Sunday, June 5, 2016

Gian Nan và Gian Tham Của Đầu Tư-Nguyễn Xuân Nghĩa


Nguyễn-Xuân Nghĩa - Việt Báo Ngày 160603


Kinh Tế Trung Quốc Đầu Tư Thừa Nên Gây Ra Sản Nhập



Sau ba chục năm ngợi ca phép lạ kinh tế của Trung Quốc, giới chuyên gia quốc tế nghiên cứu kinh tế xứ này đã tạm đồng ý với nhau về một điều, rằng Bắc Kinh phải cải cách, để chuyển hướng tăng trưởng từ đầu tư sang tiêu thụ nội địa. Và trong giai đoạn chuyển hướng ấy, Trung Quốc không thể đạt mức tăng trưởng cao như trong quá khứ.


Nhưng vấn đề lại không đơn giản là tìm một đầu máy khác cho tăng trưởng. Khi đó, người ta phải chú ý đến hai mặt trái ngược là lượng và phẩm hay hư và thực của đầu tư. Bài viết hơi chuyên môn này tìm hiểu cái chuyện trừu tượng đó, để thấy Trung Quốc không thể chuyển hướng thành công như lãnh đạo Bắc Kinh mong muốn hoặc như nhiều nơi vẫn cố tuyên truyền cho họ. Và cuối đường vẫn là nguy cơ động loạn, là rùi ro khủng hoảng.

Trước hết, trong giới nghiên cứu về kinh tế Trung Quốc, nhiều trung tâm mắc bệnh “mê Tầu” vẫn còn tìm lý do giảm khinh để biện bạch về các nhược điểm và tiếp tục ca tụng triển vọng kinh tế của xứ này. Vì tính chất quá chuyên môn của những gì được họ viện dẫn nên dư luận có thể hiểu lầm và tạm kết luận rằng “dù sao ly nước đã đầy được một nửa”.

Tính chất chuyên môn ấy nằm ở cách ước tính khối lượng đầu tư.

Các trung tâm thiên lệch này lý luận như sau: “Trung Quốc thường bị phê phán là đầu tư quá nhiều với hiệu năng kém mà lại tiêu thụ quá ít nên ngày nay mới phải chuyển hướng. Sự thật thì lượng đầu tư của Trung Quốc vẫn còn quá ít nếu so sánh với Nhật Bản hay Nam Hàn, chưa nói tới trường hợp kinh tế Hoa Kỳ, cho nên kinh tế Trung Quốc vẫn còn sức bật”. Cơ sở của lý luận ấy là tính ra tổng số tư bản cố định đã đưa vào đầu tư trong quá khứ và giảm trừ ảnh hưởng của lạm phát rồi chia cho dân số lao động. Lấy số tư bản ấy mà so sánh thì lượng đầu tư của Trung Quốc chưa bằng 10% của Hoa Kỳ, Nhật Bản hay 20% của Nam Hàn.

Ít ai có thể đi vào phép tính rắc rối ấy nên đa số cứ dừng ở kết luận phiến diện: Tầu chưa bằng Mỹ hay Nhật nên còn trớn để tăng, nếu cải thiện được phẩm chất của tư bản đưa vào đầu tư. Khốn nỗi, cải thiện là điều không dễ vì “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa” hay “kinh tế chính trị học kiểu Trung Cộng”.

Đầu tiên, hãy đối chiếu về lượng, thế nào là là nhiều hay là ít, căn cứ trên cái gì?

Tại vùng duyên hải miền Đông, là nơi có trình độ phát triển cao từ xưa tới nay, việc đầu tư có hiệu quả tương đối tích cực và lâu dài. Nó duy trì được nhịp độ sinh hoạt kinh tế, nâng cao lợi tức và khả năng tiêu thụ của tư nhân nên có kết quả bền vững. Hãy nghĩ đến một lon xăng làm đầu máy chạy rồi tự động tìm ra lực đẩy. Vì vậy, nếu máy đã chạy mà đầu tư thêm thì cũng tựa như nước chảy chỗ trũng và có thể gây úng thủy vì… đầu tư thừa.

Ngược lại, tại các tỉnh lạc hậu bị khóa trong lục địa, đầu tư lại có đặc tính là kém hiệu năng như lực đẩy một chiếc xe đạp, là khiến cho tiêu thụ tư nhân lệ thuộc vào đầu tư thay vì ngược lại. Thiếu lực đẩy là xe dừng và đổ. Nếu cứ rót thêm đầu tư vào đây thì chỉ gây thêm lãng phí. Nhưng không đầu tư thì không được vì sẽ loạn to.

Khi ấy, nói chuyện đầu tư thừa hay thiếu là chẩn bệnh sai! Vấn đề là hiệu năng của đầu tư và đấy không là một khái niệm về lượng mà về phẩm.

Trong mọi nền kinh tế đã hay chưa phát triển, ta đều biết đến một giới hạn nào đó của đầu tư. Như thực phẩm dinh dưỡng cho một cơ thể con người, thiếu thì không được mà thừa thì lãng phí và có khi sinh bệnh. Nhưng ngoài yếu tố lượng thì phẩm chất mới giữ phần quyết định về khả năng tiếp thụ có hiệu quả. Trong kinh tế và chính trị, khả năng tiếp nhận ấy có thể gọi là tư bản xã hội hay đầu tư vô hình: là hệ thống luật lệ, giáo dục, bộ máy công quyền, thậm chí nếp văn hóa, trình độ dân trí hay sự khả tín của giao kèo hay hợp đồng, v.v…. Nói chung, đấy là các định chế tương tác của xã hội.

Khi nói đến đầu tư, ta thường nghĩ tới vật thể, như đất đai, máy móc và tư bản, có thể đếm và quy ra tiền. Còn phần đầu tư vô hình kia là cái gì đó mơ hồ và khó đếm, nhưng cũng ảnh hưởng đến hiệu năng hay hiệu suất cùa đầu tư. Nếu thiếu loại phẩm chất vô hình này thì đầu tư có thể dẫn tới sản nhập chứ không tăng sản xuất. Sản nhập là những gì đưa vào đầu tư lại có trị giá cao hơn những gì thu hoạch được, nhập lượng cao hơn xuất lượng là vậy.

Kinh tế Trung Quốc chỉ có lượng mà thiếu phẩm là trong ý nghĩa đó. Xứ này đầu tư rất nhiều, đến độ đi vay để đầu tư, mà kết quả là không sản xuất đủ cho nhu cầu trả nợ và để lại một núi tồn kho ế ẩm bên một núi nợ. Vì sao lại có hiện tượng bất thường như vậy?

Các nhà xã hội học đều có thể biết là sự thịnh vượng không đến từ lượng tư bản trút vào kinh tế mà từ các định chế chính trị.

Định chế chính trị của Trung Quốc là sự bất thường khi đảng lãnh đạo nhà nước và nhà nước cầm quyền về kinh tế nên có toàn quyền điều phối tư bản cho yêu cầu chính trị của đảng. Hệ thống bất thường ấy mới quyết định về luồng tư bản lưu thông trong kinh tế. Và con người ta vốn khôn ngoan cho nên nếu có đặc quyền thì dẫn luồng tư bản đó vào nơi nào có lợi nhất cho bản thân. Tại Trung Quốc, hiện tượng “tư bản thân tộc” (crony capitalism) hay “tư bản đới quần” – tư bản giải rút - là hậu quả tất yếu của chủ trương phát triển tư bản nhà nước và mặc nhiên trừng phạt hay trưng thu tư bản của tư nhân, của tư doanh.

Trong khung cảnh đó mà nói rằng Trung Quốc đầu tư quá nhiều hay còn ít là nói sang chuyện bên cạnh, ở bề mặt.

Một thí dụ nhỏ nhoi mà dễ hiểu có thể minh diễn chuyện đó. Tại một xứ tự do và dân chủ, người ta chấp nhận và còn khuyến khích việc làm giầu. Tích lũy tư bản để kiếm lời là chuyện tự nhiên. Khi tư nhân có một sáng kiến kinh doanh thì xã hội và nhà nước có những định chế yểm trợ việc phát huy sáng kiến này vì nếu thành công, sáng kiến sẽ nâng sao sản xuất và lượng nhân công tuyển dụng lẫn nguồn thu thuế khóa. Trong một xứ độc tài theo kinh tế thị trường để làm giàu cho tư bản nhà nước thì sáng kiến đó của tư nhân sẽ… bị chặn rồi bị cướp.

Đảng viên và tay chân nhà nước sẽ lấy sáng kiến đó làm giàu cho mình! Khi ấy, điều quan trọng cho tư doanh không phải là sáng kiến mà là quan hệ. Phải có quan hệ tốt với đảng viên cán bộ thì mới hy vọng thành lập doanh nghiệp, khai triển sáng kiến nhờ đặc quyền rồi chia chác được mối lời.

Khi cả một kiến trúc vĩ đại của Trung Quốc lại dựa trên mối quan hệ phi kinh tế và rất mờ ám đó thì việc sung dụng tài nguyên đầu tư tất nhiên là bị lệch lạc. Trên bề mặt thì ai cũng có thể phô trương thành tích tăng trưởng, chìm sâu bên dưới là những khoản đặc lợi xuất phát từ tham nhũng. Và các tỉnh nghèo khổ nằm bên trong thì hậm hực nhìn vào sự thịnh vượng ở bên ngoài, của những kẻ ngồi ở trên.

Kết luận? Trung Quốc đầu tư quá sức hấp thụ của một cơ thể quái lạ, phình nở chỗ này mà teo tóp chỗ kia. Nếu không gặp loạn thì mới là điều đáng ngạc nhiên!


Hỏi đáp Y học: Bệnh tiểu đường

Hỏi đáp Y học: Bệnh tiểu đường
04.06.2016
Thính giả tên Tim, ở Massachusetts, hỏi:
“Kính thưa Bác sỹ Hồ văn Hiền.
Tôi tên là Tim, 51 tuổi, hiện cư ngụ ở tiểu bang Massachusetts.
Tôi bị bệnh tiểu đường loại 2, bị cao huyết áp và cholesterol, tôi vẫn uống thuốc và tập thể thao thường xuyên.
Câu hỏi của tôi là về chỉ số đo trong máu của những lần tôi đi thử máu.
Về chỉ số đo (Trig) của tôi luôn cao hơn mức cho phép có lần lên đến 415 và thường là 300 cho đến 310. Con số cho phép là 0-149 phải không thưa Bác sỹ? Và những lần cao nhưng vậy tôi không có một cảm giác hoặc một phản ứng gì trong cơ thể. Những lần như vậy tôi phải cố gắng giảm cân thì chỉ số đi xuống.
Kính thưa Bác sỹ vậy chỉ số đo đó có đáng tin cậy hay không?
Lên đến con số nào thì phải thận trọng?
Ai là người ra chỉ số đo đó?
Về phần Bác sỹ gia đình, ông ấy không muốn tôi uống thuốc cholesterol. Chỉ uống hai loại: Metformin và Lisinopril. Còn ngoài ra nên để ý về vấn đề ăn uống.
Tôi bị những chứng bệnh trên cũng 5 năm rồi, nếu chỉ số (Trig) của tôi cao như vậy trong một thời gian thì sẽ có những triệu chứng như thế nào và tôi có nên yêu cầu Bác sỹ gia đình cho tôi dùng thuốc cao cholesterol hay không?
Xin cảm ơn Bác sĩ."
Bác sĩ Hồ Văn Hiền trả lời:
Thính giả đặt câu hỏi ở Mỹ và đang được chữa trị đầy đủ. Tôi chỉ xin nêu ra một số nhận xét hoàn toàn có tính cách thông tin tổng quát, tuyệt đối không có tính cách hướng dẫn tự định bệnh hay chữa bệnh cho cá nhân.
1. Triglyceride (TG) là một loại mỡ trong máu. Vai trò của nó là cung cấp năng lượng cho các tế bào. Mỗi gram mỡ chứa đến 9 Calorie, so với 4 Cal cho mỗi gram glucose (đường). Triglycerides là kết quả của kết hợp glycerol với các acid béo, làm thành phân tử ester. Các acid béo loại no (saturated fatty acid) thường nguồn gốc động vật (mỡ heo, mỡ bò) và ở dạng rắn (solid) lúc nhiệt độ bình thường. Các acid béo thuộc loại không no (unsaturated fatty acids), thường nguồn gốc thực vật (như dầu olive, soybean, canola oil, avocado) và ở dạng lỏng trong nhiệt độ bỉnh thường. Hiện nay chúng ta được khuyên nên chọn các loại mỡ không no hơn là các loại mỡ no. Các chất mỡ càng không-no càng dễ bị oxy hoá, làm hư và chua, hôi.
Các mỡ triglycerides trong thứ ăn phải được các men tuỳ tạng (pancreatic enzymes) tiêu hoá thành những phân tử nhỏ hơn (monoacylglycerol + acid béo tự do) thì mới hấp thụ qua màng ruột non (lipolysis). Tế bào màng ruột non phải tổng hợp lại triglycerides và gởi chúng vào các mạch lâm ba (lymphatic channels) trước khi nhập vào các tĩnh mạch lớn gần tim. Gan có thể tổng hợp và dự trữ các triglycerides. Các tế bào cần chẻ triglyceride một lần nữa ra glycerol và acid béo trước khi dùng chúng để cung cấp năng lượng. Tóm lại triglycerides trong máu là hình thức trung chuyển của các loại mỡ trong thời gian chúng được hấp thụ ở ruột cho đến khi chúng được tế bào dùng cho mục đích năng lượng.
2. Do đó tự nó, sự hiện diện của triglycerides không gây ra triệu chứng trực tiếp nào trước mắt mà bệnh nhân hay bác sĩ quan sát có thể thấy được. Chúng ta phải đo huyết tương lấy từ mẫu máu đã ly tâm của bệnh nhân trong phòng thí nghiệm mới biết được mức triglycerides cao hay là thấp. Bệnh nhân thường có mức triglycerides giữa 0-149 mg/100 ml máu. Thường bệnh nhân phải nhịn ăn trước đó chừng 12 giờ để tránh chất mỡ vừa mới được hấp thụ sau một bữa ăn, có thể làm mức đo được lên quá cao mà không phản ảnh tình trạng quân bình. Trường hợp thính giả cố gắng sụt cân, có lẽ bằng cách bớt ăn lại, hay kiêng ăn mỡ, cơ thể sẽ giảm lượng mỡ cung cấp từ ngoài vào và dùng 'đốt' những dự trữ sẳn có, cho nên triglycerides trong máu sẽ giảm đi. Đấy cũng là biện pháp đầu tiên mà người ta khuyên bệnhnhân có TG quá cao: bớt ăn lại và vận động nhiều hơn.
3. Các khảo cứu cho thấy TG càng cao thì cơ nguy xơ vữa động mạch (atherosclerosis) càng nhiều, do đó cơ nguy bệnhnhồi máu cơ tim (đau tim), hay tai biến động mạch não (stroke) càng cao. Có thể một phần do mức TG ảnh hưởng ngược chiều đến mức cholesterol tốt (“good’ cholesterol, HDL cholesterol). HDL cholesterol có tác dụng che chỡ cho các động mạch.
Mức triglycerides đáng tin cậy nhiều ít là tuỳ thuộc vào phẩm chất của phòng thí nghiệm và mẫu máu lấy để thử nghiệm, ví dụ bệnhnhân có nhịn đói trước đó hay không, chuyên chở tới phòng thí nghiệm có đúng điều kiện nhiệt độ, thời gian. Suy luận mức đó ý nghĩa như thế nào là nhiệm vụ của bác sĩ tuỳ theo hoàn cảnh bệnhlý của bệnhnhân, ví dụ bệnhcholesterol cao, bệnhgan, bệnhtiêu hoá, bệnhtim mạch, vv
4. Hội chứng chuyển hoá (metabolic syndrome) gồm có:
a. Bụng quá lớn do mập, "bụng phệ" (abdominal obesity,"a large waistline", having an apple shape="hình dạng như trái táo, phình ra ở giữa , thay vì phình ra ở mông và đùi với hình dạng trái lê)
b. Mỡ triglycerides trong máu quá cao (hoặc đang cần phải uống thuốc để hạ xuống)
c. Cholesterol "tốt" quá thấp (HDL=High Density Lipoprotein; "good cholesterol"))
d. Áp huyết cao (hay đang dùng thuốc hạ áp huyết)
e. Đường trong máu quá cao lúc chưa ăn sáng (fasting blood glucose)
5. Nói chung, biện pháp chính cho TG hơi cao là thay đổi nếp sống:
- Chế độ ăn uống, giảm chất mỡ, đường, đồ ăn ngọt, gạo "nâu" (brown rice) thay vì gạo trắng (dễ làm tăng đường máu hơn), giảm hay ngưng rượu, bia; giảm cholesterol, tránh các mỡ "no" (saturated fats) như mỡ heo, bò, chọn các dầu thực vật như dầu olive.
- Giảm cân nếu quá nặng, mập.
- Vận động cơ thể, thể thao, thể dục, đi bộ, tránh ngồi một chỗ (vd xem tivi, ipad)
- Tránh thuốc có estrogen (hormone nữ, ví dụ trong thuốc ngừa thai, thuốc trị các triệu chứng thời tắt kinh, bế kinh của phụ nữ) trong một số trường hợp
- Acid béo 3 omega ('dầu cá') (Omega-3 fatty acids, “fish oil’); liều cao (4gram/ngày) cần bác sĩ biên toa, với sự theo dõi của bác sĩ. Acid béo loại omega 3 là loại mỡ tốt cho tim mạch, giúp giảm triglycerides trong máu (có thể giảm từ 20-50%), giảm nguy cơ đau tim (heart disease và tai biến mạch máu não (stroke). Nên phân biệt: ở đây chúng ta nói về viên dầu cá chứa omega-3 fatty acids chứ không phải dầu gan cá thu (cod liver oil; chứa rất nhiều vitamin A và dùng không đúng có thể ngộ độc vitamin A).
- Chữa các bệnh liên hệ như tiểu đường (diabetes), tuyến giáp suy (hypothyroidism), vv
Chữa trị mức TG cao hơn tuỳ theo trường hợp, theo cách chữa bệnhcủa bác sĩ.
Lý do: thuốc có thể gây phản ứng phụ không tốt (adverse effects), ngoài ra chưa chứng minh liên hệ trực tiếp giữa triglyceride như là một yếu tố độc lập có thể gây ra xơ động mạch (triglyceride level is an independent risk factor for atherosclerosis). Một số bác sĩ không dùng thuốc để trị các trường hợp này nếu TG thấp hơn 500mg/dl.
Theo NCEP (National Cholesterol Education Program; Chương trình Quốc gia Giáo dục và Trị liệu về Cholesterol):
a) Mức TG bình thường: <150mg/dl
b)TG ranh giới (borderline) 150-199 mg/dl:
==>>>Giảm calories trong ăn uống; gia tăng vận động, thể dục, thể thao.
c)TG Cao (high) 200-499 mg/dl
d)TG Rất cao (very high) >500 mg/dl
Đối với triglycerides trên 200mg/dl, theo NCEP, bác sĩ cần đo mức non-HDL cholesterol (tổng số cholesterol trừ cholesterol "tốt" là HDL= LDL+triglycerides) và dùng chế độ ăn uống kèm với thuốc (vd statin) để làm giảm chỉ số này xuống mức [LDL chỉ tiêu +30 mg/dl] . Mức LDL chỉ tiêu (goal level) này từ <100 mg/dl đến 160 mg/dl tuỳ theo bệnh nhân có cơ nguy tim mạch nhiều hay ít.
Theo Hội Nội Tiết Hoa Kỳ:
Chữa trị bắt đầu bằng thay đổi nếp sống (lifestyle therapy), có thể cộng thêm thuốc, mục đích giảm thiểu cơ nguy tim mạch, mục tiêu là làm cholesterol 'xấu' giảm xuống mức theo NCEP hướng dẫn (mức LDL này từ dưới 100mg/dl đến 160 mg/dl tuỳ theo bệnhnhân có cơ nguy tim mạch nhiều hay ít).
a) Mức TG bình thường: <150mg/dl
b) TG Cao nhẹ 150-199 mg/dl
c)TG Vừa 200-999 mg/dl
e) TG Nặng 1000-1999 mg/dl
f) TG Rất nặng >= 2000 mg/dl
Mức trên 1000 mg, có cơ nguy viêm tuỳ tạng (pancreatitis)..
Bác sĩ nên dùng thuốc fibrate (vd fenofibrate hay Tricor) chữa ngay từ đầu (first line treatment)
Chúc bệnhnhân may mắn
BS Hồ Văn Hiền
-------------------------------------
Cảm ơn bác sĩ Hồ Văn Hiền. Chúng tôi cũng xin cảm ơn thính giả đã tham gia chương trình Hỏi đáp Y học này.
Quý vị có thể nghe lại các bài giải đáp trên mạng Internet ở địa chỉ voatiengviet.com
Qúy vị muốn được giải đáp các thắc mắc về những vấn đề y học thường thức, xin gọi đến số (202) 205-7890, hoặc E-mail đến địa chỉ <vietnamese@voanews.com> để sắp xếp hẹn trả lời cho buổi phát thanh kế tiếp.
Các bác sĩ của chuyên mục Hỏi đáp Y học Trực tiếp của đài VOA sẽ cố gắng giải đáp các thắc mắc về y học của qúy vị.