Ngày Tháng Buồn Hiu
Tác giả: Ngọc Ánh
.
.
Phần 3
Ông già Noel là Mẹ!
Tôi có hai đứa con mà đứa nào cũng mồ côi
cha rất sớm.
Khi thằng con trai đầu lòng được hơn một
tuổi thì bất hạnh xảy ra, vợ chồng con cái nhà tôi kéo nhau vào trại giam không
hẹn ngày về... Thật ra câu chuyện đáng buồn này nếu nhìn theo góc độ nào đó
cũng không có gì bi thảm, bụng làm thì dạ ráng chịu vậy. Bất cứ ai còn có tấm
lòng với quê hương đất nước khi nhìn thấy cảnh trái tai gai mắt, áp bức bất
công xảy ra trong cái gọi là Xã hội chủ nghĩa mà Cộng sản miền Bắc xâm chiếm và
thống trị miền Nam sau ngày 30/4/75 thì cũng làm như chúng tôi thôi, dù sự phản
đối được thể hiện bằng cách này hay cách khác. Vợ chồng chúng tôi bị bắt về tội
phản động, nhà cửa bị niêm phong và tôi chỉ kịp mang theo mấy gói gạo lứt Bích
Chi cùng ít khăn tả cho con.. Ngoài ra tất cã đều mất hết, kể cả tính mạng của
chồng tôi.
Nhưng điều tôi ân hận nhất đời là
phải đẩy thằng bé vào trong hoàn cảnh khốn khổ này. Đêm Giáng Sinh đầu tiên
trong phòng biệt giam tăm tối ở một tỉnh nhỏ xa lạ ngoài Trung, tôi nghe tiếng
chuông nhà thờ đổ rất gần, tôi ôm thằng bé đang khóc ngất vì đói sữa mà nát cả
lòng “Lạy Chúa con là người ngoại đạo, nhưng tin có Chúa ngự trên cao...” Tôi
thành tâm cầu nguyện theo cái cách riêng của mình để mong Chúa nghe thấy, nhưng
chắc Ngài cũng bận rộn với hàng triệu triệu con chiên đang khốn khổ trong cái
xã hội loi nhoi ngoài kia cần cứu rỗi hơn, nên bóng tối vẫn phủ trùm quanh đây
sự im lặng đáng sợ và tôi lại mơ đến ông già Noel đầy huyền thoại của tuổi thơ”
Ước gì ông già Noel là có thật để ông mang đến đây một bình sữa cho thằng bé
nhà tôi”
Rồi những năm tháng lạnh lùng trôi qua
trong trại giam, chồng tôi bị tử hình sau đó không lâu, con trai tôi qua những
cơn sốt nặng không thuốc men, thiếu dinh dưỡng, thoi thóp trong hôn mê kéo
dài... Để khi tỉnh dậy thì tay chân co rút và lưỡi líu lại, một bác sĩ tù nào
đó nói với tôi về di chứng của bệnh viêm não. Tôi tuyệt vọng tưởng mình có thể
giết chết đứa bé và tự tử để thoát khỏi kiếp lưu đày. Nhưng khi nghe tiếng kêu
thét đầy hoảng sợ của con, tôi lại chùn tay bật khóc!.. Gương mặt ngây
thơ của nó đáng yêu biết bao nhiêu, tôi phải sống để giữ lời hứa với anh ấy là
sẽ nuôi dạy nó nên người, cho dù bây giờ hình hài nó không còn giống như bao
đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cho dù chúng tôi đang sống trong sự trả thù
hèn hạ của bên chiến thắng, nhưng tôi không thể dạy nó lòng căm ghét kẻ đã giết
cha nó, không thể dạy nó sự oán hận cái xã hội đã đẩy người dân vào bước đường
cùng. Chưa bao giờ tôi kể cho nó nghe về sự thật đáng buồn của gia đình mình.
Tôi không muốn tinh thần nó bị tổn thương, chịu đựng một thân thể khiếm khuyết
cũng đủ làm đau nó cả đời rồi.
Nó chỉ là thằng bé tật nguyền lớn lên ngơ
ngác giữa núi rừng hiu quạnh, bệnh hoạn èo uột như rong rêu bám vào cái lu mẻ ở
xó hè, như bụi cỏ dại mọc trên bờ tường đá quấn đầy kẻm gai sau trại. Cả tuổi
thơ buồn thảm của nó chỉ biết có Mẹ thôi, Mẹ là Trời là Đất, là nắng sớm là mưa
chiều, là trăng treo ngoài cửa sổ, là tiếng cú kêu thê thiết đêm sương lạnh...
Tôi gom hết những yêu thương dành cho nó, tôi cố đem những kiến thức mà tôi có
được để mong dạy cho thằng bé quen dần với đoạn đời đầy gian khổ hôm nay, nhưng
có lẽ nó quá nhỏ bé để cảm nhận ra cuộc sống bất thường này, nên dễ dàng chấp
nhận hiện tại trong sự hồn nhiên đến xót xa. Mỗi ngày đối với nó đều là những
trang sách mới toanh với nhiều điều thú vị mà thằng bé ba- bốn tuổi đầu như nó
luôn hồ hởi phấn khởi để ..nghe, từ một chiếc lá rơi bên hàng rào hay hòn sỏi
lượm ngoài bờ suối trong lúc đi lao động, hoặc lông chim vướng ngoài bụi tre
đều là những câu chuyện cổ tích đầy sinh động mà tôi cố gắng tưởng tượng ra để
làm quà cho nó. Và dĩ nhiên hình ảnh ông già Noel tuyệt vời không thể thiếu
trong tuổi thơ tội nghiệp của nó.
Bắt đầu từ cánh thiệp Giáng Sinh của ai đó
gởi vào trại cho người thân, nhưng bị tên Công an gác cổng ném đi không cho
nhận (liên lạc thư từ thăm hỏi đã khó khăn, huống chi loại bưu thiếp xa xỉ của
đế quốc) cánh thiệp nhàu nát lem luốc bị gió cuốn vào đống rơm sau nhà kho và
tôi cũng vội cuốn nó trong vạt áo mang về. Đêm đó hai mẹ con chun vô mùng đốt
đèn lên để ngắm hình ông già Noel có hàm râu dài trắng như tuyết, mặc bộ đồ đỏ
chót và sau lưng vác một bao đầy quà. Tôi nói thao thao với thằng bé như thể
tôi đã từng gặp ông, từng được ông ôm vào lòng và cho những món quà mà tôi đã
viết thư xin ông trước ngày Giáng Sinh hàng năm. Nhưng bây giờ thì khác hơn một
chút, ông quá bận rộn nên không thể đến thăm từng đứa trẻ được, chỉ cho quà
những bé ngoan nếu nó treo chiếc vớ ngoài cửa sổ trong đêm 24 tháng 12. Trong
đống đồ nhàu nát của hai mẹ con, tôi tìm thấy chiếc vớ len cũ kỷ của nó hồi mới
nhập trại, nó có vẻ thất vọng khi thấy chiếc vớ quá nhỏ lại còn bị rách ở dưới
gót, món quà có thể bị rớt mất... Tôi đành phải cắt ống tay áo mình ra may cho
nó cái túi ba gang như trong truyện ăn khế trả vàng và rù rì với bạn bè chung
quanh xin ít kẹo bánh để dành làm quà cho nó. Ông già Noel đã hứa như vậy mà.
Đêm đó nó ngủ không yên, lâu lâu lại ngóc đầu nhìn ra cửa sổ trông chờ..
Với tôi thời gian này là những khoảng đời
đau buồn nhất mà tôi phải chịu đựng trong cảnh tù đày khốn khổ, nhưng có lẽ là
niềm hạnh phúc của cả hai chúng tôi là được sống bên cạnh nhau trong thời gian
khá dài, khi mà những túng thiếu đói kém đã trở thành chuyện bình thường trong
mỗi ngày qua đi cháo rau hiu hẩm, dù bệnh tật đã đày đoạ thằng bé đến kiệt sức,
có lúc tôi tưởng nó bỏ Mẹ theo Ba...
Nhưng ơn Trời! Nó vẫn sống sót đến ngày rời
khỏi trại giam. Một tổ chức nhân đạo của quốc tế đã vào trại mang nó đi xa hơn,
thoát khỏi gông cùm khắc nghiệt của cái đất nước mà Ba mẹ nó đã chọn ở lại sau
những ngày đen tối đó.
Hơn mười năm mòn mỏi tù đày, cuối cùng tôi
cũng được thả về sau khi bỏ lại cả khoảng trời thanh xuân tươi trẻ của mình
trong trại giam. Ngày về thênh thang đến trống rỗng, tôi không biết mình phải
làm gì, sống ra sao trong những ngày tháng tới.. Mọi thứ đều thay đổi, xa lạ
khiến tôi như hụt chân chới với, cái cảm giác bơ vơ lạc lõng trong thành phố
thay tên lạ lẫm này làm tôi thấy mình cô đơn đến tội nghiệp..
Con bé được sinh ra như một định mệnh trớ
trêu, thật lòng tôi không yêu người đàn ông ấy, nhưng tôi phải cám ơn anh ta đã
cho tôi một sinh linh bé bỏng này, nó đáng yêu biết bao nhiêu khi làm thay đổi
cuộc sống buồn tẻ của tôi.
Được làm Mẹ là một thiên chức cao quý,
trong hoàn cảnh này tuy buồn nhưng tôi thấy nguôi ngoai nhiều khi mỗi ngày nhìn
nó lớn lên hồn nhiên mạnh mẽ. Tôi cố gắng để trở thành người phụ nữ đảm đang
trong vai trò “Ba mẹ là bóng mát, che chở suốt đời con”. Tôi trở lại giảng
đường khi con bé vừa vô lớp một, để sau giờ tan ca mệt mỏi, tôi lật sách ra đọc
thì con bé cũng ê a tập đánh vần, thế mà ròng rã mấy năm trời hai mẹ con “thi
đua lập thành tích”, con bé cứ học sinh giỏi, học sinh xuất sắc đều đều, còn
tôi thì rớt dài dài mấy môn lịch sử Đảng... Nhưng không hề gì, học để có chút
kiến thức nhỏ nhoi trong cuộc sống bon chen này, còn hơn chấp nhận sự thua
thiệt vì dốt nát, tôi vẫn thích tự đứng trên đôi chân của mình, dù mỏi đuối!!
Dĩ nhiên ông già Noel cũng không thể thiếu
trong tuổi thơ êm đềm của con bé, khi thì hộp bút chì màu, con búp bê hay cái
áo đầm trong lứa tuổi mẫu giáo, lớn lên một chút nó biết viết thư gởi ông già
Noel để vòi quà thì tôi “gài độ” thêm mức khen thưởng chăm ngoan cho nó “phấn
đấu tiến bộ”. Có năm nó còn vẻ bản đồ chỉ đường cho Ông già Noel qua phát quà
cho bạn của nó, vì hỏi ra trong cái xóm lao động nghèo này, không đứa nào biết
có Ông già Noel tồn tại trong đời. Để củng cố niềm tin của nó, tôi lại
tốn công gói thêm vài món quà để nửa đêm Noel chờ tụi nhỏ ngủ mà treo lên cây
trứng cá trước nhà. Có thấy được vẻ mặt hí hởn của chúng nó khi nhận quà thì
mới cảm nhận được sự cần thiết của Ông già Noel đầy huyền thoại trong trí tưởng
tuổi thơ, tác động lên việc hình thành nhân cách của trẻ nhỏ, phải ngoan, phải
chăm học, phải biết vâng lời cha mẹ thầy cô thì mới có quà. Và con bé tôi đã
lớn lên trong niềm tin như vậy, cứ mỗi năm nó lại gởi thư cho Ông già Noel tâm
sự vòng vo ở đoạn đầu và xin quà ở đoạn cuối, thỉnh thoảng nó còn chê ông viết
chữ khó đọc hơn năm ngoái hay chỉ viết có mấy dòng khi bây giờ nó đã biết đọc
rào rào. Và tôi lại cố rèn chữ theo ý nó, viết lưu loát tình cảm hơn ... Cho
đến năm nó lên 12 tuổi, một hôm từ trường trở về, nó thủ thỉ với tôi “Tụi bạn
con nói không có ông già Noel đâu, là Má mày làm đó, nghĩa là sao Má?”.
Tôi chợt khựng người bối rối, thật
lòng lúc đầu bịa ra câu chuyện Ông già Noel tôi chỉ muốn con mình vui trong
cảnh mẹ góa con côi, nhưng nếu sự dối trá là một điều không thể chấp nhận được
đối với trái tim ngây thơ, và niềm tin hồn nhiên của con trẻ, thì có lẽ tôi
cũng nên quỳ sám hối về những gì mà tôi đã làm cho các con tôi trong tuổi thơ
cô đơn bất hạnh của chúng nó. Tôi ôm con bé vào lòng với niềm xót xa thương cảm
“Ông già Noel chỉ có thật khi ai tin vào điều đó, nếu con tin thì ông ấy sẽ yêu
thương con, sẽ ở bên cạnh con, cũng như Má vậy thôi, con tin là Má luôn yêu
thương con thì Má sẽ giữ mãi tình yêu đó cho con.”
Thế đấy, chuyện ông già Noel là có thật
trong tuổi thơ của tất cả trẻ em trên trái đất này, hàng năm bưu điện khắp nơi
vẫn nhận đầy thư gởi cho Ông già Noel, và họ cũng chuyển những gói quà đến các
trẻ nhỏ dưới nhiều hình thức khác nhau, để tạo nên mùa Giáng Sinh lung linh
sống động, biểu tượng Ông già Noel là hạt giống của niềm tin, của hy vọng, của
tình yêu thương không biên giới được chia xẻ ấm áp, là trái tim nhân hậu, là
tấm lòng bao la của cha mẹ dành cho các con, cho dù khi chúng nó nhận thức rằng
Ông già Noel chỉ là sản phẩm tưởng tượng của người lớn, nhưng cả thế giới không
ai cảm thấy thất vọng về niềm tin hoang đường này, thật lòng mà nói, có phải
bạn cũng thích được nhận quà trong đêm Giáng Sinh? Dù chỉ là một tấm card mỏng
manh hay cái ôm choàng thân tình của bạn bè, người thân. Sự ấm áp có sức lan
tỏa kỳ diệu trong cái lạnh giá của cuộc sống hôm nay. Hãy tin như vậy đi.
Nỗi xót xa riêng
Tôi và nó bà con với nhau, nó con nhà cậu,
còn tôi nhà cô, hai đứa xuýt xoát vài ba tuổi nên chơi thân từ nhỏ, mỗi
lần nghỉ hè thì nó theo “mợ Năm” về thăm quê, ngang chợ Sóc Trăng, mợ luôn ngủ
lại một đêm với tôi lấy cớ đường xa nghỉ mệt, và lần nào vô mùng mợ cũng ôm tôi
muốn ngộp thở, tôi nghĩ là mợ thương cháu gái vậy thôi. Sóc Trăng của tôi chẳng
có gì để khoe với nó ngoài cảnh đẹp ở “hồ nước ngọt” nên tôi rủ nó lội bộ ra đó
đi thơ thẩn rồi về ngang cầu Bon tôi đãi nó ly sâm bổ lượng, lần nào nó cũng ăn
lẹ để “lấn” qua nửa ly còn lại của tôi…Rồi hôm sau mợ xin Má tôi dẫn luôn hai
đứa vô Xẻo Gừa chơi, vì là “dân chợ” nên bọn tôi thấy cảnh quê cái gì cũng lạ
nên thích lắm khi theo mấy đứa hàng xóm lội ruộng bắt cá lia thia đá chơi hay
bứt cọng năng ăn cái lõi trắng dòn dòn…
Lâu lâu thì Má tôi dẫn lên Sàigòn thăm bà
con, nhà ai cũng nghèo chỉ có cậu Tám làm ăn khấm khá nhờ có cái xe lam chở
hàng bông đi bán dạo. Nghỉ hè cậu chở hết cả bầy con cháu ra “Cấp” chơi, khỏi
nói là đứa nào cũng náo nức để được giởn sóng biển xanh, đối với bọn tôi thời
đó đi Vũng Tàu là một mơ ước xa xỉ.
Cứ thế mỗi mùa Hè là dịp để bà con gặp
nhau, tôi lên Sài gòn nhiều hơn là nó xuống Sóc Trăng, hai đứa đi lang thang từ
chợ cá Trần Quốc Toản đến cầu Khánh Hội để chơi với đám con cậu Tám, cậu Mười,
nó lớn một chút nên cuối tuần theo cậu năm phụ hồ, để dành tiền bao tôi ăn bò
bía ở “hồ con rùa”, ngược lại tôi cũng để dành tiền ăn sáng để mua báo “Tuổi
hoa” cho nó coi mệt nghĩ. Hai đứa bàn luận chuyện trời trăng coi mòi tâm đắc
lắm, mà lạ, nó luôn tâm phục khẩu phục tôi trên bất cứ vấn đề nào. Có lẽ tuổi
tôi hơn nó, học giỏi hơn nó hay vì tôi là người con gái duy nhất biết chia xẻ
với nó những tâm tình của thời mới lớn mà nó tin cậy được. Không chắc là tôi
“thông thái” gì ở tuổi ăn chưa no lo chưa tới, nhưng tôi siêng đọc sách và biết
lỏm bỏm nhiều chuyện hơn nó. Con gái bao giờ cũng lanh hơn con trai ở lứa tuổi
này.
Tháng 4/75 tôi lên Sàigòn trước khi bãi
trường vì bà Ngoại tôi đau nặng… Cả thành phố lúc đó như muốn vở tung qua những
bản tin chiến sự hàng ngày, nhưng tôi và nó thì vô tư trước thời cuộc, cái thờ
ơ của người ngoài lề khi nghĩ đến chiến tranh đang xảy ra ở đâu đó xa xôi không
dính tới phố thị của mình. Thật tình tôi không có khái niệm gì về chủ nghĩa
Cộng sản, về sự chiến đấu của Quân đội Việt Nam Cộng Hòa, về cái đúng sai của
chế độ mà tôi đang sống. Tôi hoàn toàn mù mịt đến ngu ngốc, thiên đường ngông nghênh
của tôi là trường học, bạn bè và những bướm hoa lãng mạn… Tôi sẽ buồn nếu ngày
mai mình không đến lớp được nhưng không biết rằng từng giây hiện tại có bao
người đã ngã xuống trong cuộc chiến kinh hoàng này để tôi biết xót xa đau đớn…!
Ôi, cái tôi vô tâm đáng trách.
Cả nhà “cậu mợ” tôi bình thản chờ đợi, “Cậu
năm” tôi nói “sẽ có Hòa bình, mọi người sẽ no cơm ấm áo”. Tôi và nó đều ngơ
ngác nai vàng...
Ngày 28/4/75 Tôi và nó đi vòng vo quanh khu
chợ xem người ta “di tản”. Thiên hạ ùn ùn kéo nhau đi đâu không biết, xe cộ
ngoài đường hối hả phóng nhanh, tiệm giặt ủi ở đầu hẻm bỗng nhiên liệng ra
đường từng xấp quần áo kaki còn thẳng nếp hồ, ai cũng lo lắng khi chứa trong
nhà những quân trang quân dụng của lính… Tôi và nó lượm được hai bộ đồ bay, áo
dính liền quần với nhiều túi có dây kéo, để dành mặc ngũ ngoài sân gác, trùm
kín mít thay mền. Nó cũng thú vị khi ôm về một thùng giấy trắng để dành đóng
tập học, còn tôi thì nghĩ đến việc để dành quay roneo mấy cuốn đặc san cho
lớp... Vậy đó, tôi quanh quẩn dưới đáy giếng của mình, hồn nhiên như rong rêu,
củi mục lềnh bềnh trên nước đọng, ngu ngốc dại khờ.
Tàn cuộc chiến, hòa bình đâu không thấy,
chỉ thấy Sàigòn bỗng chốc hoang vắng tha ma, màu cờ đỏ rợp trời như cỗ áo quan
chói chang nhức mắt. Ngoại bớt bệnh và tôi trở về phố nhỏ của mình trong một
chuyến xe đêm khoắc khoải. Hình như có cái gì đó vừa tan vở trong tôi, sự thất
vọng hoài nghi về một tương lai mịt mờ phía trước, Sóc Trăng của tôi xơ xác như
vừa qua cơn bão dữ, Thầy trò đến lớp bằng nỗi ngập ngừng dè dặt trên mỗi bước
chân quen, bạn bè nói đến tên một ông Thầy quay súng vào đồng nghiệp kêu gọi
đầu hàng và kéo cờ đỏ giữa sân trường sáng ngày 1/5/75 khiến mọi người sửng sờ,
chết điếng. Cuộc họp đầu tiên của trường Hoàng Diệu ở rạp hát Nguyễn Văn Kiển để
nghe mấy ông Quân quản nói thánh nói tướng về một thế hệ tuổi trẻ Hồ Chí Minh,
nghe mà phát chán. Cả bọn tôi lẻn về khi thầy Tráng đang kêu tên tôi lên phát
biểu gì đó như là “hồ hởi phấn khởi cám ơn Đảng mới có ngày hôm nay..” Xin lỗi
thầy, em không thể làm con vẹt để nói những lời trâng tráo đó, em chưa thấy
“hoà hợp hòa giải” với mấy tên “Kách mệnh” này đâu thầy ơi! Lần đầu tiên tôi
cảm nhận ra sự mất mát hụt hẩng của chính mình, tự dưng thấy như chới với.
Nhưng chuyện làm tôi bất ngờ sửng sốt nhất
trong cuộc đổi đời này khi biết được tôi và nó là chị em ruột… Má tôi chính là
Cô sáu, em của “Cậu Năm” bà không có con gái nên mới xin tôi về nuôi khi còn đỏ
hỏn, làm khai sanh cho tôi lấy họ Trần của dượng, “Mợ Năm” nể chồng không dám
cãi nên lâu lâu chỉ biết ôm tôi chặt cứng trong mùng và tôi cũng hồn nhiên rúc
vào lòng “mợ” tìm hơi ấm cho giấc ngũ thơ ngây. Hèn gì…
Trong khi tôi vùng vằng khóc hết nước mắt
chia tay với Ba Má tôi để về Sàigòn “đoàn tụ gia đình” thì nó vui ra mặt lúc
đón nhận tin này, nó gọi tôi bằng “chị Tư” đầy thân thiện. Mấy ngày đầu thấy
tôi mặt mày ủ ê rầu rỉ tiếc nhớ về Sóc Trăng một thời yên ổn đã mất thì nó lăng
xăng lấy xe đạp rủ tôi đi uống sinh tố, chở tôi đi đây đó đở buồn. Khi chạy
ngang trường Chu Văn An, nó than với tôi là bạn bè của nó ngày càng vắng, không
biết biến đi đâu. Tôi nói như hét “thì lên rừng đi Kinh tế mới hay xuống biển
vượt biên chớ đâu”. Không hiểu sao tôi lại bực dọc cau có với nó. Chuyện giải
phóng này đâu phải lỗi của nó đâu?
Xã hội mới xếp gia đình tôi vào loại “lớp
nghèo thành thị” nghĩa là thành phần nhân dân lao động không dính dáng đến
“ngụy quân ngụy quyền” nên cho nó tham gia vào đội đoàn nòng cốt của Phường
khóm. Nó đi họp ngày họp đêm về chánh sách mới của Xã hội chủ nghĩa, nó huênh
hoang tự hào về lý tưởng, về chủ nghĩa vô thần của Mác Lenin, người ta bơm
thuốc trừ sâu vào cái đầu non nớt của nó “nào là thế hệ HCM vinh quang, nào là
tổ quốc nằm trong tay của tuổi trẻ v.v và v.v” khiến nó tưởng mình là dũng sĩ
khi hăm hở tình nguyện đi “nghĩa vụ quân sự” đợt đầu tiên. Ngày nó về
khoe với tôi là được kết nạp Đoàn, một danh dự cho thanh niên thời này, tôi chỉ
cười lặng lẽ khi nhìn con ngựa non háo thắng, không chắc là vẽ vang gì đâu nhóc
ơi. Tôi chưa biết gì về Cộng sản nhưng tôi biết từ ngày “giải phóng” đến giờ,
miền Nam bỗng trở thành nghèo đói, nhà nhà đều ăn bo bo, thực phẩm thuốc men
cái gì cũng thiếu… Vậy mà no cơm ấm áo cái nỗi gì, Xã hội chủ nghĩa chỉ là viên
thuốc độc bọc đường bằng những danh từ hoa mỹ, lừa dối lòng dân thôi. Càng ngày
nó như xa dần tôi với bộn bề “công tác”, tôi mơ hồ nhận ra giữa chúng tôi có
một khoảng cách vô hình.
Câu chuyện bùng nổ khi tôi phát hiện ra cục
phấn tròn vo trên tay nó “Ở đâu em có cái này?” nó cười khẩy “Em bẻ trong tượng
Phật ra”. Tôi hét lên như gặp ác quỷ, “Sao em lại làm việc điên khùng vậy, bà
Nội sẽ giận lắm nếu biết em đập bể tượng Phật của bà để làm phấn viết bảng”. Nó
nhởn nhơ trả treo: “Phật thánh gì, chỉ là thạch cao thôi mà”. Thế là cuộc tranh
luận xảy ra giữa hai đứa về tín ngưởng, về tôn giáo về chủ thuyết vô thần của
Cộng sản duy vật. Tôi giận nó từ đó..
Ngày nó lên đường đi bộ đội cũng là ngày
tôi rời bỏ gia đình để dấn thân vào nơi nguy hiểm, tham gia trong một tổ chức
chính trị. Nếu trước đây Ba và các chị tôi kháng chiến chống Mỹ thì bây giờ đến
lượt tôi “chống kháng chiến chống Mỹ”. Tôi viết cho nó lá thư ngắn nhưng đầy
xúc cảm “Có thể hai đứa mình sẽ đứng trên hai chiến tuyến đối đầu nhau, nhưng
mãi mãi chị vẫn là chị của em nhóc à!” Máu chảy ruột mềm, tôi nghĩ mình sẽ
không bao giờ bỏ rơi nó.
Mười hai năm sau tôi trở về xơ xác trong bộ
đồ tù rộng thùng thình. Nó đón tôi tươi cười như hồi nào đón tôi mới lên Sàigòn
“đoàn tụ gia đình”. Sự mất mát lần này tuy nhỏ hơn lần trước, nhưng làm tôi đau
âm ỉ cả đời. Năm 75 tôi mất nước vào tay Cộng Sản, còn bây giờ tôi mất cả thời
thanh xuân trong “trại cải tạo” với mức án dài, chồng tôi bị tử hình vì tội
“phản động”...
Cho tới hôm nay nhắc lại chuyện buồn này,
tôi vẫn không ân hận về sự chọn lựa của mình lúc đó. Trong một cuộc chiến đấu,
thua thắng là chuyện bình thường, chỉ có điều đau lòng là đứa con trai duy nhất
của chúng tôi, mới một tuổi phải theo mẹ sống đói khổ bệnh tật suốt mấy năm
trời trong trại giam, tới khi được một tổ chức quốc tế can thiệp đưa ra khỏi tù
thì thằng bé đã bị tật nguyền èo uột vì suy kiệt…
Còn nó bây giờ có vợ đẹp con khôn, cửa nhà
êm ấm, việc làm ổn định. Coi như trong cuộc sống, nó đang là người chiến thắng,
còn tôi, tôi có cái tự hào của kẻ chiến bại. Nó bỏ ra một đêm để kể lể
cho tôi nghe nhiều điều về nó trong thời gian xa vắng, nhưng tôi thì không, tôi
im lặng trước những bất hạnh của mình. Tôi có cái kiêu hãnh riêng tư, tuyệt
nhiên không đứa nào đá động tới chuyện cũ, tới bức thư “hai đầu chiến tuyến”
ngày trước. Mỗi người đều có mục đích để hướng về phía trước. Nó cũng biết tánh
tôi ngang tàng, gai góc, cứ lầm lũi mà đi tới. Miền Nam mười mấy năm qua chắc
nó cũng thấm đau khi nhìn ra thực tế của cái gọi là Cộng sản. Quả bóng lý tưởng
của nó đang xẹp dần bầu nhiệt huyết. Tuy không nói ra, nhưng chắc nó hiểu
những điều tôi hiểu.
Bước đầu trở về tôi sống tạm nhờ người chị
họ xa ở Bình Dương, nhà chị nghèo đông con, ăn uống thiếu thốn, nó gởi tiền cho
chị hàng tháng để lo cho tôi có nơi yên ổn. Mỗi ngày tôi cố tìm việc làm, đọc
báo thấy gần nhà nó có cần người giúp việc, tôi vội vã đến. Chủ nhà còn rất
trẻ, dân Bắc kỳ 75 đanh đá chanh chua, tôi cần tiền nên cũng dẹp tự ái để làm
con sen quần quật từ sáng sớm đến tối mịt mới ngã lưng nằm. Nhiều lúc thấy tủi
thân nhưng tôi phải tập cho mình lòng kiên nhẫn. Một hôm con nhỏ chủ liệng cái
quần lót từ tầng 3 xuống thau đồ tôi đang ngồi giặt rồi cười hăng hắc vì “trúng
mục tiêu” khiến tôi nổi giận thật sự. Tôi chửi con chủ te tét rồi xách giỏ đi
về, không cần đòi món tiền lương hèn hạ của đứa khốn nạn. Đang đứng đón xe bus
trở lại Thủ Đức thì tôi gặp nó đi làm về, nó ngạc nhiên khi thấy tôi lang thang
ở đây, nó kéo tôi vào một tiệm gần đó để ăn và gặng hỏi mãi, tôi ấm ức kể cho
nó nghe mọi việc. Nó cũng bực bội không kém, đòi tôi chỉ nhà để nó mắng con chủ
thêm một trận nữa. Tôi nhìn nó tự dưng thấy nó vẫn y như “thằng nhóc” hồi nào,
bênh chị và bảo vệ chị khi ở xóm có đứa nào gây sự. Bây giờ thì khỏi cần nữa
rồi nhóc à, “chị Tư” làm đại bàng mà, cả xóm nghe tôi tù mười mấy năm, ai cũng
ớn, có người không biết chuyện phán một câu “Con mẹ đó tội gì mà dữ vậy,
chắc cũng giết người mới ra nông nổi!”. Nhớ hồi trong trại, cán bộ khai cung
gằn giọng chỉ vào mặt tôi “ Giết một người là bị tội tử hình rồi, còn chị thì
ghê gớm hơn, chị âm mưu giết cả chế độ, tội chị xử bắn hàng trăm lần cũng chưa
đáng”. Tôi nhớ lúc đó mình đã cười phá lên khi nhìn gương mặt “khẩn trương” của
hắn “Có thật là tôi nặng tội đến vậy sao?” Thật buồn cười những từ đao to búa
lớn của Cộng Sản nghe sợ chết khiếp!
Sau lần đó nó năn nỉ tôi về ở với gia đình
nó, nhưng tôi từ chối... Mấy tên công an phường lâu lâu kêu lên trình diện, hỏi
han này nọ về lý lịch trích ngang, khiến tôi ngán ngẫm. Ở không được thì đi, mà
đi đâu bây giờ? Tôi không có một phân vàng lận lưng thì nói gì đến chuyện tìm
đường vượt biển. Thời buổi nhất thân nhì thế này dễ gì tìm một chổ làm ổn định…
May nhờ mấy người bạn cũ chỉ giúp, tôi xin vào làm công nhân cho một xưởng gỗ
trên Bình Dương, ban ngày làm hai ca, tối về học thêm một khóa hàm thụ, biết
thêm chút chữ nghĩa cầu may. Nó mua cho tôi một đống sách vở, ông Thầy cũ cho
chiếc xe đạp, bạn bè có đứa đóng dùm tiền học. Tôi ạch đụi chèo thuyền nước
ngược mấy năm trời mới lấy được cái bằng “học đại”…
Nhân buổi tiệc liên hoan của trường, tôi
đứng lên kể về thành tích “cua rơ xe đạp” của tôi suốt mấy năm qua, từ Bình
Dương đạp về Quận Nhất sau giờ tan ca để kịp vào lớp học luyện thi, nhiều hôm
trời mưa, xe cán đinh xẹp bánh, tôi lết về nhà cũng đến nửa đêm. Tôi nhìn xuống
cuối giảng đường thấy gương mặt nó hân hoan chia xẻ, tôi đâu muốn rủ nó tới đây
nhưng nó cũng tới để tự hào về gương vượt khó của “chị Tư”. Tôi biết nó xót
thương tôi, nhưng nhóc ơi chuyện nhỏ thôi mà, giải quyết cơm no áo ấm cho dân
chúng trong cái Xã hội chủ nghĩa của nhóc mới là chuyện lớn, hãy ngồi vào phòng
họp với mấy tay Đảng Ủy để nói thẳng với bọn họ rằng đừng lếu láo mỵ dân nữa,
người ta chán cái chế độ đầy sự giả trá bịp bợm này rồi.
Nói thì nói vậy, chớ tôi biết nó cũng chỉ
là tên đảng viên quèn trong cái thời buổi bát nháo lưu manh giả danh trí thức,
mua bằng cấp giả, bán hàng hóa giả, xài tiền giả, nhơn nghĩa giả… thì mong gì
có một tiếng nói trung thực trong cái chung của cả nước, để đánh động lương tri
những kẻ bán nước hại dân. Bạn bè của tôi cũng vậy thôi, danh vị đảng viên như
cái nhãn dán bên ngoài nồi cơm của những gia đình không có dính líu tới chế độ
cũ nên còn chút cơ hội để vươn lên trong cuộc sống bon chen này. Tôi biết nó
cũng mang trong lòng đầy ắp nỗi thất vọng, leo lưng cọp dễ gì leo xuống, nó
thừa hiểu nghĩa của cụm từ “thanh trừng nội bộ” là thế nào mà, nó chỉ là con
mèo nhỏ trong cái hang cọp đầy nguy hiểm, mơ ước bây giờ của nó là tiếp tục học
lên cao học, nó muốn ra nước ngoài...
Những năm tháng mòn mỏi khoắc khoải, tôi
vẫn chờ đợi cái gì đó xảy ra ở ngày mai, nhưng giống như con đỉa sống dai nhờ
hút máu động vật, cái chế độ Cộng sản ác nghiệt hút máu đồng bào này vẫn tồn
tại nhởn nhơ mấy chục năm nay, không biết bao giờ mới sụp đổ. Trong khi người
dân đen sống dở chết dở trong cái “xã hội ưu liệt” này để làm giàu cho bọn tư
bản đỏ phè phởn hưởng vinh hoa phú quý thì cuộc sống của nó, nhân viên kế toán
cho một công ty nước ngoài không phải danh giá gì nhưng trong thời buổi người
ta thiếu nhiều thứ mà nó đủ ăn đủ mặc, tiền bạc đủ xài là ấm quá rồi.
Tôi thì trôi nổi lên tận Thủ Đức, dành dụm
mua được miếng đất cất nhà, tưởng sống yên thân, ai dè nhằm khu giải tỏa,
phường xã bẻ miếng đất ra dọc ra ngang gọi là lộ giới, viện cớ đất mua giấy tay
nên khó đền bù, tôi chỉ còn mỗi cái nền trơ trụi vừa đủ cất mái nhà lá che nắng
che mưa cho hai mẹ con, (cũng nói thêm là ở tù về tôi bước thêm bước nữa, nhưng
bị đạp gai nên đau quá xin ly dị sau đó vài năm, tôi lời được đứa con gái
3 tuổi thỏ thẻ dễ thương, đối với tôi đó cũng là cách giải quyết hợp lý nhất
trong bước đường lênh lênh của mình).
Cuối cùng thì vận may cũng mỉm cười với tôi
khi gặp lại người Thầy cũ sau mấy mươi năm biền biệt, duyên phận gắn bó chúng
tôi thành vợ chồng, anh là người đàn ông rộng lượng mà tôi có thể tin cậy để
tựa vào vai... Sau ngày cưới, anh ấy quyết định mang hai mẹ con tôi rời khỏi đất
nước có quá nhiều bất trắc đau thương này. Quá khứ là điều đáng buồn, tôi cần
phải ra đi, cho dù biết mình như đang trốn chạy một sự thật, giống như người
lính trận buông súng khi chiến trường còn nồng mùi khói lửa, bỏ lại quê hương
còn trăm nỗi nhọc nhằn.
Ngày tôi lên máy bay, nó ra phi trường tiễn
đưa bịn rịn, nó vẫn nắm bàn tay tôi thân thiết như dạo nào, tôi thấy lòng rưng
rưng thương cảm, có lẽ mình cũng nên quên đi câu chuyện “hai đầu chiến tuyến”
của thời chúng tôi còn trẻ, quên đi những hận thù tủi nhục trong giai đoạn tù
đày, quên những cái đáng quên và nhớ những điều đáng nhớ trong suốt năm tháng
đã qua...
Cánh cửa khép lại, tôi quay lưng đi mà còn
thấy dáng nó đứng đó nhìn theo, cái bóng đổ dài gầy guộc cô đơn...
Sau đó vài năm thì nghe tin nó mất vì bệnh
ung thư, ngày tang lễ nó tôi không về được cũng bùi ngùi trong bụng, nhưng tôi
biết nó luôn quanh quẩn theo tôi, trước kia nó mơ ước được du lịch sang Mỹ cho
thỏa lòng thì bây giờ với hồn vía nhẹ tênh, nó sẽ bay được qua đây, không hiểu
sao tôi lại hay tin những điều có vẻ như hoang tưởng như vậy, nhưng sự thật
nước Mỹ là thiên đường của nó mà, “American dream” mà lúc sống nó không
thể vói tới vì quá muộn.
Câu chuyện đã qua lâu rồi, tôi nghĩ mình sẽ
không có đủ can đảm để khơi dậy một vết thương đã liền da theo thời gian, dĩ
nhiên nó vẫn còn dấu thẹo đậm nét trong tâm hồn, mãi mãi khó nguôi ngoai, nhưng
may cho tôi là biết giác ngộ theo kiểu nhà Phật “Oán thù nên cởi chớ không nên
trói”
Gần 40 năm trôi qua, tuổi đời đã già, đã
lớn, tôi nghiệm ra rằng chỉ có lòng khoan dung độ lượng mới giúp ta thanh thản
trong lòng, và tôi đã tha thứ cho họ, những người Cộng sản trong quá khứ cuộc
đời tôi, tha những oan nghiệt mà họ gây ra cho cá nhân tôi, bản án nặng nề đã
giết chết anh ấy và hủy hoại cả thời tuổi trẻ của tôi, nhưng điều đó không có
nghĩa là tôi chấp nhận chế độ Cộng sản tồn tại trên quê hương Việt Nam,
sự áp đặt một chủ nghĩa sai lầm của họ đã và đang giết chết cả một dân
tộc, với bản tính độc tài tham lam, manh tâm bán nước sau khi tàn phá một nền
văn hóa có từ bao đời của cha ông để lại của bọn vô thần Cộng sản là một tội
lỗi kinh khiếp mà lịch sử Việt Nam sẽ đời đời nguyền rủa.
Câu chuyện của tôi kể ra chỉ để nguôi ngoai
nỗi buồn của một cá nhân trong giai đoạn đầy đau thương của đất nước, nếu so
với hàng vạn câu chuyện viết sau ngày 30/4 /75 về những gian nan trên đường tìm
tự do mong manh giữa cái sống và cái chết, hay hoàn cảnh đau đớn khốn cùng của
kẻ ở lại chịu đựng đòn thù trong các trại giam suốt từ Nam ra Bắc đã không có
ngày về, thì nỗi đau của cá nhân tôi chỉ là hạt muối nhỏ không đáng vào đâu
trong đại dương mặn đắng của cả dân tộc đang oằn mình dưới ách Cộng sản hôm
nay.
Nếu có phải làm lại từ đầu, chắc chắn tôi
cũng sẽ chọn con đường cũ để chống kháng chiến chống Mỹ, để cái chết của những
người như anh Trần Thắng Tài và bao anh hùng vị quốc vong thân khác đã nằm
xuống cho quê hương Việt Nam sẽ không phải là sự hy sinh vô nghĩa.
Ngày tháng buồn hiu không hẳn là của riêng
tôi, nó là nỗi buồn chung của một giai đoạn lịch sử mà chúng ta cần phải nhớ
như một kinh nghiệm xương máu. Lịch sử không thể lập lại, chế độ độc tài Đảng
trị phải bị diệt vong thì dân tộc Việt Nam mới có cơ hội đứng thẳng để
xây dựng đất nước giàu mạnh tự do.
Khi cuốn sách này được in ra và tới tay mọi người
thân của tôi là cũng nhờ sự khuyến khích của nhiều người, bạn bè Thầy cô trường
cũ, thân hữu gần xa quý mến và sự động viên chân tình của nhà tôi, anh Nguyễn
văn S., người đã đưa tay cho tôi nắm để tôi dũng cảm bước qua nỗi bất hạnh nửa
đời người.
No comments:
Post a Comment