sâu để biết rằng những
đức tính nầy là những người bạn tốt của mình. Ta phải cố gắng gần gủi
chúng, ấp ủ, phát triển chúng lớn mạnh trong ta. Chúng là những nguyên
liệu cần thiết cho một đời sống hạnh phúc, bình an và không thể thiếu trong
sự phát triển tâm linh.
Đó là tất cả những gì cuộc đời có thể mang đến cho ta: sự phát triển tâm
linh. Ngoài ra, chỉ có những dục lạc giả tạm nguy hiểm vì chúng lôi kéo ta
vào sự buông xuôi. Khi ta đã hiểu rõ ràng như thế, thì quyết tâm sẽ phát
khởi để ta đem việc phát triển tâm linh làm yếu chỉ trong cuộc sống. Để làm
được điều đó không cần phải vào tu viện hay ẩn náu ở chốn hang sâu. Ta có
thể tiến bộ hay tụt hậu ở bất cứ nơi nào. Tất cả những gì xảy ra cho ta đều
có thể được coi như giúp ta tu học, dầu đó là một căn bịnh, chết chóc, sự ác
tâm của người, mất tài sản, thân thọ khổ, hay mất tình yêu, danh vọng. Sự
bám víu vào người khác, lo lắng cho họ cũng cho ta một bài học. Không
nên coi thường gì cả, mà hãy sử dụng mọi thứ để tu học, phát triển.
Quyết tâm sẽ phát sinh khi ta nhận thức rằng cuộc đời nầy không có gì giá
trị cho ta, trừ sự phát triển tâm linh và giải thoát cuối cùng. Không cần phải
thay đổi cách sống của mình, nhưng cần phải thay đổi thái độ, hành động,
nhận thức về những gì xảy ra quanh ta và trong ta. Sự quyết tâm đó mang
đến cho ta hạnh phúc vì trong quyết tâm có niềm vui được đi trên con đường
đạo. Như thế quyết tâm tự nạp năng lượng cho mình. Quyết tâm bình
thường đến rồi đi, cần phải có nhiều tranh đấu để làm sống lại một quyết
tâm. Nhưng khi sự quyết tâm là quyết tâm đi trên con đường tâm linh, nó
không cần phải được tiếp tục hồi sức. Nó trường tồn vì nó mang lại niềm
vui cho người có quyết tâm.
9-10. TÂM TỪ & TÂM XẢ
Hai đức tính cuối cùng: từ bi và hỉ xả, bạn đã được nghe nói đến nhiều.
Đã được nhắc đến ở những chương trước. Xả là tình cảm đáng được trân
trọng nhất. Nó giúp ta đoạn diệt ảo tưởng về Ngã. Nếu ta không thực biết
rằng chính Ngã chấp đã tạo ra những đau khổ trong cuộc đời, thì ta không
thể thực sự phát tâm xả. Ta có thể đè nén sự bực bội, lăng xăng, nhưng ta
không thể có tâm an bình. Căn bản của xả là trí tuệ và nội tâm.
Mười nghiệp thiện nầy cần được phát triển đời nầy qua đời khác, liên tục
cho đến khi chúng đủ sức mạnh để đưa ta đến con đường cao quí, con đường
giúp ta có cái nhìn nội tâm về Tứ Diệu Đế ở trọng tâm của bánh xe Phật
pháp.
---o0o---
  Chương 12 - Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo
Khi Ðức Phật rời bỏ gia đình để đi tìm sự giải thốt cho chúng sanh khỏi
những khổ đau, Ngài đã tìm đến tu học với hai vị Thiền sư nổi tiếng.
Ngài Alara Kalama, vị thầy đầu tiên, dạy Ðức Phật về Tứ Thiền, các tầng
thiền trong sắc giới. Ðức Phật là người học trị rất thơng minh, Ngài học rất
nhanh. Chẳng lâu sau, vị thầy nhờ Ngài ở lại dạy vì sự hiểu biết của Ngài đã
ngang bằng với thầy. Nhưng Ðức Phật, lúc đĩ hãy cịn là Thái tử Siddhartha
Gotama (Sĩ-đạt-đa Cồ-đàm), từ chối và nĩi rằng Ngài chưa đạt được mục
đích của mình, và từ giã vị thầy nầy để đến với vị thầy thứ hai, ngài Uddaka
Ramaputta. Người thầy thứ hai dạy Ðức Phật về bốn tầng thiền vơ sắc, là
các tầng Thiền vi tế hơn, khĩ đạt được hơn các tầng Thiền trước đĩ. Lần nữa,
Ðức Phật lại chứng tỏ mình là một người học trị xuất sắc, và vị thầy của
Ngài lại yêu cầu Ngài hãy ở lại hướng dẫn các đệ tử khác. Lần nữa, Thái tử
lại từ chối vì Ngài nhận thấy rằng dù Ngài đã đạt được tầng Thiền cao nhất,
nhưng khi xả định, Ngài vẫn thấy khổ đau, phiền não như trước. Khơng cĩ gì
thay đổi nhiều. Vì thầy Uddaka Ramaputta nĩi khơng cịn gì nữa để dạy, Thái
tử biết rằng Ngài phải tự mình đi tìm chân lý. Ngài từ giã năm người bạn
đồng tu với mình. Họ khơng muốn theo Ngài, mà chọn lựa ở lại, với sự an
ổn, bảo đảm của một người thầy danh tiếng.
Khi Thái tử đi đến gốc cây Bồ đề ở ở một vùng ngày nay cĩ tên là
Bodhgaya (Bồ đề Ðạo tràng), bắc Ấn Ðộ, Ngài cĩ quyết tâm lớn. Ngài thề
nguyện sẽ ngồi đĩ khơng nhúc nhích, khơng đứng dậy cho đến khi tìm được
sự giải thốt, dầu cho thịt xương của Ngài cĩ vữa ra. Thế là Ngài ngồi và dùng
các khả năng Thiền định đã học để đi sâu vào định, từ Sơ Thiền đến Bát
Thiền và trở lại từ đầu. Trong lúc ngồi, Ma vương đến cám dỗ, nhưng Ngài
đã chiến thắng nĩ. Khi tâm hồn tồn thanh tịnh, an định, khơng mảy may lay
động, Ngài đã đạt được sự Giác Ngộ sâu xa nhất. Khi xả định, Ngài nhận ra
rằng Tứ Diệu Ðế và Bát Chánh Ðạo là một thực tại nội tâm thơng suốt. Sau
những việc đĩ, Ngài nhận ra mình đã chứng đắc, trở thành Ðức Phật, bậc Ðại
Giác Ngộ.
Ðức Phật sau đĩ trong niềm hân hoan của sự giải thốt, cảm nhận ơn cây Bồ
đề đã chở che cho Ngài. Ðức Phật ở đĩ một tháng, rồi theo lời khẩn cầu của
Phạm Thiên (Brahma Sahampati), Ðức Phật quyết định đi truyền bá giáo lý
của mình. Lúc đầu nghĩ rằng giáo lý của Ngài quá cao siêu, quá khĩ hiểu, sợ
rằng khi truyền đạt lại cho chúng sanh, Ngài sẽ thất vọng vì sự khơng thơng
suốt của họ. Nhưng cuối cùng Ðức Phật xuơi lịng, và đồng ý dạy vì lợi ích
của người và trời.
Trước hết Ðức Phật nghĩ đến những vị thầy của mình. Nhưng khi dùng
nhãn thơng để tìm kiếm họ, Ðức Phật khám phá ra họ đã qua đời. Sau đĩ
Ðức Phật quyết định dạy cho năm người bạn đạo cũ của mình. Ðức Phật tìm
ra họ đang ở gần Benares. Ðức Phật quyết định đi đến đĩ để gặp họ.
Ðức Phật đi bộ suốt cả chặng đường. Trong bốn mươi lăm năm truyền
giáo, Ngài đi như thế đến khắp mọi nơi. Ðức Phật chẳng bao giờ dùng xe, vì
trong những ngày ấy xe đều do súc vật kéo, và Ðức Phật khơng bao giờ
muốn phải làm khổ con vật nào. Do đĩ, một trong những giới luật cho tăng ni
là khơng được dùng xe do súc vật kéo. Ngày nay chúng ta may mắn hơn, cĩ
những loại xe khác. Ðức Phật lúc nào cũng đi bộ.
Hằng ngày, Ðức Phật đều thuyết giảng. Nhờ thế ngày nay ta cĩ thể thừa
hưởng được gia tài đồ sộ của Ngài. Trong các kinh điển cĩ hơn 17.500 bài
giảng.
Khi Ðức Phật đi đến gần Benares, năm nhà sư đạo hạnh trơng thấy Ðức
Phật đang đi đến gần. Họ nĩi với nhau, "Nhìn kìa, ơng Gotama đang đi đến.
Ơng ấy đã từ bỏ cuộc sống đạo hạnh. Ơng ấy khơng cịn là một tu sĩ nữa.
Trơng ơng ấy khỏe mạnh, sạch sẽ quá. Chúng ta nhất quyết khơng chào hỏi
khi ơng ấy đến gần". Nhưng khi Ðức Phật đến gần hơn, họ khơng thực hiện
được dự định vì dáng vẻ oai nghi và khuơn mặt rạng ngời của Phật. Họ chào
hỏi Ðức Phật rất lễ phép.
Lúc đĩ Ðức Phật bảo với họ rằng, "Ta đã thành Phật và ta sẽ truyền dạy
cho các người giáo lý của ta". Ngạc nhiên, họ hỏi: "Nhưng làm sao chúng tơi
biết đĩ là sự thật? Làm cách nào để chứng minh?" Ðức Phật nĩi: "Các người
đã biết ta hơn sáu năm. Cĩ bao giờ ta dối gạt các người điều gì khơng?" Họ
nĩi: "Khơng". Rồi Ðức Phật nĩi "Hãy nghe một thời pháp của ta". Các vị đạo
sĩ bằng lịng. Nĩi cách khác là họ đồng ý cho Ðức Phật một cơ hội. Họ sửa
soạn chỗ ngồi cho Ðức Phật trong vườn nai Isipatanna, ngoại ơ Benares và ở
đĩ với Ðức Phật một tuần. Mỗi ngày họ thay nhau đi khất thực.
Lúc đĩ Ðức Phật bắt đầu thuyết giảng bài kinh đầu tiên sau khi Giác Ngộ -
Kinh Chuyển Pháp Luân. Ðức Phật bắt đầu chuyển bánh xe Pháp với bài
giảng đầu tiên và may mắn làm sao, cho tới ngày nay bánh xe Pháp vẫn cịn
luân chuyển. Cũng cĩ nhiều thời mạt Pháp xảy ra, lúc đĩ thật là khĩ khăn. Thí
dụ đã cĩ những lúc ở Sri Lanka người ta khơng thấy bĩng dáng một nhà tu.
Phật Pháp thường bị đe dọa, chống đối vì nĩ đi ngược lại với bản năng con
người. Ngược với dịng chảy, ngược triều lưu.
Khi Ðức Phật kết thúc bài Pháp, một trong năm vị đạo sĩ đã chứng đắc.
Ðức Phật nĩi: "Anna Kondanno thấy, Anna Kondanno biết". Thấy và biết.
Biết thơi chưa đủ. Thấy là cái thấy của nội tâm, bản tánh của tâm, làm thay
đổi hồn tồn cái nhìn và quan điểm của con người. Anna Kondanno (A-nhã
Kiều-trần-như) là vị A-la-hán đầu tiên và cũng là vị tu sĩ Phật giáo đầu tiên.
Ðức Phật cũng được gọi là một vị A-la-hán: "Namo tassa bhagavato
arahato samma sambuddhassa". Ngài là A-la-hán mà cũng là Phật. Ðiều
khác biệt là Ðức Phật tự tìm ra Tứ Thánh đế và Bát chánh đạo, khơng cĩ thầy
dẫn dắt, trong khi một vị A-la-hán giác ngộ nhờ nương theo Ðức Phật. Khi
Phật Pháp khơng cịn hiện hữu, sau nhiều a tăng kỳ kiếp một Ðức Phật khác
sẽ xuất hiện, để tìm ra được đúng những giáo lý về Tứ diệu đế và Bát chánh
đạo. Ðức Phật là người cĩ khả năng thuyết Pháp. Ðĩ là một khả năng hiếm cĩ.
Cĩ các Ðức Phật được gọi là Paccekabuddha (Ðộc Giác Phật, Bích Chi Phật,
Duyên Giác Phật). Họ đạt Giác Ngộ nhưng họ khơng cĩ tài giảng Pháp.
Khi chúng ta đọc tụng kinh pháp, ta thường ngỡ ngàng trước việc Ðức Phật
nhiều lần lập lại cùng những từ ngữ. Dầu trong tiếng Pali ta nghe du dương,
nhưng được lập đi, lập lại nhiều lần, ta khơng khỏi tự hỏi tại sao. Nhưng
khơng cĩ gì đáng ngạc nhiên cả. Khi nĩi, ai cũng thường lập đi, lập lại. Hơn
nữa, Ðức Phật nhận ra rằng rất khĩ suy nghĩ sâu xa về một sự thật thậm sâu
bằng thính giác, vì lẽ đĩ Ðức Phật đã nhấn mạnh bằng cách lập đi, lập lại.
Tứ Diệu Ðế
Tứ Diệu Ðế bắt đầu bằng sự thật của khổ đau. Năm người bạn mà Ðức
Phật giảng bài Pháp đầu tiên là năm đạo sư đã tu khổ hạnh trong sáu năm.
Ðức Phật cũng đã làm như thế, nhưng sau đĩ Ðức Phật nhận thấy rằng sự
hành xác khơng đem lại Giác Ngộ. Trái lại, cách sống buơng trơi hưởng lạc
như Ðức Phật đã từng sống khi cịn là Thái tử trong cung điện, cũng khơng
mang lại hạnh phúc. Ðức Phật nhận ra rằng chỉ cĩ con đường duy nhất - con
đường Trung Ðạo. Khơng cĩ sự cực đoan nào là tốt cả. Các vị đạo sư này đã
tu ép xác. Họ hiểu về những đau khổ của thân. Ðức Phật khơng cần phải
nhấn mạnh về điều đĩ. Họ cĩ thể hiểu dễ dàng.
Nhưng đối với chúng ta khơng dễ. Dầu khi ngồi Thiền ta cĩ kinh nghiệm
về những đau đớn, khĩ chịu ở thân, nhưng sau khi xả Thiền, về nhà, đau đớn
cũng khơng cịn nữa. Như thế đĩ chỉ là những đau đớn tạm thời, ta cĩ thể chịu
đựng được. Ðiều chúng ta cĩ thể khơng biết là thân khơng chỉ cĩ những đau
đớn, mà chính thân là một cái khổ. Nĩi một cách khác là cĩ thân là cĩ khổ.
Phải lo cho thân là khổ. Ở đây khơng chỉ nĩi về cái khổ khi ta phải hứng chịu
một tai họa nào đĩ. Tai họa là một chuyện, sự thật khổ đau là một chuyện
khác nữa. Đức Phật nĩi: Sanh khổ, Tử khổ, Hoại diệt khổ, Khơng được cái
mình muốn thì khổ.
Ðây là những nỗi khổ lớn của tất cả chúng sanh, cịn bao nhiêu cái khổ nữa
bên cạnh sinh, già, bệnh, chết. Rõ ràng là lúc vui vẻ an ổn, ta khơng biết đến
cái khổ trong ta. Ta cĩ thể thương hại ai đĩ, vui mừng vì mình khơng ở trong
cùng cảnh khổ, quên rằng cái khổ luơn cĩ mặt trong ta. Ngay chính trong lúc
vui, ta cũng khổ vì khơng thể kéo dài niềm vui. Dục lạc biến mất khi ta
muốn duy trì nĩ mãi. Mỗi khi ta muốn bám viú vào chúng, chúng lại qua đi,
và ta lại phải bỏ cơng đi tìm.
Ngay chính thân ta cũng khơng thể duy trì được sự sống nếu như nĩ khơng
luơn được bồi dưỡng, tắm rửa, vận động và chữa trị. Ðủ loại chữa trị: kính,
răng, máy trợ thính, thuốc bổ, thuốc ho, dầu gội, v.v... Bao nhiêu tiền đã phải
đổ ra để giữ thân thể tiếp tục hoạt động, chứ chưa nĩi đến việc làm cho nĩ tốt
hơn. Ta khơng thể làm cho nĩ trẻ ra, dầu cĩ bao nhiêu người đã cố gắng làm
việc đĩ. Bao cơng sức, năng lực, tiền tài đã đổ ra chỉ để giữ cho thân thể hoạt
động. Nếu khơng thân thể sẽ hoại diệt. Ta sẽ khơng thể sử dụng được nĩ nữa.
Việc nĩ khơng nghe lời ta van cầu được trẻ mãi, cĩ sức khỏe, đẹp đẽ, sống
lâu, mà chỉ làm trái ngược, cũng cĩ thể coi là một cái khổ.
Cái khổ nhất của thân là nĩ luơn địi hỏi nọ kia, mà đơi khi ta phải bỏ hết cả
đời chỉ mong thỏa mãn nĩ. Tất cả những tiền của người ta tạo ra, bao nhiêu
cơng sức người ta phải tổn hao, là chỉ để giữ cho thân được an tồn sung
sướng. Ta phải làm việc cực nhọc để cĩ ăn, cĩ nhà cửa, quần áo, thuốc men.
Nếu khơng cĩ thân ta đâu phải vất vả như thế. Vậy mà nhiều người cịn bỏ ra
bao nhiêu thì giờ, tiền bạc để làm cho thân thoải mái, sung sướng hơn thế
nữa. Ðĩ cĩ lẽ là nỗi khổ nhất - phải hoang phí cuộc đời cho những mục tiêu
như thế.
Nhưng khơng chỉ cĩ thân là khổ. Tâm cũng thế. Tâm đâu cĩ nghe theo ta.
Nĩ chỉ làm theo ý nĩ, thay vì ở yên theo ý ta. Nĩ luơn nghĩ về những điều làm
ta thêm đau khổ. Nếu đĩ khơng gọi là đau khổ, thì gì mới là đau khổ? Nĩ cịn
u mê nữa. Và đĩ cũng là một cái khổ.
Tâm nhảy từ việc này qua việc khác. Chính quá trình tư duy cũng là một
cái khổ, ngay cả những tư tưởng khơn ngoan, khéo léo cũng cĩ mầm bất tịnh
trong đĩ. Khi cịn phải suy tư về bất cứ điều gì thì khơng thể thực sự cĩ an
tĩnh.
Cả thân và tâm đều là khổ. Ðức Phật nĩi chỉ cĩ một lý do, một nguyên nhân
chính khiến ta đau khổ đĩ là ái dục, lịng ham muốn. Cĩ ba loại ái dục chính
mà những ham muốn khác đều từ đĩ mà ra. Ðĩ là ham sống, ham muốn được
thỏa mãn dục lạc và ham muốn bỏ thân này. Vì ba điều ham muốn đĩ, ta
trầm luân trong khổ đau bởi chúng ở ngồi tầm tay ta. Khĩ thể đạt được, khĩ
thể làm ta thoả mãn. Chúng ta ở trong một cuộc chiến khơng cĩ hy vọng
thắng, và đĩ là cái khổ.
Ta chiến đấu để được trường tồn, nhưng khơng cĩ ai cịn hiện hữu khi cuộc
sống của người ấy đã chấm dứt. Muốn được cĩ dục lạc, ta cũng phải tranh
đấu vật vã khơng kém, nhưng điều đĩ cũng vơ vọng vì dục lạc thế gian chỉ
tạm thời, chĩng qua. Chúng khơng thể kéo dài. Ðiều ham muốn thứ ba, muốn
bỏ thân này, là cái đối nghịch với lịng ham muốn được sống. Lịng ham
muốn này phát sinh khi trong mắt ta cuộc đời trở nên quá đen tối. Nhưng
điều này cũng khĩ thể thực hiện vì trừ đấng Giác Ngộ, khơng ai cĩ thể hiện
hữu mà khơng cĩ thân.
Hai sự thật đầu tiên trong Tứ diệu đế cho thấy ta đang sống một cuộc đời
thiếu ý nghĩa. Khơng cần biết tư tưởng ta tốt đẹp thế nào, chúng đều sẽ bị
hoại diệt. Nếu ta thấy rõ ràng rằng lịng ham muốn của ta khĩ thể được thỏa
mãn, thì ta phải tìm phương cách để thốt ra những cảnh khổ mà ai cũng phải
chịu. Khơng ngoại trừ một ai. Hiểu như thế, ta sẽ thấy thương cảm mọi
người, dầu họ là người xấu xa, đáng ghét hay ngu si. Khơng cĩ kẽ hở nào
nhưng cĩ con đường để thốt ra.
Con đường thốt ra hướng vào bên trong chúng ta. Nếu suy gẫm, ta sẽ thấy
ta khơng thể tìm được gì ở bên ngồi ta. Số đơng đi tìm giải pháp ở bên ngồi,
qua những điều kiện tốt hơn, người tốt hơn, ít việc hơn, ít khổ hơn. Nếu ta cĩ
thể nhìn thấy được những điều ấy vơ vọng làm sao, ta sẽ khơng cịn đi tìm
kiếm ở bên ngồi nữa. Thay vào đĩ, ta sẽ quay nhìn vào bên trong, để dần dần
đi đến sự thật thứ ba, sự chấm dứt khổ đau, gọi là giải thốt.
Ðức Phật khơng thực sự giải thích Giải thốt là gì. Nhưng Ðức Phật đã nĩi
những gì khơng phải là Giải thốt. Ðức Phật biết rằng cĩ giải thích cũng vơ
ích vì khi người ta chưa kinh qua Giải thốt, người ta khơng thể hiểu được
điều đĩ. Nhưng cĩ thể nĩi được thế nào là khơng phải Giải thốt, như thế ít
nhất con người cũng khơng tìm kiếm ở một chỗ khác.
Câu chuyện sau đây sẽ minh họa cho ý tưởng trên. Xưa cĩ một con cá và
một con rùa kết bạn với nhau. Chúng đã sống trong cùng một ao hồ một thời
gian dài. Một ngày kia, rùa quyết định đi thăm quang cảnh quanh hồ. Rùa đã
nhìn được bao nhiêu cảnh đẹp, lạ để về kể cho bạn mình là cá nghe. Cá rất
thú vị và hỏi rùa về quang cảnh trên mặt đất thế nào. Rùa trả lời rằng rất đẹp.
Cá muốn biết là mọi thứ trên mặt đất cĩ trong suốt, mát, bĩng bẩy, mịn màng,
trơn láng, dễ tuột, ướt át khơng? Khi rùa trả lời rằng trên mặt đất khơng cĩ
những gì giống như thế cả, cá liền nĩi: "Vậy thì mặt đất cĩ gì tốt đẹp đâu?"
Bát Chánh Ðạo
Con đường dẫn đến sự đọan diệt khổ đau, để được tự do, giải thốt, là Tứ
diệu đế và Bát chánh đạo. Giống như các lời dạy khác của Ðức Phật, Bát
chánh đạo cũng dựa vào ba phần: cư xử cĩ đạo đức (Giới), sự chú tâm (Ðịnh)
và trí tuệ (Tuệ).
Bát chánh đạo cần được xem như con đường cĩ tám ngành, tám phần
ngang nhau, mà ta cần thực hành tất cả tám phần đồng đều, chứ khơng phải
như một cái thang mà ta cần phải tuần tự leo xong cấp bực này mới bước lên
bậc thang khác. Bát chánh đạo cũng cĩ thể được xem như là một chuyển
động vịng trịn vì nĩ bắt đầu bằng Chánh kiến và cuối cùng kết thúc bằng
Chánh kiến. Dầu Chánh kiến chỉ được nhắc ở lúc ban đầu, nhưng kết quả
của việc đi qua Bát chánh đạo phải là Chánh kiến.
1. Chánh Kiến
Chánh kiến là bước đầu tiên vì trước hết ta phải thấy rõ ràng chẳng cĩ thể
làm gì khác trong cuộc đời này hơn là đi tìm con đường giải thốt khổ đau
qua những giới luật tâm linh. Như thế chắc chắn là ta phải tìm cho được
những giới luật đúng để giúp ta biết được mình đã làm gì sai. Những chướng
ngại của chúng ta là khổ đau, thất vọng, áy náy, cảm giác khơng trọn vẹn. Cĩ
một khoảng trống trong trái tim ta cần được phủ lấp bằng một hay nhiều
người, bằng tư tưởng, bằng cơng việc, hay một niềm hy vọng. Rút cuộc
khơng cĩ gì lấp nĩ đầy.
Khi một điều luật cĩ thể giải thích được tại sao ta phiền não và chỉ cho ta
phương cách đoạn trừ phiền não, tiến tới sự an vui, thì các điều luật đĩ phải
rất đáng tin cậy. Hơn nữa, các lời thuyết giảng cũng phải gần gũi với các
kinh nghiệm của chúng sanh. Pháp của Ðức Phật cĩ thể làm được những điều
đĩ.
Chánh kiến bao gồm việc nhận thức được rằng tất cả chúng ta đều cĩ thể
thực sự tu sửa để tiến tới giải thốt. Chánh kiến cũng cĩ nghĩa là hiểu biết về
nghiệp, biết rằng chỉ cĩ ta chịu trách nhiệm về tất cả những gì đã xảy ra cho
ta, khơng đổ thừa hồn cảnh, đổ lỗi cho người khác hay bất cứ thứ gì ở bên
ngồi ta. Cĩ nghĩa là ta làm chủ nghiệp của ta. Rằng chỉ cĩ ta cĩ thể thay đổi
được nghiệp của mình.
Biết rằng ta cĩ thể thay đổi khơng chưa đủ, cần phải cĩ quyết tâm thay đổi.
Ðĩ là hai cách nhìn đúng: hiểu biết về nghiệp và ước muốn thay đổi để thốt
ra khỏi những khổ đau. Khơng phải là thay đổi thế giới ta đang sống, hay
người chung quanh ta mà là thay đổi chính bản thân. Ta khơng thể thay đổi
được vấn đề, nhưng ta cĩ thể thay đổi phản ứng của mình trước một vấn đề.
Ngồi ra ta cịn cĩ thể dần dần đi hết con đường Bát chánh đạo để đạt được
một chánh kiến về tự ngã, đĩ là vơ ngã.
Ta cần cĩ trí tuệ để thực hành các giới luật tâm linh. Khơng cĩ trí tuệ để
biết mình cần phải làm gì, ta sẽ khơng thể tu Thiền.
Vì cĩ khổ đau con người mới cĩ cơ hội để thực hành. Thay vì lúc nào cũng
trốn tránh mọi phiền não, cố gạt chúng ra khỏi mắt ta hay than khĩc, đau đớn
vì chúng, ta nên mang ơn chúng. Ðĩ là người thầy tốt của ta. Vị Thầy duy
nhất của ta, nhưng tiếc thay khơng phải ai cũng biết học hỏi từ thầy mình.
Cĩ nhiều cách để đối phĩ với khổ đau. Cách đầu tiên và cũng là thơng dụng
nhất là đổ lỗi cho người khác. Ðiều đĩ thì dễ rồi. Mọi người khơng ít thì
nhiều, đều hành động như thế, nhưng cách đĩ hơi trẻ con. Cách thứ hai để
đối phĩ với khổ đau, thất vọng là trở nên chán nản, đắm chìm trong khổ đau.
Cách thứ ba là tự thương hại mình, cảm thấy như mình là người đang mang
những nỗi khổ đau của cả thế giới. Khơng cĩ ai đau khổ bằng mình, việc đĩ
rõ ràng khơng đúng sự thật. Khi ta tự thương thân trách phận, ta cũng muốn
cho người khác phải khổ đau như ta. Nhưng hồi cơng. Hành động như thế ta
chỉ làm cho người khác khĩ chịu, bực mình. Một cách đối phĩ nữa với đau
khổ là nghiến răng, đè nén tình cảm và làm như nĩ khơng cĩ mặt. Cách đĩ
cũng khơng giải quyết được gì vì làm ngơ thì chẳng giải quyết được gì cả.
Cách thứ năm là nhìn thẳng vào khổ đau, và nĩi rằng: "Ồ, bạn cũ của tơi lại
đến rồi. Lần này tơi sẽ học được gì đây?". Ðĩ là chánh kiến. Lúc đĩ ta mới
thật sự hiểu rằng cõi người là cõi tốt nhất cho sự Giác ngộ. Khổ đau là người
thầy tốt nhất của ta vì nĩ sẽ nắm chặt lấy ta, nhấn chìm ta trong đau khổ, cho
đến khi ta học được điều gì từ đĩ. Lúc ấy, sự đau khổ mới buơng thả ta. Nếu
ta khơng học được gì trong sự đau khổ đĩ, chắc chắn là lần sau nĩ lại đến với
ta nữa, vì cuộc đời cĩ gì khác hơn là một lớp học cho người lớn. Nếu ta
khơng qua được một mơn gì đĩ, chắc chắn ta phải ngồi lại đĩ mãi. Bài học
nào ta vắng mặt, ta sẽ gặp lại nĩ. Ðĩ là lý do tại sao ta bắt gặp mình nhiều lần
phản ứng cùng một cách trong những hồn cảnh tương tự. Tuy nhiên rồi cũng
cĩ lúc ta nhận ra điều đĩ, và chánh kiến phát sinh: "Tơi phải làm cái gì đĩ để
tự thay đổi. Tơi cứ gặp phải vấn đề này mãi "
Chánh kiến là nền mĩng căn bản ta phải cĩ để bước vào con đường đạo.
Chánh kiến lúc mới đầu chưa giúp ta cĩ cái nhìn đúng về tự ngã. Phải đợi
đến một lúc sau. Căn bản, chánh kiến liên quan đến hai sự thật đầu tiên trong
Tứ diệu đế. Khi ta thấy đúng sự thật là ta đang ở trong một cuộc chiến vơ
vọng nếu ta cứ tiếp tục địi hỏi dục lạc, và bảo vệ cho cái tơi của mình, đĩ là
ta đang đi trên con đường đạo. Ðĩ là lúc ta bước vào đạo, và đĩ là giây phút
tuyệt vời. Lúc đĩ ta cảm thấy chắc chắn rằng ta đã tìm ra con đường đạo, và
chắc chắn là ta sẽ đạt được kết quả cuối cùng. Chỉ cịn vấn đề thời gian. Cảm
giác vui mừng đĩ cần thiết cho việc tu Thiền, và tu Thiền là điều kiện tiên
quyết để đi trọn con đường.
Mỗi chúng ta là một minh chứng cho lời Phật dạy. Chúng ta cĩ đau khổ, cĩ
tham muốn, nhưng chúng ta cũng cĩ chánh kiến và cĩ thể nhận biết nghiệp
quả của mình. Chúng ta cĩ thể thay đổi và biết học hỏi từ những kinh nghiệm
khổ đau trong quá khứ. Cĩ rất nhiều cách để ta chứng minh lời Ðức Phật dạy,
nếu chúng ta để ý quan sát đủ. Ðiều đĩ tạo cho chúng ta niềm tin rằng ta cĩ
thể đi đến cuối con đường của Bát chánh đạo. Lịng tự tin này rất cần thiết
cho sự tu tập của ta. Tự tin khơng cĩ nghĩa là cao ngạo, mà là độc lập. Mỗi
người chúng ta phải tự tìm sự giải thốt cho chính mình.
Ðức Phật dạy rằng ta khơng nên nghe theo lời Phật dạy một cách mù
quáng mà phải tự tìm hiểu và chứng nghiệm được những điều Phật dạy.
Trong bài Kinh Kalama nổi tiếng, Ðức Phật đã nĩi về mười lý do ngăn trở ta
đi theo con đường tâm linh. Những điều này cũng cĩ thể áp dụng cho chúng
ta ngày nay cũng như cho dân tộc Kalama trước đây. Chúng mang đầy ý
nghĩa đối với ta bây giờ cũng như trước đĩ.
Người Kalama đã đến gặp Phật khi Ngài đến viếng thủ đơ của Kesaputta
và họ thưa với Ðức Phật: "Bạch Thế Tơn, đã cĩ rất nhiều vị giáo chủ đến
thành phố của chúng con, mỗi vị đều cĩ những giáo lý làm chúng con tin
tưởng được. Tuy nhiên các vị giáo chủ lại bác bỏ, thố mạ lẫn nhau. Giờ thì
chúng con hồn tồn khơng biết tin vào ai nữa. Chúng con rất hoang mang".
Ðức Phật nĩi: "Hỡi người Kalama, các người cĩ nghi ngờ, thắc mắc là đúng".
Rồi Ðức Phật giảng cho họ về năm giới luật, và hỏi họ rằng cĩ phải họ sẽ
được hạnh phúc nếu họ giữ theo năm giới luật này và đau khổ nếu họ phạm
giới. Người Kalama đồng ý với Ðức Phật như thế. Lúc đĩ Ðức Phật thuyết,
"Ðừng bao giờ tin vào kinh điển, chỉ vì chúng đã được đọc tụng; biên chép
hay được các Thầy truyền trao xuống, hay vì mọi người chung quanh chúng
ta đều tin; cũng khơng nên tin vì chúng cĩ tính cách huyền bí hay chúng
giống như những điều mình vẫn tin tưởng, hay vì chúng hợp lý. Cũng đừng
tin vì đĩ là những quan điểm mình cần bênh vực; hay vì người nĩi là một vị
thầy nổi tiếng hay chỉ bởi vì vị Thầy mình đã nĩi như thế".
Sau khi nghe lời giảng của Phật, người Kalama trở nên đệ tử của Ðức
Phật. Những lời hướng dẫn đĩ vẫn cịn đúng cho đến ngày nay. Ðừng tin
tưởng vào điều gì đĩ vì nĩ là truyền thống, hay vì mọi người quanh ta tin, hay
vì chúng đã được viết trong sách vở, nhưng Ðức Phật nĩi chỉ nên tin sau khi
ta đã tìm hiểu và nhận biết rằng điều đĩ cĩ ích và đúng.
Rõ ràng là ta đã tìm thấy đau khổ nơi chính bản thân và càng hướng vào
bên trong để suy gẫm, ta càng thấy cĩ nhiều bất như ý. Nhưng khi chúng ta
khơng cịn muốn biến sự đau khổ của cá nhân mình thành niềm vui cho chỉ
riêng mình, thì sự xung đột sẽ biến mất, khổ đau sẽ qua đi. Chấp nhận mọi
việc như chúng xảy ra cũng là chánh kiến.
Những người Bà la mơn, các thầy cúng ở Ấn Ðộ thời đĩ, khơng thích Phật
vì Ngài đe dọa cách kiếm sống của họ. Ngài dạy rằng con người khơng cần
phải cĩ người làm trung gian giữa họ với đấng thần linh, mới cĩ được hạnh
phúc, và việc đổ hương lên các thần đá, hay dâng cúng hương hoa đều vơ
ích. Vì đĩ là cách kiếm sống của người Bà la mơn, nên dù cũng cĩ nhiều
người Bà la mơn sau trở thành đệ tử Phật, số khác khơng khỏi cĩ lịng thù hằn
Ðức Phật.
Một hơm, một trong những người Bà la mơn thù Phật đã đến chỗ đức Phật
đang thuyết giảng, đi qua đi lại trước mặt đức Phật. Rồi ơng ta dùng lời lẽ
thơ tục để chửi mắng Phật. Ơng ta cho rằng Phật đã truyền dạy những giáo
lý sai lầm, Phật đáng bị đuổi ra khỏi nước, rằng Phật đã phá vỡ nền tảng gia
đình vì những người trai trẻ đi theo Ðức Phật trở thành các vị tu sĩ, rằng dân
chúng khơng nên ủng hộ Phật; nghĩa là ơng ta mạ lị Phật bằng đủ mọi lời lẽ.
Khi người Bà la mơn đã hết lời chửi bới, Ðức Phật, người từ nãy giờ đã
ngồi im lặng nĩi: "Nầy, ơng Bà la mơn, ơng thường cĩ khách đến nhà
khơng?" người Bà la mơn trả lời: "Dĩ nhiên tơi luơn cĩ khách đến nhà". Ðức
Phật lại nĩi: "Khi cĩ khách trong nhà ơng cĩ tiếp đãi họ khơng? Cĩ cho họ đồ
ăn, uống khơng?" Người Bà la mơn trả lời: "Dĩ nhiên rồi, dĩ nhiên là tơi cho
họ đồ ăn, thức uống". Ðức Phật lại tiếp: "Vậy nếu họ khơng nhận sự tử tế ấy,
họ từ chối những đồ ơng cho, thì những mĩn đồ đĩ thuộc về ai?" Người Bà la
mơn nĩi: "Của tơi, của tơi" Ðức Phật nĩi: "Ðúng vậy ơng Bà la mơn, khi ta
khơng nhận những mĩn đồ của ơng. Chúng thuộc về ơng".
Ðây là một câu chuyện đáng cho chúng ta nhớ. Bất cứ sự cơng kích, sân
hận đe dọa nào, đều thuộc về người nĩi ra những lời ấy. Chúng ta khơng phải
nhận chúng là của ta.
2. Chánh Tư duy
Phần thứ hai trong Bát chánh đạo là Chánh Tư duy. Chánh tư duy là kết
quả của chánh kiến. Nếu cĩ tà kiến, thì khơng thể nào tư duy đúng. Do đĩ ta
phải cẩn thận với những suy nghĩ của mình. Tất cả mọi tư duy đều bị ảnh
hưởng của ngã chấp. Ta nhìn mọi sự theo quan điểm của "theo tơi thấy", vì
vậy dầu quan điểm của ta đúng trong đời thường, trong đời sống tâm linh
hành xử như thế cũng là khơng đúng. Tuy nhiên ta phải bắt đầu từ cái mình
cĩ. Khơng thể ngồi chờ đến ngày sự hiểu biết của ta tiến bộ hơn. Ngày đĩ sẽ
chẳng bao giờ đến, nếu ta khơng bắt đầu tu sửa ngay từ bây giờ.
Hạnh phúc, an lạc khơng phải sinh ra là ta đã cĩ được. Phải qua bao kiên trì
cố gắng tu tập, ta mới cĩ được. Cố gắng để làm sao ta luơn cĩ chánh kiến, từ
đĩ đưa đến sự suy nghĩ đúng. Chánh kiến và chánh tư duy là phần trí tuệ của
Bát chánh đạo.
Trước khi Ðức Phật Giác ngộ, khi Ngài cịn là một vị Bồ Tát, Ngài luơn
theo dõi tất cả những hoạt động của tâm, và Ngài nhận ra rằng khi các ác
kiến, sân hận, ái dục phát khởi trong tâm, thì chính Ngài là người đau khổ.
Nhưng khi Ngài cĩ những tư tưởng xả bỏ từ bi, vơ nhiễm thì chính Ngài là
người được lợi ích. Từ đĩ Ðức Phật đã rèn luyện tâm đến chỗ Ngài cĩ thể
đoạn diệt hết mọi tà kiến.
Chánh tư duy cĩ ba đặc tính: xả, từ và vơ nhiễm. Ta khơng thể cĩ tâm xả
chỉ bằng ao ứơc hay tự đè nén. Mà phải dùng chánh kiến suy nghĩ rằng ái
dục chỉ đem lại khổ đau. Nếu ta cĩ thể thực chứng điều đĩ ngay nơi bản thân
thì tự nhiên ta sẽ buơng bỏ mọi tham muốn dấy khởi. Và ta sẽ làm điều đĩ
một cách vui vẻ, cảm thấy nhẹ nhàng thoải mái khi buơng bỏ mọi phiền não,
khổ đau.
Lịng tham muốn bao giờ cũng mang lại khổ đau, vì nĩ chỉ dấy khởi khi ta
khơng cĩ được cái mà ta muốn cĩ. Cĩ thể là vật chất hay tinh thần, khơng
quan trọng. Nhưng đĩ là điều ta khơng cĩ, nên ta ao ước, do đĩ ta coi sự thiếu
sĩt đĩ là một khổ đau. Ðến khi khơng được toại nguyện, thì ta buồn bực,
tuyệt vọng, đau đớn, khổ sở. Rõ ràng là ta khổ vì ta khơng được cái ta
muốn.
Tuy nhiên khi đạt được điều mình mong ước, ta cũng bị phiền não vì theo
kinh nghiệm quá khứ, ta biết là sự thỏa mãn, toại nguyện khơng thể kéo dài.
Cĩ rồi, ta lo lắng tìm cách để giữ lại bên mình, để duy trì nĩ. Lo lắng là khổ,
mà khi cái ta được mất đi thì ta cũng khổ.
Khi cố gắng để duy trì một cái gì đĩ đều đem đến cho ta sự căng thẳng, sợ
hãi. Thí dụ như ta lo sợ phải đánh mất người thân, của cải, tình cảm hay hồn
cảnh thuận lợi. Lo lắng, sợ khơng cĩ được điều ta mong muốn. Khi đã thực
chứng cái khổ này trong ta, ta sẽ cĩ thể buơng bỏ chúng. Sự bám viú vào
người, vào vật ta khơng muốn xa lià, làm ta đau khổ. Khơng cĩ gì hơn là đau
khổ phiền não cho đến ngày chính ta cũng phải ra đi. Nếu khơng nhìn ra
được sự thật đĩ, ta sẽ khơng thể thay đổi.
Khi ta cĩ thể cho người khác vật mà ta đang quý trọng, lúc đĩ ta mới thật sự
thực hành tâm buơng xả. Nếu ta cĩ thể cho một cách vui vẻ, chứ khơng phải
nghiến răng, nhắm mắt vì khơng muốn thấy nĩ mất đi, thì quả rằng ta đã biết
sự bám viú, chấp chặt vào gì đĩ là đau khổ.
Nhưng buơng bỏ vật chất khơng quan trọng bằng buơng bỏ những cái nhìn
định kiến của ta về tự ngã, về thế giới và về cách những người ở chung
quanh ta phải sống, cư xử như thế nào, nhất là những người thân của ta. Bám
viú vào ham muốn sở hữu, làm chủ, tất cả đều là khổ đau.
Ngồi ra cịn cĩ lịng ham muốn về tinh thần, thí dụ được yêu. Ðược làm vợ,
làm mẹ, được nổi tiếng, được biết ơn. Bất cứ ham muốn nào cũng là đau
khổ, cản trở ta được sống hạnh phúc, an nhiên tự tại. Khơng chấp nhận chính
mình cũng là khổ đau. Ðiều này khác với việc ta tu tập, cố gắng tự sửa đổi
mình dần dần. Vì sự ao ước trong tâm tưởng là kết quả của một cảm giác
thiếu hụt, khơng vẹn tồn, gây ra khổ. Chỉ cĩ buơng xả mới cĩ thể dứt khỏi
khổ đau. Khi cịn ham muốn, ta cịn đau khổ. Trong chánh tư duy đã tiềm ẩn
sự buơng xả. từ bi, vơ nhiễm đối với đồng loại, cộng với sự hiểu biết về sự
thật khổ đau hướng ta đến những tư duy đúng. Tất cả bốn sự thật (Tứ Diệu
Ðế) đan kết vào nhau vì chúng đi vào tận trong tư duy sâu thẳm của ta. Nếu
ta hiểu đúng, thì ta sẽ hành động đúng. Những khổ đau của chúng ta cũng là
khổ đau của chúng sanh được lập đi lập lại qua khơng biết bao nhiêu lâu.
Thí dụ nếu ta ngắm một con chim. Thay vì để ý bộ lơng nĩ đẹp biết bao
nhiêu, giọng hĩt nĩ líu lo làm sao, nĩ cĩ thể bay dễ dàng trên khơng trung, đi
đến bất cứ nơi nào nĩ muốn, hãy nhìn kỹ hơn nữa. Chú chim luơn ngĩ qua
ngĩ lại, quay đầu qua phải, qua trái, lo sợ con thú khác cĩ thể tấn cơng nĩ, phá
hoại ổ của nĩ. Lúc khác thì vì vấn đề sinh tồn, nĩ luơn phải đi kiếm thức ăn.
Và đĩ chỉ là một động vật trong bao nhiêu động vật khác.
Hãy quan sát người chung quanh ta, nhìn nét mặt họ. Ðức Phật khuyên
chúng ta cần phải biết thế giới bên trong và bên ngồi ta. Ðĩ là chánh niệm,
tỉnh thức và biết. Nếu chúng ta cĩ thể thấy rằng tất cả những người ta tiếp
xúc đều cĩ khổ đau, ta cĩ thể suy ra, khơng nghi ngờ gì, đĩ cũng là sự thật đối
với tất cả chúng sanh ở khắp mọi nơi. Nhưng nếu tâm ta khơng hồn tồn tin
phục vào điều đĩ, ta sẽ khĩ khởi tâm đại bi. Lúc nào cũng cĩ những lời bài
bác nổi lên trong đầu: "Tơi cũng thương cơ ấy chứ, nếu cơ ấy khơng nĩi
năng như thế hay hành động như thế". Hay "Tơi thương hại cơ ấy chứ,
nhưng cũng là do cơ ấy tự mang hoạ đến cho mình thơi". Những cách suy
nghĩ như thế khơng cần thiết. Tất cả chúng ta đều khổ đau, nhưng nếu ta
khơng nhận ra điều ấy, thì lịng từ bi bác ái của ta sẽ trở thành một thứ lúc cĩ
lúc khơng. Khi mọi chuyện ổn thỏa, ta cĩ thể chịu đựng được. Nhưng khi cĩ
khĩ khăn, ta chịu thua. Chánh tư duy cĩ nghĩa là lúc nào chúng ta cũng phải
cẩn trọng trong hành động và ứng xử khéo léo. Khơng thể tuỳ thuộc vào
trạng thái tâm hồn của ta hay hành động của người khác.
Chánh tư duy là quá trình tạo nghiệp của chúng ta, khi tâm thức ta đang
tạo ra tư duy. Chánh kiến cĩ thể cĩ được nhờ vào trí tuệ và tánh giác. Ðĩ là
nền tảng tư duy của chúng ta. Tư duy luơn phát khởi với mỗi hành động hay
phản ứng của chúng ta. "Nghiệp, này các Tỳ kheo, ta nĩi là, sự chủ tâm", đĩ
là những lời Phật dạy. Ðĩ là cách chúng ta tạo nghiệp, và nếu ta thật sự tin
tưởng rằng nghiệp thiện cần thiết cho một đời sống lành mạnh, thì ta cần
phải cẩn thận với tư duy của mình.
Một đặc điểm thú vị của tư duy là nĩ giống như một tảng băng: một phần
ba nổi trên mặt nước, nhưng hai phần cịn lại ở dưới nước. Ta chỉ cĩ thể thấy
được phần nổi ở trên. Như chúng ta bố thí vật gì đĩ, ta nghĩ đĩ là lịng rộng
lượng, nhưng ta cĩ thực sự quán sát cái chủ tâm ở đằng sau lịng rộng lượng
đĩ khơng? Ðể tự hiểu mình, ta phải tìm hiểu nội tâm mình thấu đáo. Cĩ rất
nhiều ngõ ngách trong tâm hồn con người ta. Chúng ta khơng muốn nhìn sự
thật vì cĩ những điều khơng tốt đẹp ở nơi đĩ. Nhưng đĩ là vì chúng ta chỉ là
con người, nếu khơng ta đã ở cõi trời rồi. Tốt hơn hết là ta nên nhìn nhận
khuyết điểm của mình. Chỉ cĩ những gì được mang ra ánh sáng, mới cĩ thể
được lau chùi, làm cho tốt đẹp. Bụi bặm ở dưới chiếu sẽ khơng được quét
sạch, nếu khơng ta dở tấm chiếu lên. Ðức Phật đã so sánh những nhiễm ơ
của ta giống như rơm ướt. Nếu ta cất chúng trong những chỗ kín, chúng sẽ
rũ mục. Nhưng nếu ta đem ra phơi nắng, thì chúng sẽ khơ và cĩ thể sử dụng
được. Hãy nhìn vào gĩc tối của tâm hồn ta và quán sát kỹ chủ tâm của ta.
Ba phần kế trên con đường Bát chánh đạo nĩi về hành động đạo đức: chánh
ngữ, chánh mạng và chánh nghiệp.
3. Chánh Ngữ
Lời nĩi rất quan trọng, ta cần phải giữ ý tứ hơn trong lời nĩi. Khơng phải vì
ta cĩ khả năng sử dụng ngơn ngữ, là ta biết nghệ thuật nĩi chuyện.
Ðức Phật đã cĩ lời khuyên rất sâu sắc về ngơn ngữ, rất đáng để ta ghi nhớ:
"Nếu bạn biết chuyện cĩ hại và khơng đúng, đừng nĩi ra. Nếu bạn biết
chuyện cĩ ích, nhưng khơng đúng, đừng nĩi ra. Nếu bạn biết chuyện cĩ ích,
và đúng sự thật, hãy đợi đúng thời điểm để nĩi ra".
Chúng ta phải tập bỏ nĩi những lời giả dối. Trước hết ta cần phải suy nghĩ
những lời mình nĩi, để biết chắc rằng chúng hữu ích, chân thật và đúng thời,
đúng lúc để nĩi. Khi người khác chịu lắng nghe trong một trạng thái bình
tâm, tỉnh trí, thì đĩ là đúng lúc. Nhưng quan trọng hơn cả, những lời nĩi đĩ
phải phát xuất từ lịng thương yêu của ta. Chỉ những lúc ấy ta mới nên nĩi
điều gì. Nếu trong ta cĩ lịng giận ghét, kình chống người nghe dù chỉ là chút
ít, điều đĩ cũng sẽ hiện ra trong lời nĩi của ta, như thế lời nĩi của ta cũng vơ
ích. Ai cũng cĩ lúc cảm thấy cần bảo người khác khơng nên làm điều này,
điều nọ. Khi phát ngơn, hãy nhớ những lời khuyên trên để lời nĩi của ta cĩ
hiệu quả hơn.
Chánh ngữ thường được hiểu là khơng nĩi lời điêu ngoa, khơng nĩi chuyện
người, nĩi hai lưỡi, nĩi đâm thọc, nĩi lời dữ ác hay chửi rủa người khác. Ðức
Phật dạy rằng lời nĩi cĩ thể gây thù hay kết bạn, đem lại hạnh phúc gia đình
hay đổ vỡ. Nĩ là cội rễ của tình bạn đậm đà hay gây nên ốn thù. Ðức Phật
cũng nĩi rằng chánh ngữ cũng cĩ nghĩa là khơng đi đến cực đoan, nghĩa là lúc
quá nhiều lời, lúc cạy miệng khơng ra, làm thế cũng bằng nĩi dối. Nĩ bắt
nguồn từ ý muốn làm mình thêm quan trọng.
Khi La Hầu La, con của Ðức Phật, được 7 tuổi, Ðức Phật đã dạy con về
việc khơng nĩi dối, là điều quan trọng cho trẻ con cũng như người lớn. Nếu
điều đĩ khơng quan trọng đến việc dạy dỗ cho La Hầu La, Ðức Phật đã
khơng nĩi đến. Ðức Phật cho con coi một cái bình cĩ ít nước trong đĩ và nĩi
với La Hầu La: "La Hầu La thấy gì trong đây?" Ðứa trẻ trả lời: "Con thấy
một ít nước". Ðức Phật nĩi: "Lịng tin cậy của người khác đối với kẻ nĩi dối
cũng ít như thế". Rồi Ngài đổ nước ra khỏi bình nĩi: "Giờ thì con thấy gì?"
La Hầu La trả lời: "Cái bình giờ trống rỗng". Ðức Phật nĩi: "Ðúng vậy,
người nĩi dối cũng trống rỗng giống như thế". Rồi Ngài lật ngược cái bình
lại, nĩi: "La Hầu La giờ con thấy gì?" La Hầu La đáp: "Cái bình bị úp xuống
". Ðức Phật nĩi: "Ðúng vậy, người mà nĩi dối thì cuộc đời của họ sẽ bị đảo
lộn như thế".
Nĩi dối là bước khởi đầu để phạm mọi giới luật khác. Người ta nĩi dối để
tự bảo vệ mình, vì tham lam, để được nhiều hơn phần mình đáng được, đơi
khi vì lịng sân hận, người ta nĩi dối để hãm hại người khác.
Lời nĩi dựa vào tư tưởng, vì thế nếu ta cĩ thể chế ngự tư tưởng của mình, ta
mới cĩ thể chế ngự được lời nĩi. Chúng ta sẽ chánh niệm những gì chúng ta
suy nghĩ, để đổi nĩ từ xấu xa đến thanh tịnh. Nếu ta khơng thể học kềm chế
lời nĩi của mình, ta sẽ khơng cĩ nhiều bạn.
Mặt khác ta phải nĩi lời cĩ ý nghĩa. Tán gẫu cũng là tà ngữ. Thí dụ chỉ nĩi
để mà nĩi, như là nĩi chuyện gia đình, đồ ăn uống, thời tiết, thăm hỏi xã giao.
Nĩi để giải khuây, giết thời giờ. Trừ khi ta cĩ chánh niệm, biết rõ điều mình
nĩi, bằng khơng ta nên giữ im lặng, quán xét tâm của mình.
Chánh ngữ là một trong ba mươi tám căn lành trong bài Kinh Ðại Hạnh
Phúc (Great Blessings Discourse). Thật là may mắn, nếu ta biết nĩi lời tử tế,
lịch sự đầy ý nghĩa, đầy chân thật. Hai người cĩ thể nĩi cùng một điều, với
hai chủ đích khác nhau, vì thế nghiệp quả của họ cũng khác đi. Nếu ta thực
tập bằng cách quán tâm của mình thì dần dần ta cĩ thể biết được sự chủ tâm
của mình, nhưng ta khơng thể làm thế trong khi nĩi.
Giới luật thứ tư trong năm giới, kiềm giữ, khơng nĩi dối, nĩi lời khơng thật,
cần phải được xét lại xem nĩ cĩ ý nghĩa gì trong cuộc đời ta. Nếu ta thực sự
chọn hành động theo lời Phật dạy, thì giới luật đĩ phải được đưa lên hàng
đầu, vì ai cũng nĩi suốt cả ngày. Khi ta nĩi những lời thật cĩ ý nghĩa, mọi
người sẽ lắng nghe. Khi ta nĩi lời tử tế, người khác sẽ vui mừng. Khi ta nĩi
lời lịch sự ta sẽ cĩ thêm bạn. Lời chân thật, ta sẽ được uy tín. Khơng cĩ lời
xiên xỏ, đâm thọc ta sẽ được tin cậy. Ta cĩ thể tâm sự, chia sẻ với người
khác về những khĩ khăn hay bí mật của mình. Nếu ta cĩ thể trở nên một
người như thế, ta sẽ cĩ nhiều bạn bè và một cuộc sống bình an, vì trong tâm
ta khơng cĩ gì cần phải được che dấu. Ta khơng cần phải lo lắng về những
điều mình nĩi, nĩi như thế nào, hay khơng biết điều mình nĩi cĩ đúng khơng.
Lời nĩi của ta sẽ thành dễ dàng vì đằng sau chúng là những chủ đích tốt đẹp.
Ðức Phật cũng nĩi về việc giảng Pháp. Cần phải chính xác, nghĩa là ta phải
biết mình đang nghĩ gì, cảm giác ra làm sao. Ðiều này rất quan trọng. Mọi
người khi nĩi Pháp, ngay cả khi nĩi về việc Thiền định của chính mình, cũng
phải chính xác. Cĩ nghĩa là tâm ta phải rõ ràng, lúc đĩ ngơn ngữ chính xác
mới cĩ thể phát ra. Ðây là những khả năng ta cĩ thể huân tập được qua sự
chánh niệm. Khơng phải qua những bài học về thuật hùng biện.
4. Chánh Nghiệp
Chánh nghiệp cũng dựa vào sự chủ tâm đúng. Nếu cĩ chủ tâm đúng, dựa
trên chánh kiến, thì chánh nghiệp sẽ theo sau. Tất cả đều tạo ra nghiệp cho
ta, vì tất cả đều là kết quả của sự chủ tâm. Lời nĩi dựa vào chủ tâm. Hành
động cũng dựa vào chủ tâm. Tất cả tạo ra nghiệp - tốt, xấu hay khơng tốt
khơng xấu - khơng phải là cho ngay kiếp sau, mà chính là cho ngay hiện tại.
Nghiệp và nghiệp quả xảy ra từng giây phút. Trừ khi ta để ý đến kết quả, ta
sẽ khơng biết rằng chúng cĩ liên hệ với những gì ta vừa nĩi, vừa nghĩ hay vừa
làm.
Nhờ cĩ chánh nghiệp ta khơng làm hại đến sinh vật khác dưới bất cứ hình
thức nào, từ bỏ lịng tham lam ác độc. Khơng thể đè nén lịng tham và sự ác
độc. Chúng sẽ hiện lên bằng cách này hay cách khác. Ta cần phải cĩ tâm
buơng bỏ chúng, qua sự tu tập Thiền định. Khi tọa Thiền, ta phải dứt bỏ mọi
tham ái, nếu khơng sẽ khơng cĩ Thiền định. Chỉ cĩ vọng tưởng, hy vọng, ước
mong, sợ hãi, nhớ tưởng. Nếu khơng buơng bỏ được những trạng thái này
của tâm, thì ta khĩ thể tham Thiền. Thiền định là xả, buơng bỏ mọi lăng xăng
của tâm, ngã tưởng và ái dục. Vì ta chưa thực tập buơng bỏ được nhiều, ta
rất khĩ ngồi Thiền, nhưng lần hồi, với sự huân tập, ta sẽ dễ tọa Thiền hơn.
Cố gắng đè nén chúng khơng cĩ kết quả gì, nhưng sự buơng bỏ cái ý muốn
suy tư, nhớ tưởng, hoạch định, sẽ đem lại kết quả khả quan nhất. Buơng bỏ
lịng ham muốn là con đường duy nhất dẫn tới sự bình an, và khi đã kinh
nghiệm được như thế, ta sẽ hiểu được rằng buơng bỏ lịng ham muốn trong
đời sống hàng ngày sẽ mang lại cho ta hạnh phúc.
Chánh nghiệp cĩ thể thực hiện được trong mọi hồn cảnh, bởi bất cứ ai, bất
cứ lúc nào, dầu ở nhà, hay nơi cơng sở, hay chốn tu hành. Bất cứ nơi nào,
bất cứ chúng ta là ai, tất cả chúng ta đều phải hành động. Chúng ta cĩ thể xét
xem những hành động cĩ ích lợi cho người khác hay cho chúng ta. Ngay cả
việc nấu ăn hay dọn dẹp nhà cửa cũng phải được làm với chủ đích tốt, khơng
phải vì bổn phận, vì được yêu cầu hay vì sợ người khác. Lý do chánh để ta
làm điều đĩ là vì ở đúng một thời điểm nào đĩ, việc đĩ cần đuợc thực hiện với
một mục đích. Quán sát kỹ, đầy chánh niệm, dần hồi ta biết được chủ đích
thực sự và quan điểm của mình trong các hành động. Ta cĩ thể thấy được sự
liên kết giữa thân và tâm, mà khơng cần phải để ý đến những thứ bên ngồi
ta. Sẽ khơng cĩ sự miễn cưỡng, chống đối, mà đối với mọi việc ta đều làm
với cả tấm lịng. Chỉ cĩ như thế thì hành động của ta mới mang lại kết quả gì.
Thường người ta nghĩ rằng cơng việc làm ta khơng cịn thì giờ vui chơi,
tiêu khiển. Ðĩ rõ ràng là một cái nhìn sai lầm. Chính sự vui chơi mới làm
gián đoạn cơng việc. Dầu làm bất cứ nghề gì, cơng việc cũng là phương tiện
để ta cảm thấy hữu ích, sống cĩ mục đích. Cơng việc là phương tiện giúp ta
hồn tồn chú tâm đến thân, biết các duyên hành, duyên khởi của thân. Cơng
việc là cơ hội để ta giúp ích, phục vụ người, phát triển các kỹ năng và biểu
lộ tình thương đến với người khác bằng cách phục vụ họ. Khơng cĩ phương
tiện nào tốt hơn để thanh tịnh hố thân tâm bằng cơng việc. Khơng chỉ làm để
kiếm sống hay vì người khác địi hỏi mà làm mọi việc với tất cả tấm lịng như
một phương tiện để thấu hiểu mọi việc hơn.
5. Chánh Mạng
Chánh mạng là một trong ba đặc tính của đức hạnh. Chánh mạng cĩ nghĩa
là phương tiện ta kiếm sống khơng làm hại đến ai. Mỗi người phải tự mình
biết điều đĩ. Cĩ nhiều cách kiếm sống được coi là "đúng", hơn là "sai",
nhưng cũng cĩ những cách kiếm sống thật tai hại. Ðể đánh giá, ta cĩ thể dựa
vào năm giới luật. Nếu cách kiếm sống của ta phạm vào một trong năm điều
cấm, thì rõ ràng đĩ là sai.
Chánh mạng là một yếu tố quan trọng trong sự thanh tịnh hĩa, vì nếu ta
theo đuổi một cách kiếm sống sai lầm, ta sẽ trở nên chai lì, và thĩi quen tội
lỗi sẽ thành hình. Một người đồ tể, trong các lị sát sinh, chẳng hạn, phải giết
chết hết mọi cảm xúc của mình mới cĩ thể tiếp tục làm cơng việc này. Nếu
khơng, anh ta khĩ mà làm cơng việc này. Một con người như thế sẽ trở nên
chai cứng, khơng cịn lịng thương xĩt đối với các chúng sanh.
Phải giết hại là một cách kiếm sống rất tại hại. Nĩi dối, uống rượu, lấy của
người, tất cả là những phương tiện kiếm sống khơng lương thiện. Cũng cĩ
người sinh sống bằng những quan hệ tình dục sai tráí. Rõ ràng là những cách
kiếm sống dựa trên ái dục, khơng chỉ tai hại cho bản thân người hành nghề
này mà cịn gây khổ lụy cho người khác. Và họ tiếp tục làm những việc này
bằng cách tự biện hộ lý giải cho hành động của họ. Nhưng đĩ là tà kiến của
họ. Trong khi muốn đi trên con đường đạo, mỗi bước đi ta cần phải dựa vào
chánh kiến.
6. Chánh Tinh Tấn
Sự tinh tấn và năng lựơng cĩ ảnh hưởng cộng sinh. Nhờ cĩ năng lượng, ta
mới cĩ tinh tấn. Ngược lại, nếu ta cứ tiếp tục tinh tấn, thì năng lượng càng
tăng thêm. Năng lượng là nhiên liệu của sự tinh tấn, cũng như ngược lại.
Tinh tấn cĩ vẻ như đối nghịch với sự thoải mái, dễ chịu, nhưng nếu cứ tiếp
tục tham Thiền, đến một lúc nào đĩ, ta sẽ nhận ra rằng chính nhờ cĩ tinh tấn
ta mới cĩ được sự thoải mái, dễ chịu.
Ðức Phật đã chỉ cho ta bốn tinh tấn ba la mật là những phương tiện hữu
ích. Chúng được gọi là "ba la mật" (tối thượng) vì chúng rất hữu ích và cũng
rất khĩ thực hiện. "Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nĩ chưa dấy khởi. Ðừng
để nĩ tiếp tục, nếu nĩ đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nĩ chưa
phát sinh. Hãy nuơi dưỡng ý niệm lành, nếu nĩ đã dấy khởi ".
Ðể làm được như thế ta phải theo dõi tâm mình, và phải biết phân biệt giữa
cái tốt và cái xấu. Ðĩ là một trong những lý do tại sao tơi đã khuyên các bạn
nên đặt tên cho tư tưởng của mình, khi chúng phát sinh trong lúc tọa Thiền.
Chỉ khi nào ta biết mình nghĩ gì, ta mới cĩ thể cĩ những biện pháp thích ứng.
Ta cần biết tâm mình đang cĩ những ác niệm hay niệm lành, cần biết phân
biệt rõ ràng như thế, ta mới cĩ thể thực hành được lời dạy trên của Ðức Phật.
Cần phải cĩ rất nhiều chánh niệm để giữ cho các ác niệm khơng dấy khởi,
vì ta phải biết rõ về chủ đích ở phía đằng sau. Với những tư tưởng đang dấy
khởi, điều đĩ dễ dàng hơn. Vì thế, ta nên bắt đầu với chúng, cho đến khi ta cĩ
đủ khả năng để biết một điều gì đĩ khơng được tốt đang chực chờ bộc phát,
để ngăn chận khơng cho nĩ xuất hiện.
Khi hành thiền, mọi tư tưởng đều vơ ích vì ta khơng muốn suy nghĩ, mà
muốn thiền. Trong cuộc sống hàng ngày thì lại khác. Ta cần phải dẹp bỏ mọi
ác niệm. Cố gắng đè nén chúng khơng ích lợi gì. Mà nên buơng bỏ chúng,
hoặc thay chúng bằng những thiện niệm. Khi tọa Thiền, ta thay thế tư tưởng
bằng sự chủ tâm vào thiền quán. Ta cĩ làm được điều đĩ hiệu quả hay khơng
trong thiền, sẽ phản ánh trong việc ta thực hành bốn tinh tấn ba la mật trong
đời sống hàng ngày. Ngược lại, trong đời sống hàng ngày, ta cĩ thực hành tốt
hay khơng bốn tinh tấn ba la mật, thì điều này lại phản ánh trong lúc ta tu tập
Thiền. Những ác niệm trong đời sống hàng ngày hiện lên trong sự lăng xăng,
khơng yên tĩnh lúc ta tọa thiền. Trong khi những ý niệm lành luơn được nuơi
dưỡng, và khơng bao giờ sai lệch, sẽ đem lại an bình và yên tĩnh cho tâm ta.
Nếu ta khơng thể nhớ gì về những điều Phật dạy trừ bốn tinh tấn ba la mật
này, thì cũng là đủ. Những điều khác, nếu chúng ta cĩ nhớ, cĩ thể giúp ta
thêm phấn khởi, thêm thanh cao, nhưng bốn ba la mật vừa nêu trên giúp
người thực tập chúng dễ dàng đạt được sự thanh tịnh.
Cần phải cĩ chánh kiến để nhận ra rằng đĩ là những điều chúng ta cần làm,
và muốn thực hành, ta cần phải huân tập cơng phu. Trên cõi đời này rất ít cĩ
người hồn tồn khơng cĩ ác niệm. Vì ta tràn đầy các ác niệm nên ta phải sống
trong một thế giới cũng nhiễu nhương, hỗn loạn. Khơng phải là các ngơi nhà
cao tầng, xe cộ hay các cơ chế chính quyền làm nên thế giới này. Nhưng
chính là quá trình tư duy của chúng ta đã làm nên sự khác biệt giữa chiến
tranh hay hồ bình, giữa nội tâm ta và thế giới bên ngồi ta.
Ðặt tên cho các ý nghĩ của mình, cĩ nghĩa là ta biết ta đang nghĩ gì. Tốt
nhất là ta thực hành các điều này khi hành Thiền, là khi ta cĩ thể thấy rõ ràng
tâm ta luơn luơn lăng xăng. Các tư tưởng của ta cĩ thể xấu hoặc tốt hoặc
trung tính, khơng tốt khơng xấu, cĩ thể là tư tưởng hoang mang, lăng xăng,
lo âu hay sợ sệt, ghen ghét, ganh tị hay hồn tồn mù mịt. Trừ khi ta biết rõ
những điều này, ta khơng thể nhìn trở vào để tự quán sát, ta sẽ khơng bao
giờ hiểu tại sao mình lại cĩ những cảm giác như thế hay hành động như thế.
Bốn tinh tấn ba-la-mật là những điểm cơ bản trên con đường đạo. Trong
khi hoa hương, đèn nến, tiếng chuơng, chùa chiền chỉ là những thứ trang sức
bên ngồi. "Ðừng để một ý xấu dấy khởi, nếu nĩ chưa dấy khởi. Ðừng để nĩ
tiếp tục, nếu nĩ đã phát sinh. Hãy dấy khởi ý niệm lành, nếu nĩ chưa dấy
khởi. Hãy nuơi dưỡng ý niệm lành, nếu nĩ đã phát sinh". Ðĩ là quá trình
thanh tịnh hố tư tưởng, và cũng đưa đến sự thanh tịnh hố lời nĩi và việc làm.
Khi những điều đĩ xảy ra, ta cĩ thể thấy rõ ràng hơn. Một tấm gương trong
suốt với mặt gương sạch bĩng khơng dính buị dơ, là tấm gương cĩ thể phản
chiếu được những hình ảnh trong sạch.
Ta cần phải tinh tấn trong bất cứ việc gì mình làm, nhất là trong lúc tọa
thiền. Vì dầu hành thiền một cách tinh tấn, ta cũng khơng thể thấy những kết
quả tức thời. Ðiều đĩ cĩ thể khiến tâm thối hố, khơng cĩ được sự tinh tấn ban
đầu. Khi tâm địi phải cĩ kết quả tức thời, đĩ là sự trĩi buộc, bám víu, địi hỏi.
Ðĩ là lịng ham muốn, do đĩ đưa đến đau khổ.
Làm điều gì cũng thế. Ta thường trơng mong kết quả, rồi khi kết quả
khơng như ý, thì sinh ra chán nản, buồn rầu. Tinh tấn vì tinh tấn, khơng vì
mong muốn kết quả. Cĩ được chánh tinh tấn là một thiện nghiệp, khơng cần
biết đến kết quả như thế nào. Như khi tham thiền, dầu ta chưa thấy kết quả
rõ ràng, tức thời, nghiệp thiện cũng đã được hình thành do cĩ chủ đích tốt.
Chỉ cần cĩ chánh tinh tấn, ta cũng đã cĩ được lợi ích, nhưng ít khi ta để ý
đến điều đĩ. Ta cịn mãi trơng đợi những phần thưởng vật chất. "Tơi đã quá
cố gắng mà vẫn khơng thể chú tâm"hay "Tơi đã thương yêu con cái biết bao
nhiêu, nhưng chúng chẳng hề biết ơn", "Tơi đã chăm sĩc cho cơ tơi bao
nhiêu lâu, vậy mà cơ ấy chưa bao giờ nĩi lời tử tế với tơi". Ðĩ là một thái độ
sai lầm. Sự cố gắng của ta đã là một nghiệp thiện, đĩ chính là kết quả. Khơng
cần biết ai khác nĩi gì hay kết quả ra làm sao, đĩ là vấn đề thứ yếu. Ðơi khi ta
đạt được định. Ðơi khi kẻ khác hàm ơn việc ta làm cho họ. Nhưng điều đĩ
khơng liên hệ đến hiệu quả của những cố gắng của ta. Nếu ta khơng thay đổi
cách nhìn, thì ta luơn phải phụ thuộc vào kết quả. Như thế sự tinh tấn của ta
sẽ lúc cĩ, lúc khơng vì kết quả cũng lúc cĩ lúc khơng. Nếu tinh tấn khơng
luơn cĩ mặt, rõ ràng nĩ khơng cĩ hiệu lực. Chánh tinh tấn cần phải luơn vững
chắc.
7. Chánh Niệm
Kế tiếp là chánh niệm. Nếu bạn đã thực hành chánh niệm, bạn sẽ biết
chánh niệm là gì. Khi ta đặt chân xuống đất và khơng biết đến gì khác hơn là
việc đặt chân xuống đất, đĩ là chánh niệm. Khi đưa đũa lên miệng, ta khơng
biết gì khác hơn là như thế, đĩ là chánh niệm. Ðiều đĩ rất khác với việc ta
làm hàng ngày, nhưng nếu ta khơng biết sự khác biệt đĩ, thì ta chưa biết thực
hành chánh niệm. Lúc ta hồn tồn chánh niệm ta khơng thấy gì khác hơn. Ðĩ
là sự chú tâm vào một điểm. Ðiều đĩ giúp ta quên đi những phiền não của
mình, vì ta khơng thể nghĩ về hai điều cùng một lúc. Một trọng tâm điểm khi
đem ứng dụng vào thiền, dần dần ta sẽ cĩ thể đạt định. Trong cuộc sống hàng
ngày, sự thực hành chánh niệm giúp ta quên đi bao phiền não, vì chúng
khơng cịn ngự trị tâm ta, và trong thiền, nĩ giúp ta đạt định.
Chánh niệm cịn cĩ thể giúp ta tự thanh tịnh hố. Khi người ta biết rõ mình
đang làm gì, nĩi gì hay nghĩ gì, người ta sẽ trở nên cẩn thận để thân, khẩu và
ý đều khơng sai phạm, khơng để nĩ bị những hành động bản năng, cấu uế
làm chủ. Bằng cách đĩ, ta được thanh tịnh hố.
Ðơi khi cĩ sự hiểu lầm về từ "chánh niệm". Chánh niệm cĩ nghĩa là luơn
luơn lúc nào ta cũng cĩ sự chú tâm. Làm sao ta cĩ thể sửa đổi ác nghiệp, nếu
ta khơng chú tâm, khơng biết đến sự hiện diện của chúng?
Cĩ bốn chánh niệm căn bản: chánh niệm về thân - như hành động, sự
chuyển động, ba mươi hai bộ phận, dáng đi đứng, sắc thân; chánh niệm về
các cảm thọ - như các cảm giác tâm sinh lý; chánh niệm về tâm - như quá
trình tư duy, biết rằng ta đang suy nghĩ, tâm đang hoạt động, biết rằng cĩ suy
tưởng và biết tư tưởng; và cuối cùng là chánh niệm về đối tượng của tâm -
như biết rằng tư tưởng nào đĩ là cấu uế hay trong sạch.
Theo truyền thống, chánh niệm về đối tượng của tâm trước đĩ được coi
như là sự chú tâm để xem coi phần nào là của năm uẩn hay bảy giác chi, bát
chánh đạo hay sáu trần dấy khởi. Nhưng trong thực tế, trong ứng dụng hàng
ngày, điều đĩ quá phiền tối. Phần đơng chúng ta khơng nhớ hết mọi chi tiết
để tra xét. Chỉ cần biết tư tưởng đĩ cĩ trong sạch hay ơ uế là đủ rồi. Cũng thế,
rõ ràng ta khĩ thực hành bốn thứ chánh niệm cùng một lúc. Ta cĩ thể lựa
chọn khi hành thiền. Hoặc là chú tâm vào hơi thở vào ra, hay đi thiền hành,
cả hai việc này đều khiến ta phải quán thân. Hay ta cĩ thể quán về các cảm
thọ do tâm sinh lý gây ra. Nếu ta nhận thấy mình bị phiền não vì vọng
tưởng, thì đĩ là kết quả của sự quán tâm. Khi ta đặt tên cho các vọng niệm,
và biết đĩ là thương, ghét, từ bi, sân hận thì là ta đang thực hành quán về đối
tượng của tâm. Tĩm lại, khi tham thiền, chính ta là người lựa chọn đặt sự chú
tâm của mình vào đâu.
Nhưng trong cuộc sống hàng ngày thì khác. Ta phải đặt chú tâm vào việc
gì đúng ở thời điểm nĩ đang xảy ra. Thí dụ như khi đang băng qua một con
đường cĩ nhiều xe cộ, mà ta lại phải chú tâm vào từng bước chân của mình,
thì e rằng đĩ khơng phải là một cách giữ mạng sống. Ta phải chú ý xe cộ
chạy ra làm sao. Trong trường hợp này, cĩ nghĩa là ta phải chú tâm vào
những gì đang xảy ra quanh ta. Hay khi đang trị chuyện qua điện thoại, chắc
ta khĩ chú tâm vào cái ống nghe, vì làm thế thì ta sẽ chẳng biết mình nĩi gì.
Ta phải chú tâm vào quá trình tư duy và kết quả của nĩ là những lời ta nĩi ra.
Bất cứ gì hợp lý, đĩ là nơi ta phải đặt chú tâm vào.
Chánh niệm là một yếu tố tâm linh mà ta cĩ thể và phải thực tập mỗi giây
phút tỉnh thức. Cĩ hai mươi bốn giờ trong một ngày, và nếu mọi việc suơn
sẻ, ta cĩ thể tham thiền một tiếng vào buổi sáng, một tiếng buổi tối. Ta cĩ thể
ngủ sáu hay bảy tiếng, như vậy ta cịn lại khoảng mười lăm tiếng mỗi ngày.
Nếu suốt thời gian đĩ ta khơng nhớ để chánh niệm, thì chi bằng ta quên luơn
việc hành thiền và thực tập lời Phật dạy. Nếu ta làm thế thì ta chỉ cĩ giỏi nĩi
mà quên thực hành.
Khi ta luơn thực hành chánh niệm, dần dần nĩ sẽ trở thành một thĩi quen,
giúp cho cuộc sống của ta ít phiền não, vì nhờ chánh niệm ta cĩ thể tránh
được những sai lầm, vấp ngã. Chánh niệm giống như bàn thắng của xe. Lái
xe mà khơng cĩ thắng thì xiết bao nguy hiểm. Nếu ta sống cuộc đời khơng cĩ
chánh niệm, thì cũng nguy hiểm như thế. Lúc nào ta cũng cĩ thể va vấp,
đụng chạm người khác, tự làm hại mình, hại người.
Khi thực hành chánh niệm, khơng cĩ nghĩa là ta trở nên thụ động, và phản
ứng theo ý muốn của người khác. Ðĩ khơng phải là chánh niệm, đĩ là nhượng
bộ. Chánh niệm là biết rõ mình đang nghĩ gì, cảm thấy gì, hành động ra sao.
Khi biết như thế, ta sẽ trở nên chú tâm đến phản ứng của ta hơn. Ta sẽ khơng
nghĩ đến việc hành động theo như ý người khác. Mà ta sẽ quan tâm đến việc
tự thanh tịnh hĩa mình.
Chánh tinh tấn - bốn tinh tấn ba la mật - chỉ cĩ thể thành cơng nếu đi đơi
với chánh niệm. Hơn thế nữa, tất cả mọi chi của Bát chánh đạo đều cần cĩ sự
hỗ trợ của chánh niệm.
Chánh niệm đi đơi với cái biết rõ ràng. Chánh niệm là yếu tố biết - chỉ cĩ
cái biết - đã được diễn tả đầy đủ trong một bài thơ Haiku của Nhật như sau:
Ao cũ
Cóc nhảy vào
Phộp
Khi con cĩc nhảy vào một ao hồ, cĩ rất nhiều việc xảy ra, mặt nước gợn
sĩng, con cĩc biến mất, cĩ thể cĩ ánh sáng mặt trời lấp lánh trên mặt ao. Tất cả
những thứ này đều là yếu tố thêm thắt. Trong khi chánh niệm đi vào trọng
tâm, điểm chánh yếu, và đĩ là tiếng "Phộp". Ðĩ là tất cả. Ðĩ là trọng điểm.
Chỉ cĩ cái biết, cùng với bạn đồng hành của nĩ là sự thấu suốt. Tính thấu
suốt giúp ta biết ngay việc gì đang xảy ra, để sử dụng cái biết đĩ. Tính thấu
suốt gồm bốn phần: biết mục đích, biết phương tiện cĩ khéo léo khơng, biết
mục đích và phương tiện cĩ nằm trong Pháp khơng; và biết rằng ta cĩ đạt
được mục đích khơng.
Khi ta nĩi khơng cĩ một mục đích gì, tức là ta đã bỏ quên chánh niệm và
tánh thấu suốt. Khi ta nĩi cĩ mục đích, nhưng khơng biết diễn tả như thế nào,
tức là ta khơng cĩ phương tiện khéo léo. Sự chú tâm phân biệt giúp ta biết
thân, khẩu và ý của mình cĩ nằm trong Pháp chân thật khơng. Nếu ta khơng
đạt được kết quả mong muốn, thì rõ ràng là ta đã khơng dùng đúng phương
tiện. Chánh niệm trong lời nĩi và hành động cần cĩ tính thấu suốt đi kèm: biết
mục đích, phương tiện khéo léo, tuân theo Pháp giới và kết quả.
Khi ta sống cĩ chánh niệm, sự chú tâm của ta khác hẳn bình thường. Chúng
ta biết việc gì đang xảy ra nhưng khơng quan tâm đến nĩ. Khi sân nổi lên, ta
biết nĩ đang dấy khởi, nhưng ta khơng cần phải trở nên giận dữ. Ðĩ là một kỹ
năng tuyệt vời. Khi chán nản, ta biết chán nản đang dấy khởi, nhưng ta
khơng phải trở nên chán nản, hay tuyệt vọng. Ta chỉ biết sự dấy khởi và sự
đoạn diệt của mọi trạng thái tâm.
Chánh niệm là cho mọi người, ai cũng cĩ thể sử dụng nĩ để sinh tồn, nhưng
vì vấn đề tranh đấu để sinh tồn chỉ là hồi cơng, nên tốt hơn, ta nên sử dụng
nĩ vào việc giải thốt, Giác Ngộ. Chánh niệm là một phương tiện khéo léo, và
thấu suốt, là trí tuệ giúp ta phân biệt. Chánh niệm khơng cĩ sự phán đốn,
nhưng thấu suốt cĩ yếu tố phân biệt, vì thế ta cĩ thể thay đổi hướng đi nếu
cần thiết.
8. Chánh Ðịnh
Khi vào sâu trong thiền, ta cĩ thể tìm được chánh định, là điều Ðức Phật đã
nĩi đến trong nhiều bài giảng như con đường, như phương tiện, chứ khơng
phải là mục đích.
Chánh định căn bản vẫn cần các chi nhánh khác của Bát chánh đạo. Nếu
khơng cĩ giới hạnh, khơng cĩ chánh tư duy, chánh kiến, chánh tinh tấn, thì
khơng thể cĩ được chánh định. Vì thế chánh định được nhắc đến sau cùng.
Và cũng vì nĩ là điểm khởi hành của ta từ một người bình thường trở thành
người cĩ Giác Ngộ. Chánh kiến đứng ở vị trí đầu tiên trong Bát chánh đạo, vì
khơng cĩ chánh kiến, khơng cĩ gì cĩ thể xảy ra. Chánh định đứng ở vị trí cuối
vì nĩ cần tất cả những yếu tố khác để cĩ thể thành hình và tạo ra phương tiện
để đạt được sự tự tại.
Khi đã cĩ chánh định, và đã cố gắng soi rọi lại nội tâm mình, lúc đĩ chánh
kiến lại rõ ràng hơn. Ðĩ là chánh kiến về sự giải thốt. Như thế cuối cùng ta
đã đi hết vịng trịn để trở lại với chánh kiến về "cái ngã", tức là vơ ngã.
Chúng ta khơng thể tìm thấy cái "vơ ngã". Chúng ta khơng thể tìm thấy cái
gì khơng cĩ mặt. Vì thế ta phải luơn chất vấn, tìm hiểu về cái gì mà ta tin là
"tự ngã". Chúng ta tin vào thân, vào thọ, tư duy, tâm hành là cái ta. Thì ta
cần phải xem xét lại tất cả những gì được coi là "cái ta" ấy. Nếu ta khơng
biết rõ ràng về "cái ngã" đang cĩ trong tay, khơng làm chủ nĩ, thì ta khơng
thể buơng bỏ nĩ. Nếu tơi khơng biết cái đồng hồ của mình ở đâu, nếu tơi
khơng cĩ nĩ ở trong tay, thì tơi khơng thể bỏ nĩ đi. Tơi chỉ cĩ thể làm được
điều đĩ khi tơi biết đích xác nĩ là gì, đang ở đâu. Nếu tơi đi tìm đồng hồ mà
khơng thấy, thì tơi khơng thể làm gì được với nĩ cả. Ðối với "cái ngã" của ta
cũng thế.
Cuộc truy tìm là về "cái ta". Cái thân này là gì? Ðĩ cĩ thật là "tơi", là "của
tơi" khơng? Nếu nĩ là cái xác, nĩ cĩ cịn là "tơi" khơng? Những cảm thọ này
cĩ thật là của tơi khơng? Tại sao chúng lại đến, khi tơi chẳng mong chờ? Tại
sao tơi cĩ những ý tưởng chỉ làm tơi đau khổ? Ai đang đau khổ? Ai là "tơi"?
Cĩ phải là "cái tơi" của ngày hơm qua, hơm nay hay ngày mai? Cứ như thế,
những câu hỏi để tìm ra ở đâu là "cái tơi", cái gì là "tơi". Và cuối cùng khi
tơi tìm ra được nĩ, lúc đĩ tơi mới cĩ thể buơng bỏ được ảo tưởng về nĩ.
Tĩm lại, để tìm hiểu về "vơ ngã", ta phải bắt đầu với "cái ngã", và khi nĩ
trở nên ngày một rõ ràng đĩ chỉ là tư duy sai lầm về "cái ngã", nĩ cũng trở
nên rõ ràng là quá trình tư duy của ta cĩ thể chuyển hệ.
Tất cả những yếu tố ta đã bàn ở đây chỉ là con đường, là phương tiện để
làm giảm bớt lịng chấp ngã, làm cho nĩ trở thành nhỏ hơn. Ðịnh là một yếu
tố quan trọng, vì lúc mà tâm hồn tồn định, thì khơng cịn tư tưởng như "tơi là,
tơi cĩ thể, tơi sẽ, tơi muốn, tơi khơng muốn". Khi ta hành thiền thường
xuyên, "cái tơi" thường nhỏ lại, và người ta cĩ thể nhìn sự việc một cách rõ
ràng hơn. Ngược lại, nếu ta khơng tu tập định hay chú tâm, ngã chấp của ta
vẫn khơng thay đổi.
Bát chánh đạo đi từ cái nhìn đúng một cách tương đối tới cái chánh kiến
tuyệt đối, và cuối cùng, chính con người trở nên Bát chánh đạo. Lúc đĩ
khơng cần phải thực tập Bát chánh đạo nữa hay cố gắng để nhớ tới chúng.
Khơng cần phải cố gắng với từng bước, vì Bát chánh đạo đã trở thành bản
năng tự nhiên của ta. Các vị A-la-hán lúc nào cũng cĩ chánh kiến, chánh tư
duy. Các Ngài khơng cĩ tà ngữ, hành động sai trái hay nghịch mạng. Nhưng
lúc nào cũng chánh tinh tấn, chánh niệm, và chánh định. Với chúng ta mỗi
ngày một ít. Chỉ cĩ thực hành mới giúp ta hồn thiện Bát chánh đạo.
---o0o---
      Chương 13 - Một Cuộc Bắt Đầu Mới
Các bạn đã ở đây được mười ngày, và sẽ trở về lại nhà trong một khung
cảnh hoàn toàn khác. Việc hành Thiền cũng như sự hiểu biết của các bạn về
Phật pháp tiến bộ thấy rõ. Khi trở lại nhà, các bạn có thể nghĩ là người thân
ở nhà đã thay đổi. Đột nhiên họ như không hiểu những điều bạn nói nữa.
Họ lại quan tâm đến những việc đối với bạn không có gì là quan trọng cả.
Khi đó bạn nên biết rằng không phải họ là người đã thay đổi, mà chính bạn
mới là người thay đổi.
Khi bạn xuống phố, quan sát mọi người, xe cộ qua lại bạn có thể tự hỏi:
“Tại sao mọi người vội vã thế? Họ cần đi đâu? Có cần phải vội vã như thế
không?” Bạn đứng yên ở một chỗ, quan sát và than rằng: ‘Tôi không thể
hiểu tại sao mọi người lại cần vội vã đến thế?” Rồi chừng ba tuần hay ba
tháng sau, tùy theo sự thực tập của bạn, mọi việc lại trở lại bình thường
trong mắt bạn. Ai cũng thế, và bạn cũng thế. Và điều đó chứng tỏ rằng bạn
đã chểnh mảng trongï thực tập, bạn không còn tự tại nữa, có nghĩa là bạn cần
dự một khóa tu học khác nữa.
Vậy bạn cần phải làm gì trước những sự kiện nầy? Ngồi Thiền một tiếng
buổi sáng, một tiếng buổi tối, có lẻ là lời khuyên hữu dụng nhất. Nếu bạn có
thể thực tập nhiều hơn, càng tốt.
Tóm lại có nhiều việc bạn có thể làm. Trong nhà, bạn có chỗ riêng để ăn
uống, ngủ nghĩ, làm việc, tắm gội. Hãy chọn một chỗ nhất định, không dời
đổi để tọa Thiền. Bạn không thường xuyên dời đổi chỗ ngồi ăn, hay chỗ ngủ
nghĩ. Cũng thế, hãy dành một góc nào đó trong nhà, vừa đủ một chỗ ngồi
cho bạn. Để gối Thiền hay tọa cụ ở đó và không dời đổi. Nếu mỗi lần cần
ngồi Thiền mà bạn phải đi tìm kiếm những thứ nầy, thì bạn dễ bị phân tâm.
Nếu muốn, bạn có thể đặt một tượng Phật hay ảnh Phật với bông hoa để tạo
ra không khí riêng cho góc phòng đó. Cũng giống như trong phòng ăn thì
phải có bàn ăn, ghế ngồi, nhà bếp có lò nấu, thì góc tọa Thiền của bạn cũng
cần có tọa cụ, chiếu Thiền, có thể một bàn thờ nhỏ với hoa hay một ngọn
nến.
Mỗi ngày bạn đều đến ngồi vào chỗ đó ở một thời điểm nhất định, mang
theo một đồng hồ báo giờ. Để đồng hồ báo giờ một tiếng sau đó, nếu không,
lúc đang tham Thiền, bạn sẽ nghĩ “Có lẻ đã hơn một tiếng rồi”. Nhưng khi
bạn đứng lên, xem giờ, thì chỉ mới được mười phút, rồi một khi đã đứng lên
đi ra chỗ khác, bạn khó lòng quay trở lại với việc tọa Thiền. Ít ai làm được
điều đó. Vì thế tốt hơn hết là mang theo đồng hồ, và ngay khi bạn nghĩ:
‘Chắc được một tiếng rồi’, bạn cũng biết không thể nào như thế, vì đồng hồ
chưa reo báo giờ. Khi bạn biết đồng hồ chưa reo, thì chưa tới giờ, nghĩa là
bạn chưa thể đứng lên. Dần dần việc tọa Thiền sẽ trở nên dễ dàng hơn.
Ta cần sự hổ trợ càng nhiều càng tốt. Vì ta luôn tìm cách để tránh né việc
khó. Ai cũng thế. Hãy cảnh giác về những lý do để tránh né. Khó có ai tọa
Thiền thường xuyên như thế nầy, lâu như thế nầy, nếu không có người khác
cũng ngồi với nhau. Vì thế nếu có được một nhóm hay ít nhất là hai người
ngồi với nhau càng tốt. Nếu họ không biết tọa Thiền, dạy họ quán về từ bi,
theo dõi hơi thở, và cùng ngồi im lặng với nhau.
Tuy nhiên, cũng đừng vì thế mà thuyết phục mọi người trong gia đình phải
ngồi Thiền với bạn. Cách đó chỉ làm họ càng tránh né. Chỉ cần nói: ‘Tôi
thích ngồi Thiền. Tôi sẽ làm như thế’. Vậy là đủ. Ai có thể cãi với chúng
ta điều gì? Hay ‘Tôi sẽ dậy sớm hơn một tiếng’. Tốt. Thức dậy nhẹ nhàng,
êm ái, tránh làm người khác thức giấc theo, vì bạn đâu có muốn cả nhà cùng
dậy ồn ào, trong khi bạn ngồi trong góc phòng, cố gắng Thiền định. Buổi
chiều, lúc nào thuận tiện, hãy vào ngồi ở góc Thiền của bạn. Nhưng phải
đợi lúc TV đã được vặn tắt.
Con người dễ tập thói quen. Khi chúng ta còn nhỏ, mẹ chúng ta thường bảo:
‘Đi đánh răng’. Và chúng ta thường nói, ‘Con không muốn’, hay ‘Tại sao
phải đánh răng’, ‘Con đã làm rồi’ hay ‘Lát nữa con sẽ đánh’. Nhưng các bà
mẹ vẫn kiên trì: “Đi đánh răng”. Dần dần ta cũng làm theo, và theo thời
gian, ta đã có thói quen đánh răng. Ở đây bạn phải đảm luôn trách nhiệm
của người mẹ. Khi tâm ta nói: ‘Tôi không muốn ngồi’, hay ‘Lát nữa tôi sẽ
ngồi’, hay ‘Bỏ một ngày có hề gì’, ‘Căng quá. Chân tôi đau. Ngày mai tôi
sẽ ngồi’; bạn đừng nghe theo nó, mà phải nói; “Đi ngồi đi. Nhanh lên.
Không có gì đáng làm hơn chuyện đó”.
Khi còn nhỏ, ta không hiểu tại sao phải đánh răng, giữ răng cho sạch. Mẹ ta
luôn nhắc rằng nếu không chúng sẽ rụng hết, ta cũng chưa chắc hiểu rụng là
thế nào. Làm sao mà răng có thể rụng được, ta thầm nghĩ. Còn bây giờ bạn
nghe nói: “Nếu bạn không tham Thiền, tâm bạn sẽ thiếu minh mẫn”. Có thể
ta cũng không hoàn toàn hiểu tâm minh mẫn là như thế nào. Nhưng ta cần
phải tự nhủ với mình như một người mẹ nói với con: “Điều đó tốt cho con.
Hãy làm đi”. Bạn phải lo chăm sóc cho tâm mình, nếu không tâm sẽ không
lo cho bạn đâu.
Đó là một thói quen tốt, trong sạch, nó dẫn ta đến con đường thanh tịnh
hóa. Những thói quen của tư tưởng sẽ tạo hình cho cá tính của ta và dẫn dắt
ta đi vào những nẻo đường tâm linh, đường đến với Đạo.
Nếu ta không sử dụng tâm cho một mục đích nào khác hơn là chỉ để sống
và hưỡng thụ, thì đó là một sự lãng phí thời gian. Dĩ nhiên là ta phải sống,
mới có thể hành Thiền, nhưng không phải vì thế mà để cho nó chiếm hết tâm
tư của ta. Ta phải thêm vào yếu tố chánh niệm và thực tập nó suốt tất cả thời
gian tỉnh thức của ta. Bất kỳ ta làm gì -nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa, chợ búa
hay đi đứng- đều có thể là một bài học về chánh niệm. Khi đang rửa chén,
đừng nghĩ đến việc bạn sẽ làm sau khi làm xong công việc nhàm chán đó,
nhưng phải hoàn toàn để tâm vào từng thao tác trong việc rửa chén. Khi
đang lau nhà, đừng nghĩ đến làm sao cho rồi việc, nhưng chú tâm vào từng
chuyển động; đó chính là chánh niệm.
Tất cả những tư tưởng tiêu cực đều khiến tâm thoái hóa. Tâm giống như
thân, cũng sẽ bị hoại diệt, hư hao qua thời gian sử dụng. Nó sẽ trở nên bớt
trong sạch với những ý nghĩ vụng về. Khi nào có những -‘Tôi không thích
điều đó. Tôi không muốn làm điều đó. Tôi muốn thoát ra khỏi đây. Tôi
căm thù việc nầy. Tôi ganh ghét. Tôi hảnh diện vì nó’- trong tâm, ta trở nên
yếu đuối hơn, đánh mất chánh niệm, sáng suốt một lần nữa.
Chánh niệm có thể đem áp dụng vào hành, vào cảm thọ, vào tư duy, hay
vào các trần, tùy hoàn cảnh. Thí dụ khi đang có cảm giác buồn, sự chú tâm
được đặt vào cảm giác ấy với cái biết rằng nó sẽ không mang lại lợi ích gì
cho ai. Chúng ta biết là cần phải thay thế nó bằng những tình cảm khác, hay
buông bỏ nó. Khi đang suy tư, phải hoàn toàn biết quá trình tư duy, và biết
đối tượng tư duy. Có nghĩa là biết điều mình suy nghĩ là tốt hay xấu.
Việc nầy cũng sẽ trở thành thói quen, để chúng ta tránh khỏi việc trách
móc người khác. Nó phủi sạch tấm màn nhện của quá trình tư duy, làm
chúng trở nên rõ ràng, dễ hiểu. Chúng ta biết rõ ràng những gì xảy ra bên
trong nội tâm mình, và chung quanh ta.
Đó là công việc của mười-lăm-tiếng mỗi ngày, tùy thuộc vào thì giờ ngủ
nghĩ của ta. Trừ khi công việc nầy được thực hiện trong suốt thời gian hay
phần lớn thời gian tỉnh thức của ta, nếu không ta khó có hy vọng tọa Thiền
thành công. Ngược lại, ta khó có được chánh niệm nếu không thực tập
Thiền. Hai việc nầy hỗ trợ nhau. Ta phải thực hành Thiền dầu ta có nghĩ
rằng sự tu tập của ta là thành công hay thất bại. Đó là vấn đề của lòng kiên
nhẫn, chịu đựng, kiên quyết và tinh tấn. Ta chỉ có việc phải ngồi và thực
hành.
Trong suốt mười ngày ở Thiền viện đây, bạn đã có được cơ hội quý báu để
ngồi và thực hành, và đã có được chút ít kết quả. Khi trở về nhà, sẽ có ít
thời gian để thực tập hơn, kết quả sẽ không giống như thế nầy, hay tiến bộ
hơn. Thiền định là một thành quả mong manh. Nó cần được nuôi dưỡng,
chăm sóc cho xứng đáng. Định vô lượng là hạt kim cương ít người trên cõi
đời nầy với tới được. Họ có thể được đọc về nó, nghe về nó, nhưng như thế
thì ích lợi gì cho họ. Nó sẽ không có ý nghĩa gì, trừ khi ta kinh nghiệm được
nó, và sự thành tựu ít có được nầy đáng được trân trọng cho xứng đáng với
giá trị của nó; nghĩa là phải luôn trao chuốt để nó mãi sáng chói.
Ngoài ra Thiền định cũng giúp cho sự chánh niệm của ta trong đời sống
hằng ngày. Đối với những ai chưa đạt được trình độ Tu-đà-hoàn (streamentry),
gần phân nữa những gì dấy lên trong tâm họ đều là ô uế. Khi ta biết
cảnh giác như thế, ta sẽ dễ dàng buông bỏ các vọng tưỡng vì ta đã học làm
thế trong Thiền định.
Ta cần phải tránh một cuộc sống lờ mờ, không chủ định. Sự huyền diệu
của trạng thái tỉnh thức không phải là đối ngược với giấc ngủ. Mà là đối
ngược với trạng thái không chủ định. Phần lớn chúng ta không biết mình
làm gì, nghĩ gì, cảm giác ra sao. Nên chúng ta chọn một giải pháp dễ dàng
là nữa tĩnh nữa mê. Đó là trốn tránh khổ đau. Nhưng biết khổ cũng là biết
sự thật, là khổ đế trong tứ diệu đế của Đức Phật. Bất cứ ai trước khi muốn
thoát khổ, cũng cần phải biết rõ về cái khổ. Khi đã biết cái khổ mà không
tìm cách giải thoát thì thật là điên rồ. Không có lối thoát nào ở ngoài ta, hay
có thể thoát ra bằng sự ơ thờ, ngơ ngác. Con đường giải thoát duy nhất là
quay trở vào bên trong, để nhìn thấy mọi sự rõ ràng. Mọi ngõ thoát khác
đều là ngõ cụt.
Mỗi tuần nên Thiền chung với bạn bè, để tạo sự phấn khởi trong ta. Năng
lực của đám đông có giá trị riêng của nó. Năm uẩn là rào cản, làm cho cuộc
sống của ta thêm khó khăn. Và liều thuốc đối trị hiệu nghiệm nhất cho
chúng là thiện tri thức, là những cuộc trao đổi về Phật Pháp cao siêu. Đừng
tham gia vào bất cứ những cuộc đối thoại nào. Bạn đâu có ăn những thức ăn
có thể độc hại cho cơ thể, thì cũng đừng hấp thụ vào tâm những thứ độc hại
như tán gẫu, nói chuyện người, nói thị phi, bàn chuyện thời sự, bàn về sách
tiểu thuyết rẻ tiền hay chỉ nói để mà nói. Những thứ đó sẽ đầu độc tâm ta và
dẫn ta đi vào con đường tà.
Một phương thức khác để thấm nhuần Phật Pháp là nhìn mọi hoàn cảnh,
mọi kinh nghiệm -dù lớn hay nhỏ - theo cái nhìn của Pháp. Khi bạn nhìn
thấy một bụi cây với những bông hoa tươi đẹp cùng những bông hoa khô
héo trên cành, tâm bạn nên nghĩ đến sự sinh tử, hoại diệt. Hay khi bạn nhìn
thấy chú chim nhỏ đang chăm chút xây tỗ, kiên trì tha từng cọng rơm để làm
cho chiếc tổ được chắc chắn, ấm êm. Bạn cũng nhìn thấy ở cạnh cây bên
cạnh một cái tổ hoang. Luôn có sự thay đổi. Không có gì thường còn. Đây
là nhà của tôi, tổ của tôi. Bao nhiêu tiền bạc, công sức, thời gian đã bỏ ra để
xây cái tổ đó. Rồi một ngày kia tôi cũng phải bỏ nó mà đi.
Tất cả mọi vật ở chung quanh ta đều có thể được nhìn dưới con mắt Pháp
để nhận ra rằng không có sự bền vững tuyệt đối, do đó luôn mang đến phiền
não, thất vọng. Điều đó không tạo ra cho ta sự chán nản, phiền muộn. Trái
lại, chúng giúp ta thoát ra khỏi đau khổ, phiền muộn, vì chúng giúp ta coi
thường mọi việc xảy ra. Làm giảm bớt lòng ham muốn trong ta, vì ta biết
rằng mọi ham muốn đều không thể được hoàn toàn thỏa mãn, vì mọi thứ đều
vô thường.
Chánh Pháp ở trong tim ta. Chứ không ở trong các chùa chiền, y áo, hay
các gốc cây bồ đề. Pháp chỉ có thể trụ ở một nơi. Những ai biết đem nhập
Pháp vào tâm và hành Pháp, họ chính là đền đài chứa đựng Phật Pháp. Gạch
ngói làm nên chùa chiền. Cũng như cây Bồ đề, các hình tượng đều chỉ là
biểu tượng. Chúng ta cần các biểu tượng để nhắc nhở vì ta rất dễ quên.
Nhưng chánh Pháp trụ ở những trái tim biết sống theo chánh Pháp.
Đức Phật đã nói: “Ai nhìn thấy ta, là thấy Pháp. Ai thấy Pháp, là thấy Ta”.
Sống ở thời đại nầy, ta không hy vọng thấy được Phật sống, nhưng điều đó
không cần thiết vì “Ai thấy Pháp, thấy Ta”. Nếu bạn có thể tự thấy Pháp
trong tim mình, thì bạn có thể thấy Phật. Phật chỉ là tánh Giác của ta. Vì thế
nếu ta có Pháp trong lòng, thì ta cũng có Phật ở gần bên ta. Ta không cần
phải đi tới đâu đâu để tìm Ngài. Ta không cần phải làm gì đặc biệt để được
gặp Ngài. Bạn chỉ cần có chánh niệm và chuyển đổi cái xấu thành cái tốt.
Có đơn giản không? Nhưng đơn giản, không có nghĩa là dễ dàng. Đó là
những việc khó làm, nhưng chắc chắn sẽ đem lại lợi ích cho chúng ta.
Những lợi ích không có gì có thể so sánh được. Giờ bạn đã được trang bị
đầy đủ. Tất cả là của các bạn. Hãy sử dụng chúng thật tốt.
Diệu Liên-Lý Thu Linh
4/2005
---o0o---
HẾT