Nguyễn-Xuân Nghĩa -
Việt Báo Ngày 160603
Kinh Tế Trung Quốc Đầu
Tư Thừa Nên Gây Ra Sản Nhập
Sau ba chục năm ngợi ca phép lạ kinh tế của Trung Quốc, giới
chuyên gia quốc tế nghiên cứu kinh tế xứ này đã tạm đồng ý với nhau về một
điều, rằng Bắc Kinh phải cải cách, để chuyển hướng tăng trưởng từ đầu tư sang
tiêu thụ nội địa. Và trong giai đoạn chuyển hướng ấy, Trung Quốc không thể đạt
mức tăng trưởng cao như trong quá khứ.
Nhưng vấn đề lại không đơn giản là tìm một đầu máy khác cho tăng
trưởng. Khi đó, người ta phải chú ý đến hai mặt trái ngược là lượng và phẩm hay
hư và thực của đầu tư. Bài viết hơi chuyên môn này tìm hiểu cái chuyện trừu
tượng đó, để thấy Trung Quốc không thể chuyển hướng thành công như lãnh đạo Bắc
Kinh mong muốn hoặc như nhiều nơi vẫn cố tuyên truyền cho họ. Và cuối đường vẫn
là nguy cơ động loạn, là rùi ro khủng hoảng.
Trước hết, trong giới nghiên cứu về kinh tế Trung Quốc, nhiều
trung tâm mắc bệnh “mê Tầu” vẫn còn tìm lý do giảm khinh để biện bạch về các
nhược điểm và tiếp tục ca tụng triển vọng kinh tế của xứ này. Vì tính chất quá
chuyên môn của những gì được họ viện dẫn nên dư luận có thể hiểu lầm và tạm kết
luận rằng “dù sao ly nước đã đầy được một nửa”.
Tính chất chuyên môn ấy nằm ở cách ước tính khối lượng đầu tư.
Các trung tâm thiên lệch này lý luận như sau: “Trung Quốc thường
bị phê phán là đầu tư quá nhiều với hiệu năng kém mà lại tiêu thụ quá ít nên
ngày nay mới phải chuyển hướng. Sự thật thì lượng đầu tư của Trung Quốc vẫn còn
quá ít nếu so sánh với Nhật Bản hay Nam Hàn, chưa nói tới trường hợp kinh tế
Hoa Kỳ, cho nên kinh tế Trung Quốc vẫn còn sức bật”. Cơ sở của lý luận ấy là
tính ra tổng số tư bản cố định đã đưa vào đầu tư trong quá khứ và giảm trừ ảnh
hưởng của lạm phát rồi chia cho dân số lao động. Lấy số tư bản ấy mà so sánh
thì lượng đầu tư của Trung Quốc chưa bằng 10% của Hoa Kỳ, Nhật Bản hay 20% của
Nam Hàn.
Ít ai có thể đi vào phép tính rắc rối ấy nên đa số cứ dừng ở kết
luận phiến diện: Tầu chưa bằng Mỹ hay Nhật nên còn trớn để tăng, nếu cải thiện
được phẩm chất của tư bản đưa vào đầu tư. Khốn nỗi, cải thiện là điều không dễ
vì “xã hội chủ nghĩa với màu sắc Trung Hoa” hay “kinh tế chính trị học kiểu
Trung Cộng”.
Đầu tiên, hãy đối chiếu về lượng, thế nào là là nhiều hay là ít,
căn cứ trên cái gì?
Tại vùng duyên hải miền Đông, là nơi có trình độ phát triển cao
từ xưa tới nay, việc đầu tư có hiệu quả tương đối tích cực và lâu dài. Nó duy
trì được nhịp độ sinh hoạt kinh tế, nâng cao lợi tức và khả năng tiêu thụ của
tư nhân nên có kết quả bền vững. Hãy nghĩ đến một lon xăng làm đầu máy chạy rồi
tự động tìm ra lực đẩy. Vì vậy, nếu máy đã chạy mà đầu tư thêm thì cũng tựa như
nước chảy chỗ trũng và có thể gây úng thủy vì… đầu tư thừa.
Ngược lại, tại các tỉnh lạc hậu bị khóa trong lục địa, đầu tư
lại có đặc tính là kém hiệu năng như lực đẩy một chiếc xe đạp, là khiến cho
tiêu thụ tư nhân lệ thuộc vào đầu tư thay vì ngược lại. Thiếu lực đẩy là xe
dừng và đổ. Nếu cứ rót thêm đầu tư vào đây thì chỉ gây thêm lãng phí. Nhưng
không đầu tư thì không được vì sẽ loạn to.
Khi ấy, nói chuyện đầu tư thừa hay thiếu là chẩn bệnh sai! Vấn
đề là hiệu năng của đầu tư và đấy không là một khái niệm về lượng mà về phẩm.
Trong mọi nền kinh tế đã hay chưa phát triển, ta đều biết đến
một giới hạn nào đó của đầu tư. Như thực phẩm dinh dưỡng cho một cơ thể con
người, thiếu thì không được mà thừa thì lãng phí và có khi sinh bệnh. Nhưng
ngoài yếu tố lượng thì phẩm chất mới giữ phần quyết định về khả năng tiếp thụ
có hiệu quả. Trong kinh tế và chính trị, khả năng tiếp nhận ấy có thể gọi là tư
bản xã hội hay đầu tư vô hình: là hệ thống luật lệ, giáo dục, bộ máy công
quyền, thậm chí nếp văn hóa, trình độ dân trí hay sự khả tín của giao kèo hay
hợp đồng, v.v…. Nói chung, đấy là các định chế tương tác của xã hội.
Khi nói đến đầu tư, ta thường nghĩ tới vật thể, như đất đai, máy
móc và tư bản, có thể đếm và quy ra tiền. Còn phần đầu tư vô hình kia là cái gì
đó mơ hồ và khó đếm, nhưng cũng ảnh hưởng đến hiệu năng hay hiệu suất cùa đầu
tư. Nếu thiếu loại phẩm chất vô hình này thì đầu tư có thể dẫn tới sản nhập chứ
không tăng sản xuất. Sản nhập là những gì đưa vào đầu tư lại có trị giá cao hơn
những gì thu hoạch được, nhập lượng cao hơn xuất lượng là vậy.
Kinh tế Trung Quốc chỉ có lượng mà thiếu phẩm là trong ý nghĩa
đó. Xứ này đầu tư rất nhiều, đến độ đi vay để đầu tư, mà kết quả là không sản
xuất đủ cho nhu cầu trả nợ và để lại một núi tồn kho ế ẩm bên một núi nợ. Vì
sao lại có hiện tượng bất thường như vậy?
Các nhà xã hội học đều có thể biết là sự thịnh vượng không đến
từ lượng tư bản trút vào kinh tế mà từ các định chế chính trị.
Định chế chính trị của Trung Quốc là sự bất thường khi đảng lãnh
đạo nhà nước và nhà nước cầm quyền về kinh tế nên có toàn quyền điều phối tư
bản cho yêu cầu chính trị của đảng. Hệ thống bất thường ấy mới quyết định về
luồng tư bản lưu thông trong kinh tế. Và con người ta vốn khôn ngoan cho nên
nếu có đặc quyền thì dẫn luồng tư bản đó vào nơi nào có lợi nhất cho bản thân.
Tại Trung Quốc, hiện tượng “tư bản thân tộc” (crony capitalism) hay “tư
bản đới quần” – tư bản giải rút - là hậu quả tất yếu của chủ trương phát
triển tư bản nhà nước và mặc nhiên trừng phạt hay trưng thu tư bản của tư nhân,
của tư doanh.
Trong khung cảnh đó mà nói rằng Trung Quốc đầu tư quá nhiều hay
còn ít là nói sang chuyện bên cạnh, ở bề mặt.
Một thí dụ nhỏ nhoi mà dễ hiểu có thể minh diễn chuyện đó. Tại
một xứ tự do và dân chủ, người ta chấp nhận và còn khuyến khích việc làm giầu.
Tích lũy tư bản để kiếm lời là chuyện tự nhiên. Khi tư nhân có một sáng kiến
kinh doanh thì xã hội và nhà nước có những định chế yểm trợ việc phát huy sáng
kiến này vì nếu thành công, sáng kiến sẽ nâng sao sản xuất và lượng nhân công
tuyển dụng lẫn nguồn thu thuế khóa. Trong một xứ độc tài theo kinh tế thị
trường để làm giàu cho tư bản nhà nước thì sáng kiến đó của tư nhân sẽ… bị chặn
rồi bị cướp.
Đảng viên và tay chân nhà nước sẽ lấy sáng kiến đó làm giàu cho
mình! Khi ấy, điều quan trọng cho tư doanh không phải là sáng kiến mà là quan
hệ. Phải có quan hệ tốt với đảng viên cán bộ thì mới hy vọng thành lập doanh
nghiệp, khai triển sáng kiến nhờ đặc quyền rồi chia chác được mối lời.
Khi cả một kiến trúc vĩ đại của Trung Quốc lại dựa trên mối quan
hệ phi kinh tế và rất mờ ám đó thì việc sung dụng tài nguyên đầu tư tất nhiên
là bị lệch lạc. Trên bề mặt thì ai cũng có thể phô trương thành tích tăng
trưởng, chìm sâu bên dưới là những khoản đặc lợi xuất phát từ tham nhũng. Và
các tỉnh nghèo khổ nằm bên trong thì hậm hực nhìn vào sự thịnh vượng ở bên
ngoài, của những kẻ ngồi ở trên.
Kết luận? Trung Quốc đầu tư quá sức hấp thụ của một cơ thể quái
lạ, phình nở chỗ này mà teo tóp chỗ kia. Nếu không gặp loạn thì mới là điều
đáng ngạc nhiên!