Friday, April 3, 2015

Ở TQ có giống người 'chưa ai từng biết'?



Ở TQ có giống người 'chưa ai từng biết'?
Melissa Hogenboom
  • 1 tháng 4 2015

Những mẫu hóa thạch lạ ở Trung Quốc trông không giống gì với các tông người hominin mà ta từng biết. Liệu đó có phải là một giống người mới không?
Các mẫu phẩm trông không phải là giống người cổ Neanderthal, mà cũng không phải là người hiện đại. Chúng là một cái gì đó khác thế, nhưng là gì thì không ai biết.
Các mẫu hóa thạch vừa được xét nghiệm cho thấy một giống người đã có mặt ở nhiều nơi ở miền bắc Trung Quốc trong thời gian cách đây khoảng từ 60 ngàn đến 120 ngàn năm.
Cũng có thể các mẫu hóa thạch thuộc về một giống người lai giữa hai giống người mà ta đã biết tới.
Cho đến nay, chúng ta biết rằng có bốn giống người nguyên thủy khác sống trên Trái Đất ở thời điểm giống người về sau trở thành người hiện đại, Homo sapien, mới vẫn chỉ mới có mặt ở châu Phi. Người Neanderthal thì sống ở châu Âu, người Denisova ở châu Á và người ‘hobbit’ Homo floresiensis (người Flores) ở Indonesia, và có thể có một nhóm người rất bí ẩn, là nhóm từ vùng Á-Âu được kết hợp với nhóm người Denisova.
Các kết quả mới tìm được cho thấy bức tranh phức tạp hơn ta tưởng nhiều.
Đó không phải là người thông minh, Homo sapien, cũng không phải là người Neanderthal. Đó là sự pha trộn của gì đó rất nguyên thủy mà hiện nay chúng ta chưa biết.María Martinón-Torres, TT Nghiên cứu Quốc gia về Sự tiến hóa của Loài người, Burgos, Tây Ban Nha
Các mẫu vật ở Trung Quốc lần đầu tiên được tìm thấy trong một hang động tại Hứa Gia Diêu (Xujiayao) hồi 1976, gồm một số mảnh xương sọ và chín cái răng từ bốn cá thể 'người'.
Những nội dung phân tích đầy đủ, chi tiết về các mẫu răng nay đã được công bố trên tạp chí nhân chủng học của Mỹ, American Journal of Physical Anthropology.
María Martinón-Torres cùng các đồng nghiệp từ Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia về Sự tiến hóa của Loài người tại Burgos, Tây Ban Nha, đã nghiên cứu kích cỡ, hình dạng của hệ thống răng và chân răng, các rãnh, mấu răng cùng vị trí của từng chiếc răng.
Những kết quả phân tích sau đó được đưa ra so sánh với một loạt 5.000 mẫu răng đại diện cho hầu như toàn bộ các chi trong tông người Hominini mà ta từng biết tới.
“Những cái răng có thể coi như những ‘cảnh quan thu nhỏ’,” Martión-Torres. “Mỗi vết rãnh, mấu, chỗ lồi lõm đều cho ta biết về một mô hình hoặc về sự kết hợp các nét chung đại diện cho một nhóm dân số.”
Rõ ràng là những mẫu răng hóa thạch này không giống với răng của người thông minh, Homo sapien, tức giống người về sau trở thành người hiện đại chúng ta.
Thay vào đó, chúng có những nét giống như răng của người nguyên thủy, với một số mẫu giống của loài người đứng thẳng có từ thời cổ đại hơn, Homo erectus, trong lúc một số mẫu có vẻ như gần với của người Neanderthal, xuất hiện về sau so với người đứng thẳng.
Một số đoạn xương được tìm thấy ở cùng địa điểm thì không phù hợp với bất kỳ loài người nguyên thủy nào ta từng biết tới.
Tuy nhiên, Martinón-Torres vẫn ngần ngại trong việc tuyên bố các mẫu răng thuộc về một giống người mới.
“Những gì chúng ta thấy thì thuộc về một nhóm mà ta chưa từng biết tới,” bà nói. “Đó không phải là người thông minh, Homo sapien, cũng không phải là người Neanderthal. Đó là sự pha trộn của cái gì đó rất nguyên thủy mà hiện nay chúng ta chưa biết.
"Chúng tôi không thể đi xa tới mức có thể nói đó là một giống người mới, bởi chúng tôi cần so sánh với những thứ khác nữa.”

Răng ở bên trái là mẫu thu được từ hang Hứa Gia Diêu, còn bene phải là mẫu răng người hiện đại
Những mẫu hóa thạch thực ra có thể phù hợp với các loài đã biết. “Đó thậm chí có thể là người Denisova”, bà Martinón-Torres nói thêm.
Giống người Denisova đã từng tồn tại cùng thời, và thậm chí còn hòa trộn, lai tạo với chúng ta. Thế nhưng hầu như ta không biết gì mấy về giống người này.
Các mẫu hóa thạch duy nhất lấy được từ một hang động ở Siberia chỉ gồm có hai cái răng và một đoạn xương ngón tay bé tí.
Các phân tích DNA cho thấy giống người này khác xa so với cả người Neanderthal và người hiện đại, nhưng mang dấu ấn của cả hai giống người này.
Các mẫu răng Hứa Gia Diêu (Xujiayao) cho thấy điều tương tự, Martinón-Torres nói.
Nhưng không phải ai cũng đồng ý. Tuy các mẫu thu được khá là ít nhưng nó “chứng tỏ một cách mạnh mẽ sự hiện diện của một loài mà từ trước tới nay ta chưa từng biết tới,” Darren Curnoe từ Đại học New South Wales, Sydney, Úc, nói.
“Tôi không mấy nghi ngờ gì về việc những cái răng này đại diện cho thứ rất khác thường.” Chỉ riêng bề mặt của những cái răng đã đủ để nói rằng chúng thuộc về một giống người mới, ông nói.
Trước đây, Curnoe từng mô tả về một tập hợp các mẫu hóa thạch của một giống người bí ẩn khác mà người ta phát hiện ra tại Trung Quốc, “người Hang Hươu Đỏ”, tuy giống người này sống gần với thời hiện đại hơn so với người Hứa Gia Diêu.
Một số người khác đồng tình với sự thận trọng của Martinón-Torres.
Matthew Skinner từ Đại học Kent, Anh Quốc, nói rằng các mẫu hóa thạch từ Á châu khá là ít ỏi, cho nên khó có thể xác định được tình trạng của các loài.


Các răng hóa thạch được tìm thấy có một số nét của răng người đứng thẳng (H. erectus) (trái) và của răng người Neanderthal (phải) (Hình: Alamy)
Fred Spoor từ Đại học University College London, Anh Quốc, cũng đồng ý với Skinner.
Ông nói các mẫu thu được cho thấy sự hòa trộn giữa các nét của người hiện đại và người tiền sử.
Nhiều người cho rằng các giống người khác nhau rất có thể chỉ là các biến thể của cùng một giống.
“Các mẫu hóa thạch càng được tìm thấy đầy đủ thì các khoảng cách giữa ‘các loài’ càng được xóa nhòa đi,” Erick Trinkaus từ Đại học Washington ở St Louis, Missouri nói. “Các giống người thực sự trong thế giới thực sự, đặc biệt là với những giống người có cơ thể to như chúng ta, thì có ở nhiều nơi và ở nhiều dạng biến thể.”
Do vậy, việc tìm thấy các mẫu răng không giống với răng của những giống người ta từng biết tới không phải là điều gì gây ngạc nhiên.
Tìm được thêm xương sẽ giúp việc phân tích tốt hơn, và rất có thể chúng ta sẽ sớm tìm thêm được các mẫu vật mới bởi nhiều vùng ở Á châu hóa ra khá phong phú các mẫu hóa thạch.
Thế nhưng có lẽ chỉ có các bằng chứng về DNA mới đem lại được câu trả lời chính xác, Matthias Meyer từ Viện Nghiên cứu về Tiến hóa Nhân chủng học Max Planck tại Leipzig, Đức nói. “Có thêm dữ liệu từ đông Á thì rất tốt, nhưng rõ ràng đó là chuyện khó đạt được.”
“Có lẽ có hơn một giống người nguyên thủy ở Á châu, mà điều đó cũng không đáng ngạc nhiên bởi đây là một châu lục rộng lớn, tách biệt với các nơi khác,” Martinón-Torres nói.
Một số bộ phận dân cư nơi này thậm chí có thể còn là tổ tiên của người châu Âu hiện đại, một số nhà nghiên cứu đưa ra nhận xét.
Tuy nhiên, hầu hết mọi người cho rằng châu Phi là cái nôi của loài người hiện đại, cho nên tuyên bố trên đã gây tranh cãi.
Bản gốc tiếng Anh bài viết này đã được đăng trên BBC Earth.
Nguồn: http://www.bbc.co.uk/vietnamese/culture_social/2015/02/150206_is_this_a_new_species_of_human_vert_earth


Bí Ẩn: Trở Về Sau Hơn Nửa Thế Kỷ Mất Tích Mà Vẫn Tưởng Chỉ Mới Một Ngày



Bí Ẩn: Trở Về Sau Hơn Nửa Thế Kỷ Mất Tích Mà Vẫn Tưởng Chỉ Mới Một Ngày

Sự trở về nguyên vẹn của 2 thành viên tàu Titanic, 25 thuyền viên trên chiến hạm Indiana Bolis... sau mấy chục năm mất tích khiến nhiều người rùng mình.



Tàu Titanic.

Sự trở về của thành viên tàu Titanic
Ngày 14/4/1912, con tàu thủy siêu cấp Titanic trong chuyến đi đầu tiên đã gặp nạn do va phải băng, khiến 1.500 người mất tích. Vậy mà vào giữa năm 1990 và 1991, tại khu vực gần núi băng Bắc Đại Tây Dương, người ta đã phát hiện và cứu sống hai nhân vật đã biến mất cùng con tàu Titanic gần 80 năm về trước.
Ngày 24/9/1990, con tàu Foshogen đang đi trên vùng biển Bắc Đại Tây Dương. Thuyền trưởng Karl đột nhiên phát hiện một bóng người từ vách núi. Qua kính viễn vọng, ông nhìn rõ một phụ nữ đang dùng tay ra hiệu cấp cứu. Người phụ nữ này mặc trang phục quý tộc Anh thời kỳ đầu thế kỷ 20, toàn thân ướt sũng và rét run cầm cập.
Khi được cứu lên tàu, trả lời câu hỏi của thủy thủ, cô nói: “Tôi tên là Wenni Kate, 29 tuổi, một hành khách trên con tàu Titanic. Khi tàu đắm, một con sóng lớn đánh giạt tôi lên núi băng này, thật may mắn là các ngài đã kịp cứu giúp”. Nghe câu trả lời đó, mọi người đều cảm thấy hết sức kỳ lạ và họ nghĩ rằng có lẽ do sốt cao, cô gái này đã nói nhảm. Kate được đưa đến bệnh viện để kiểm tra. Sức khỏe của cô không có gì đáng ngại ngoài việc cô quá sợ hãi do bị lạc nhiều ngày, thần kinh cũng không có dấu hiệu rối loạn. Các xét nghiệm về máu, tóc, cho thấy cô khoảng chừng 30 tuổi.
Vậy là nảy sinh một vấn đề khó tin đến kinh người: Chẳng lẽ từ năm 1912 đến nay, trải qua gần 80 năm mà Kate không hề già đi chút nào? Thẩm tra, đối chiếu với bản danh sách hành khách trên tàu Titanic, người ta nhận thấy mọi nội dung đều trùng khớp với những gì Kate nói. Trong khi mọi người đang tranh luận thì sự việc thứ hai xảy ra.
Ngày 9/8/1991, một tổ khảo sát khoa học hải dương trong khi khảo sát tại khu vực phía Tây Nam cách núi băng Bắc Đại Tây Dương chừng 387 km, đã phát hiện và cứu sống một người đàn ông 60 tuổi. Ông ta mặc bộ quần áo màu trắng, khá gọn gàng, rít sâu điếu thuốc. Không ai có thể nghĩ rằng đó chính là thuyền trưởng danh tiếng Smith của con tàu Titanic.
Thuyền trưởng Smit ngày ấy và bây giờ.

Khó tin hơn nữa là Smith đến nay đã 140 tuổi nhưng trên thực tế mới chỉ là một ông già 60 tuổi. Khi được cứu, ông một mực khẳng định rằng hôm đó là ngày 15/9/1912.
Sau khi được cứu, ông được đưa đến Viện tâm thần Oslo (Nauy) để chữa trị. Nhà tâm lý học Jale Halant đã tiến hành hàng loạt thử nghiệm và kết quả là Smith hoàn toàn bình thường. Ngày 18/9/1991, trong một đoạn tin vắn, Halant khẳng định, người được cứu đích xác là thuyền trưởng Smith vì ngay việc đối chiếu vân tay cũng đã cho thấy điều đó.
Trở về nguyên vẹn sau 45 năm mất tích
Theo hồ sơ của Hải quân Mỹ, trong chiến dịch Thái Bình Dương thời kỳ Thế chiến II, chiến hạm Indiana Bolis của Mỹ bị tàu ngầm của Nhật đánh chìm. Khi đó Hải quân Mỹ đã nhận được tín hiệu cấp cứu của 25 binh lính và sĩ quan rời khỏi chiến hạm bằng thuyền cứu hộ. Nhưng sau nhiều lần tìm kiếm, vẫn không thể tìm thấy 25 quân nhân kia. Cuối cùng, quân đội Mỹ đành phải tuyên bố họ đã mất tích.
Qua 45 năm mà tất cả binh lính trên con tàu này đều ngỡ như chỉ mới 1 ngày.

Tuy nhiên, tháng 7/1991, một đội thuyền đánh cá của Philippines trên hải phận Sibis, phía nam quần đảo Philippines, đột nhiên phát hiện một chiếc thuyền cứu hộ, trên thuyền có 25 binh lính đang trong tâm trạng hoảng loạn, mặc dù cơ thể vẫn còn cường tráng. Phát hiện này làm quân đội Mỹ vô cùng kinh ngạc. Điều khó hiểu hơn cả là chiến hạm Indiana Bolis bị đánh chìm từ năm 1945 và mãi tới 1991 người ta mới thấy họ, nhưng họ không hề thay đổi so với trước kia, thậm chí cả râu và tóc... cũng không dài thêm chút nào. 25 người một mực khẳng định họ chỉ lênh đênh trên biển một ngày đêm.
Máy bay mất tích 35 năm trở về
Năm 9/9/1990, trạm kiểm soát sân bay Venezuela phát hiện một chiếc Douglas (nhãn hiệu thông dụng thập niên 1930-1940) đột nhiên bay qua. Khi nhân viên sân bay kết nối với họ “Đây là Venezuela, các bạn từ đâu tới?”, phi công trên máy bay hét lên: “Ôi chúa ơi, chúng tôi là máy bay 914 Pan American Airways từ Newyork đến Florida. Chúng tôi phải bay thế nào?”.
Khi xác minh nhật ký chuyến bay từ Mỹ, mọi người đều hoảng hốt vì tất cả phi hành đoàn cùng 50 hành khách được cho là đã chết trong chuyến bay số hiệu 914 ngày 2/6/1955. Điều kỳ lạ là họ trông vẫn y hệt như khi mất tích, trong khi gia đình và những đứa con đều đã luống tuổi. Khi cảnh sát và các nhà khoa học Mỹ điều tra thẻ căn cước và cơ thể hành khách chuyến bay thì vô cungkinh ngạc.
Trở về sau 36 năm mà cứ ngỡ 1 ngày
Năm 1954, trong một cuộc thi biểu diễn khinh khí cầu tại Bodorigo Saint Juan, chiếc khí cầu của Hary Rogen và Derick Noidon đột nhiên mất tích. Sau nhiều năm tìm kiếm họ vẫn không thấy xác chiếc khinh khí cầu bị rơi.
Năm 1990, trong một cuộc thi khinh khí cầu khác tại Cuba, chiếc khinh khí cầu mất tích 36 năm về trước đột nhiên xuất hiện tại nơi mà nó đã mất tích năm 1954 trước hàng nghìn con mắt kinh ngạc của khán giả.
Theo 2 người trên khinh khí cầu thì sau khi đau buốt toàn thân, tất cả mọi thứ xung quanh đều biến thành màu đỏ.

Khi đó người Cuba cho rằng đây là vũ khí bí mật của Mỹ nên đã cho máy bay bắn hạ khí cầu, còn Rogen và Derick thì bị đưa đến một căn cứ quân sự.
Tại đây, họ khai rằng trong cuộc thi khinh khí cầu năm 1954 tại Bodorigo Saint Juan, họ đột nhiên bị kích thích vào vùng não, toàn thân đau buốt như có một luồng điện chạy qua người. Tất cả mọi thứ xung quanh từ bầu trời cho đến mặt biển đều biến thành một màu đỏ. Việc tiếp theo mà họ cảm nhận được là bị một chiếc máy bay chiến đấu tấn công. Họ không hề biết chỉ trong khoảng khắc màu đỏ ấy mà thời gian đã trôi qua 36 năm.


Nếu Anh Trương Chi đẹp trai - Dương Hùng Cường




Nếu anh Trương Chi đẹp trai
Năm 1981 tôi – CTHĐ Hoàng Hải Thủy – được biết Dương Hùng Cường viết, gửi sang Paris cho Trần Tam Tiệp bài “Nếu anh Trương Chi đẹp trai.” Tôi không được Cường cho đọc bài đó trước khi anh gửi đi, anh viết tay nên không có bản thảo giữ lại.

Một trong những “tội phản động “làm cho DH Cường bị bắt tù và chết thảm trong tù là bài “Nếu anh Trương Chi đẹp trai.” Hai mươi năm sau khi đến Paris tôi có ý tìm đọc bài viết của DH Cường; nhưng người tôi có thể hỏi về bài đó là anh Trần Tam Tiệp thì khi ấy anh đã bị tai biến bệnh não trở thành gần như phế nhân. Anh Hiệp sống trong một căn phòng nhỏ, nói khó và ngọng, anh ngồi xe lăn, bao nhiêu sách, văn liệu của anh mất hết. Anh quên gần hết chuyện cũ. Tôi thất vọng vì không được đọc bài “Nếu anh Trương Chi đẹp trai.” Trong nhiều năm tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ được đọc bài viết cuối cùng của Lão Dương Dê Húc Càn Dương Hùng Cường.


Lại 20 năm sống ở Kỳ Hoa vèo qua. Đêm khuya đầu Tháng Tư 2014, lang bang trên Internet tôi tình cờ tìm được bài “Nếu anh Trương Chi đẹp trai “của Dương Hùng Cường. “Tình cờ ” vì tôi không cố ý tìm, bài viết hiện lên trên màn hình computer của tôi trong đêm khuya xứ người, phòng ấm, đèn vàng, ngoài trời đêm tuyết rơi. Tôi ngậm ngùi đọc“Nếu anh Trương Chi đẹp trai.”

Đoạn văn giới thiệu “Nếu anh Trương Chi đẹp trai” đăng trên báo Nhất Việt:
“Nếu anh Trương Chi đẹp trai”  của Dương Hùng Cường, viết ở Sài Gòn năm 1981, gửi lén ra ngoại quốc, đăng trong báo Nhất Việt ở Paris số Tháng 4-1982. Chủ đề của bài là “Mối tình Truơng Chi- cộng sản miền Bắc - và Mị Nương- tư sản Miền Nam.” Mị Nương nghe tiếng hát của Trương Chi, chưa gặp mặt đã thầm yêu trộm nhớ, đến khi gặp mặt Ngày 30 Tháng Tư 1975, thì cuộc gặp là một sự thật phũ phàng, thất vọng đau đớn ê chề cho Mị Nương.

Nhà văn Dương Hùng Cường sau khi học tập cải tạo sĩ quan về, lại bị Cộng sản bắt giam cùng với các văn nghệ sĩ Khuất Duy Trác, Doãn Quốc Sỹ, Hoàng Hải Thủy, Hiếu Chân Nguyễn Hoạt, Trần ngọc Tư, Lý Thụy Ý … Công An Hà Nội gán cho những văn nghệ sĩ này là “Những tên Biệt Kích Cầm Bút.”.
Dương Hùng Cường chết trong sà-lim Trung Tâm Thẩm Vấn Số 4 Phan Đăng Lưu, Gia Định, ngày 22 tháng 1-1988 chỉ vì vạ miệng khi anh ta tự nhận là nhân chứng của lịch sử VN. Ông là một nhà văn quân đội, binh chủng Không quân, viết với những bút hiệu Dê Húc Càn, Lão Húc, Lão Dương.
Bài “Nếu Anh Trương Chi đẹp trai” được viết như một bức thư gửi cho người bạn ở Paris.

Nếu Anh Trương Chi đẹp trai
Dương Hùng Cường


Anh thân,
Trong những cái lo hàng ngày như chuyện cơm áo, chuyện thường trú, tạm trú, chuyện hộ khẩu, chuyện hồi hương lập nghiệp, đi xây dựng vùng kinh tế mới, tôi lại thêm một cái lo nữa. Nhưng không sao, tôi sẽ viết, vì từ lâu tôi cũng muốn viết. Có nhiều thứ chất chứa trong đầu quá rồi!
Tôi bắt đầu bằng một truyện ký.
Khi anh biết tôi viết “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” anh cũng đã gửi trong thư vài hàng góp ý. Cảm ơn anh nhiều lắm. Tôi cũng định hạn chế cho mình là cái truyện ký này, chỉ nên viết từ hai trăm tới ba trăm trang.
Kéo dài, dài mãi thì cũng được đấy, vì tới bây giờ chàng vô sản Trương Chi vẫn còn quản lý cái tài sản của nàng “Tư sản phong kiến” Mị Nương, và cứ mỗi ngày lại lòi ra một cái xấu mới. Thành ra khó lòng mà làm một phát chấm hết truyện ký “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai”.
Khi bắt đầu vào truyện tôi nghĩ ngay tới ngày đầu mà ông Thừa tướng cho gọi Trương Chi vào để gặp Mị Nương. Tôi dám chắc rằng ông Thừa tướng không để cho chàng kịp sửa sang lại nhan sắc. Có thể lúc đó chàng đang mặc một bộ quần áo bẩn nhất, rách nhất. Có thể lúc đó, chàng vừa chèo xong một chuyến đò dọc đưa “khứa” vất vả, chưa kịp tắm rửa nên đen đủi hôi hám.
Ông Thừa tướng cáo già phải lựa lúc nào chàng bẩn nhất, xấu nhất, hôi nhất, tuy rằng lúc bình thường chàng đã bẩn, đã xấu, đã hôi. Đúng cái lúc đó cho chàng gặp Mị Nương. Người viết truyện là tôi thì cho cái ngày mà chàng vô sản Trương Chi gặp nàng Tiểu thư tư sản phong kiến Mị Nương là ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Bắt đầu câu chuyện là thế đấy, anh ạ.
Vậy tại sao ta lại gọi ngày 30 tháng Tư 1975 là ngày bại trận?
Ngày Thừa tướng cho Mị Nương gặp Trương Chi để được thấy hết cái xấu của chàng vô sản để rồi chê anh chàng hơi kỹ, là ngày thua của ông Thừa tướng cáo già hay sao?
Không, ngày đó ông ta thắng chứ, mà lại thắng lớn. Tiếng hát của chàng vô sản Trương Chi, từ đây không còn “ép phê” với cô Mị Nương nữa rồi.
Tôi đã được nghe một bà già ở Bến Tre nói những câu làm mình mát lòng, mát dạ. Bến Tre, quê hương Đồng Khởi đấy nhé. Bà ta nói oang oang không một chút sợ sệt tránh né:
“Các ông có biết không, ngày xưa tôi nuôi nhiều đứa lắm. Tôi rút nõ trái mít, khoét hết ruột rồi đổ gạo vô cho đầy, đậy cái nõ lại mang gạo đi nuôi chúng nó. Tôi dấu chúng nó dưới hầm kín. Nếu mà biết như thế này thì hồi trước gạo có dư tôi nuôi thêm vài ba con chó. Bây giờ có chuyện gì chúng nó trốn vào trong quần tôi, tôi cũng vén cái quần lên cho nó lộ cái mặt ra!”
Đại khái bà già Bến Tre nói những câu như vậy.
Ấy đấy, cái ngày 30/04/1975 đã làm thay đổi cả một hệ thống tư tưởng, suy nghĩ, hành động của một giai cấp được đặt lên đỉnh cao trung kiên, thì dù ai muốn nói thế nào cũng mặc, tôi vẫn cho ngày 30/04/1975 là ngày chúng ta đại thắng.
Chàng vô sản Trương Chi mọi người đều biết là giỏi về nghề hót. Chàng đã hót rất kỹ về ba cái chiến thắng. Chiến thắng Điện Biên. Chiến thắng Tết Mậu thân. Chiến tháng 30/04/1975. Một cái thực và hai cái hư, tạo nên cái hư hư thực thực để người ta dễ lầm, thật giả khó phân. Chiến thắng Điện biên là thực, vì dù sao, chín năm kháng chiến đánh Tây chưa lòi cái bộ mặt Quốc tế vô sản ra, chúng nó còn có được chính nghĩa. Như vậy thì chiến thắng Điện biên của 1954 không phải là của riêng giai cấp vô sản mà của toàn dân. Ai là người Việt Nam cũng có quyền chia phần hãnh diện. Nhưng hai cái chiến thắng giả tạo là chiến thắng Tết Mậu Thân và chiến thắng 30/04/1975.
Ôi cái Tết Mậu thân bỉ ổi đê hèn mà chúng mình đã chứng kiến, cái chiến thắng ấy mới thê thảm làm sao. Chúng nó đã lùa vào thành phố một đám con nít ngớ ngẩn, đường lối trong thành phố còn mù tịt, dù có cho phép đi thong thả dạo chơi thì cũng lạc đường như một lũ mán về thành, còn đánh đấm cái gì? Ông Tướng Trưởng đã gọi là nhử cọp vào nhà, đóng cửa lại mà thọi. Ấy thế mà cũng huyênh hoang là chiến thắng!
Tôi nhớ là phải ngoảnh mặt đi, ói mửa khi thấy xe xúc đất, xúc từng tảng xác chết đó đổ xuống một cái hố chôn tập thể ở đầu đường bay Tân Sơn Nhất. Vài ba tháng sau còn có những các chết thối rữa trên trần nhà. Cứ nghĩ tới là nguyền rủa. Thế mà là chiến thắng đấy. Anh Trương Chi đã hát sai điệu.
Rồi tới chiến thắng 30/04/1975. Đến bài hát này anh Trương Chi đã trình bày giọng ca vô sản lên tới cái mức trơ trẽn và trâng tráo nhất. Trong một bài Hồi ký kềnh càng của tên Đại úy Bùi Đức Nhung, tả chiến công tiến chiếm dinh Độc Lập, đã tả rằng trên đường đi hắn đã mấy lần nhảy từ xe Thiết giáp xuống hỏi thăm dân Sài Gòn đường đi tới dinh Độc Lập. Mẹ kiếp, đường đi còn chưa rõ thế mà vẫn khoác lác là sửa soạn kỹ, nào là tập lâu ngày bằng bản đồ với sa bàn. Chưa thấy đứa nào dối trá, láo xược bằng cái thằng vô sản Trương Chi.
Có chiến thắng là phải có xác chết. Bài ca mà chàng vô sản Trương Chi coi là sở trường của chàng “Nghề của chàng” là bài ca Buôn Xác Chết. Cái gì chứ xác chết mang đi buôn lời là cái chắc. Người ta đi buôn chỉ mong một vốn bốn lời, nhưng đi buôn xác chết thì chẳng mất vốn, mà lời lại quá kỹ, vậy thì muôn năm Bài Ca Xác Chết.
Chiến thắng Điện Biên… Ôi nhiều xác chết quá, tha hồ mà buôn. Kéo pháo qua núi qua đèo, một xu cơ giới không có thì ta ca lên “Dốc núi cao nhưng lòng người quyết tâm của ta còn cao hơn núi”. Một đám kéo pháo, một đám đun đít pháo một kéo một đẩy. Cứ thế mà nhúc nhích. Nhưng đến lưng chừng dốc thì phựt một phát, dây kéo pháo đứt. Chết mẹ mấy thằng đun đít pháo. Pháo thụt lùi. Mấy thằng ở hai bên, trong lúc phản ứng cấp thời, nhảy vội sang bên cạnh để cứu lấy mạng. Những thằng đứng giữa, nhảy về bên nào cũng kẹt, lại vướng mấy thằng đứng ngoài. Lúc nhảy được thì lại đụng vào bánh xe pháo nên bị cán lòi phèo, chì còn ngáp vài cái là thành ngay cái xác chết. A, có xác chết rồi! Phải ca lên bản “Bài ca buôn xác chết”.
Đồng chí nào đấy? A, đồng chí Tô Vĩnh Điện. Mấy anh nhà báo, nhà văn đâu? Làm ngay bài ca tụng người anh hùng “Lấy thân chèn pháo”. Phổ biến ngay tới các đơn vị, hành động anh hùng lấy thân chèn pháo, các đơn vị đang làm nhiệm vụ kéo pháo phải học tập ngay buổi tối hôm nay. Đồng chi Tô Vĩnh Điện, nhờ thành xác chết mà được bốc thơm hơi kỹ. Xong một Bài Ca Buôn Xác Chết.
Ô hô, bài ca buôn xác chết ấy, một phát tên mà bắn trúng tới vài ba con chim. Đồng chí Tô Vĩnh Điện có thành xác chết thì cũng khoái đến phải gật gù cái đầu. Các đồng chí lãnh tụ cũng khoái, vì đã che lấp được cái bất cẩn của mình. Chỉ cần một khúc gỗ chèn, nhích được tới đâu chèn ngay tới đó, thì dù cho dây có đứt cũng chẳng đến nỗi. Hơn nữa, dây nhợ ra sao phải kiểm soát chứ, để cho nửa chừng đứt gánh, trách nhiệm đó về ai?
Xác chết mà buôn được thì một phần thân thể mà chết đi cũng có thể mà buôn được. Đồng chí La Văn Cầu trong lúc xung phong, bị đạn, gãy một cánh tay, thấy cánh tay gãy lủng lẳng vướng víu, đồng chí vừa rút mã tấu, chặt phăng cái tay gẫy rồi tiếp tục xung phong. Bài ca Buôn Cánh Tay Chết ca lên nghe cũng hay hay. Đồng chí La Văn Cầu được yết kiến Hồ Chủ Tịch và được Bác tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Bài ca này khi được mang ra học tập tại lớp Học Tập Ba Ngày, mở ra sau này, đã được một anh đội Ngụy bổ túc thêm cho một đoạn.
Khi được yết kiến Bác, đồng chí La Văn Cầu cứ thắc mắc về cái Huân chương Kháng chiến hạng nhì. Đồng chí nói với Bác là nếu đồng chí chặt cả hai cánh tay thì đồng chí có bắt được cái hạng nhất không? Bác gật đầu. Ấy thế là đồng chí đã dũng cảm xuống ngay dưới bếp của Bác, vớ con dao phay chặt phăng cánh tay còn lại Cả lớp học tập ấy đã vỗ tay hoan hô đồng chí La Văn Cầu quá xá cỡ.
Nhưng khi ra khỏi lớp học anh Cai Dù Ngụy hỏi anh Đội Ngụy rằng làm sao mà đồng chí La Văn Cầu lại tự chặt được cánh tay còn lại, thì được trả lời bằng những tiếng cười hì hì xỏ lá…
Chiến thắng Tết Mậu Thân. Cái chiến thắng này thì nhiều xác chết thật đấy nhưng vì nó gấp quá, quen thuộc quá với dân Thành phố miền Nam, nên chàng vô sản Trương Chi không đủ can đảm trâng tráo trơ trẽn để mà ngồi xổm bài tiết ra những bài ca Buôn Xác Chết. Đành phải nhai lại cái xác chết Nguyễn Văn Trỗi. Nhưng cái xác chết này đã từng ngâm mình ở con sông dưới cầu Công Lý, tục gọi là Bến Tắm Ngựa, nên có vẻ hơi nặng mùi. Chiến thắng Tết Mậu Thân thành ra vắng Bài Ca Buôn Xác Chết.
Rồi tới chiến thắng 30/04/1975. Cái chiến thắng này thì lại khác hẳn, vì không có xác chết. Thì nào có đánh đấm cái mẹ gì đâu mà có xác chết? Ở cái chỗ nào cũng vậy, thường là sau khi kết thúc một trận chiến, lại bày ra một cảnh đổ vỡ tan hoang, nhiều khi không còn viên gạch nào nguyên vẹn. Nhưng mà ở đây không sứt mẻ, không sây sứt môt tí tẹo nào. Như vậy thì sao gọi là cuộc chiến đã kết thúc?
Đường số 1 không gãy một cây cầu! Mấy con đường xe cộ vẫn chạy phom phom, không môt khúc nào bị cắt đứt. Cả một thành phố Sàigòn chỉ đổ có cái cổng dinh Độc lập vì cái thằng lái xe thiết giáp loạng quạng, ra cái điều hách dịch phách lối, húc đánh rầm một phát. Nếu nó ngừng tại chỗ cho người ta mở cổng, rồi đi vào thơ thới hân hoan, thì Sài Gòn sẽ được tiếng là còn nguyên si, chưa rụng một cái sợi lông sợi tóc.
Ấy cũng chỉ vì không có xác chết mà Đại thắng mùa Xuân đâm ra táo bón bài ca Buôn Xác Chết. Nhưng chàng vô sản Trương Chi nổi danh về tài hót, đâu có chịu? Thì vẫn có cái xác chết nằm chình ình ra đấy thôi? Không còn xác chết nào để buôn, thì chúng buôn xác ông già. Nào, một, hai, ba, ta đồng ca:
Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng,
Lời Bác nay đã thành chiến thắng huy hoàng (…)
Ngày chiến thắng ấy có huy hoàng hay không, thỉ tôi sẽ viết trong truyện ký “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai”. Tôi viết đã được một trăm trang. Có một điều lạ là càng viết thì đầu óc lại càng sáng tỏ ra nhiều vấn đề. Những ngày đầu tháng 5 của năm 1975, tôi cực kỳ oán hận những kẻ đã để tôi ở lại đây. Phương tiện của Cờ Hoa năm 1975, có thể nói gấp ngàn lần phương tiện của Tây năm 1954. Năm 1954, Tây còn mang đi được môt triệu người. Ấy vậy mà năm 1975… đạp lên nhau mà đi, bước lên xác nhau mà đi, con số chắc cũng chỉ tới trăm ngàn. Trong một lúc quá chán nản, tôi làm một bài thơ thân phận:
Ba chìm bảy nổi chín lênh đênh
Một vàn cờ thua ngã chổng kềnh
Bạn đỏ thiết tha mà dứt bạn
Tình vàng phụ bạc vẫn theo tình.
Tương lai trước mặt sao mù mịt
Dĩ vãng sau lưng lại bấp bênh
Trở giấc sao mình thao thức mãi
Quanh mình bóng tối cứ mông mênh.
Rồi tiếp theo là mấy năm đi học cải tạo. Trong nhiều lúc chán đời chỉ muốn chết. Nhìn gần thì nhìn thấy mình và người chung quanh cứ mòn mỏi, cùn rỉ để rồi dần dần gục xuống. Nhìn xa thì thấy tương lai miền Nam đi tới chỗ diệt chủng. Những thằng đàn ông có khả năng đẻ đái thì bị nhốt hết trong trại học tập cải tạo, còn sót lại thằng nào ở bên ngoài, thì lại được khuyến khích bằng sự hạn chế sinh đẻ. Hơn nữa cái chính sách lương bổng thật tồi tệ. Cha mẹ không nuôi nổi con cái, con cái không nuôi nổi cha mẹ, anh em không nâng đỡ nổi nhau thì đẻ thêm làm cái gì?
Khi ra khỏi trại học tập cải tạo, gặp thằng Công tử con bà Cả Đọi. Hắn tả cảnh cực khổ của hắn và đọc cho tôi nghe bài Cực Tả:
Cửa đóng màn che đã mấy thu
Đời tàn ngõ hẹp sống như tù
Quẩn quanh họp lại thiền Đông Độ
Vào ra luyện mãi phép Tây Du
Rầu rĩ Giáng Tiên ngồi gãi háng
Nẫu nà Từ Thức đứng xoa khu
Ăn chỉ tương cà, chê thịt cá
Sống chẳng tu hành cũng quá tu.
Tôi lại càng buồn, mẹ kiếp! Đông độ với Tây du. Nước Mỹ với nước Tây thì cũng chán mớ đời. Tôi hoạ lại bài thơ ấy bằng bài Quân Tán, nghĩa là Tan hàng:
Quân tán còn chi xuất với thu
Thong dong thì cũng xác thân tù
Hữu tật cam đành câu bất dụng
Vô tài nên chịu tiếng nan du.
Những tuởng khoan hồng anh hạ bộ
Nào ngờ mắc bẫy chú Xuân Khu
Chung cuộc vài năm cầm cán cuốc.
Tu đọi, tu huyền ấy cũng tu.
oo0oo
Anh cứ nhớ rằng lúc nào anh em chúng mình làm thơ Đường, ấy là lúc buồn và cũng rất chán đời.
Nhưng từ lúc viết bài “Nếu chàng Trương Chi đẹp trai” thì tôi phấn khởi hẳn lên. Nghĩ tới ngày đầu tiên Mị Nương gặp Trương Chi là tôi nhớ tới cả một cuốn phim dĩ vãng của những ngày đầu tháng Năm lịch sử. Nàng Mị Nương và chàng Truơng Chi hẳn cũng đã xảy ra chuyện “Ngôn ngữ bất đồng”. Tôi cười một mình, nhớ tới mẩu đối thoại giữa cô bán thuốc lá ở trước cửa nhà và một anh bộ đội
- Bán cho tôi bao thuốc ná.
- Dạ anh mua thuốc nào?
- Không bán cho tôi bao thuốc ná?
- Dạ anh mua thuốc nào?
Tiếng gắt gỏng:
- Cái cô này nạ chửa. Người ta mua thuốc ná mà nại cứ hỏi người ta mua thuốc nào.
Giọng trả lời vẫn dịu dàng:
- Dạ thì tôi hỏi anh mua thuốc nào? Thuốc Ru by, thuốc Cáp tăng hay thuốc Bát tô?
Ngôn ngữ bất đồng là thế đấy. Khu nhà tôi ở bên kia cầu chữ Y, nên sau ngày 30/04/1975, quanh nhà thật đông bộ đội. Cô nhỏ người làm nhà tôi đã biểu diễn một bộ mặt ngớ ngẩn khi một anh bộ đội tới hỏi mượn một cái bàn nà hay mượn một cái phễu. Tôi phải nhắc nó đưa anh ta mượn cái bàn ủi hay cái quặng, lúc đó nó mới à lên một tiếng tự nhiên.


Vẫn ngồi xổm (Việt  Nam, thế kỷ XXI)
Vẫn ngồi xổm (Việt Nam, thế kỷ XXI)
Buổi sáng buổi chiều là những lúc nhàn rỗi của mấy anh bộ đội. Những anh chàng này ít đi chơi vì Sài Gòn đối với mấy chàng chẳng có gì hấp dẫn. Đường phố thì dài dằng dặc. Đi bộ thì mỏi chân. Vượt Trường Sơn thì được nhưng đi bộ trên đường phố Sài Gòn thì các chàng lại chê. Vài chàng may mắn gặp được người quen hay bà con họ hàng Di cư vào đây năm 1954 nhưng họ cũng chỉ cho ăn vài bữa cơm rồi cũng lơ là. Bởi vậy các chàng không còn thú vui gì chỉ ngồi xúm lại với nhau tán gẫu. Cái lối ngồi của mấy chàng cũng lạ. Chúng mình thì ngồi bệt xuống, đặt cái mông xuống hè cho nó thoải máì, thằng nào muốn sạch thì lót cái khăn mùi xoa hay tờ giấy báo. Nhưng mấy chàng thì ngồi ở cái thế mà chúng ta hay biểu diễn ở những lúc ta ở trong cầu tiêu. Cứ ngồi xổm như thế mà nói chuyện râm ran, cả mấy giờ đồng hồ. Sáng, trưa chiều lúc nào cũng có vài ba chàng hay đông hơn nữa ngồi ở đầu hè nói chuyện với nhau. Cứ ở tư thế “Ngồi nước lụt”. Đứa cháu gái lớn một hôm ngồi ngắm các anh chàng rồi bảo tôi:
- Sấm, sấm rồi bố ạ!
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Thế nào mà lại là sấm?
Thì bố vẫn giảng cho con nghe những bài thơ, những câu phong dao tục ngữ không có tác giả đọc lên tối nghĩa một chút, không chừng là sấm. Như câu “Hết quan tàn dân, thu quân bán ruộng”. Như câu …
- Rồi, rồi, nhưng cô định cho câu nào là sấm đây?
Con bé ra mặt nghiêm trang:
- Con nghĩ tới bài thơ con cóc “Con cóc trong hang, con cóc nhảy ra. Con cóc nhảy ra, con cóc ngồi đó. Con cóc ngồi đó, con cóc nhảy đi”.
Mới đầu con cứ thắc mắc mãi về con cóc, không hiểu rằng con cóc ám chỉ cái gì. Bây giờ nhìn mấy đứa kia nó ngồi chồm hổm, mới thấy y như hệt con cóc. Bố thấy chúng nó có giống con cóc hay không?
Tôi không trả lời đứa con gái nhưng trong lòng như ngầm đồng ý. Cũng như tôi đã mắng chúng nó khi chúng nó trả lời những câu trêu chọc mấy chàng bộ đội bằng câu ca dao:
Khoai lang chấm muối ăn bùi
Lấy chồng bộ đội lấy cùi sướng hơn.
Tôi mắng nhưng trong lòng hả hê. Ừ, có thể là sấm thật đấy. Và bây giờ khi viết truyện ký “Khi chàng Trương Chi đẹp trai” tôi đã gọi ngày 30/04/1975 là ngày đại thắng.
Đã là ngày đại thắng thì chỉ nên luận công mà không luận tội. Người Mỹ đã tạo nên ngày 30/04/1975, cũng như ông Thừa tướng đã tạo nên ngày Mị nương gặp Trương Chi. Ôi, cả công lao tuyên truyền, cả một hệ thống tư tưởng từ Nam chí Bắc, xụp đổ thảm thương. Đi xe đò từ Bắc vào Nam, cứ tới Quảng Trị người dân miền Bắc yên trí là cái mông đít không còn bị hành hạ. Vào tới trong Sài Gòn nhiều kẻ đã ở lại, không muốn về, đấy là bây giờ còn kém trước quá xa.
Công của ông Thiệu sửa soạn cho ngày 30/04/1975 cũng quá lớn. Nhất là cái chương trình “Người cày có ruộng”. Mua lại ruộng đất của điền chủ, rồi phát không cho Nông dân mỗi người ba mẫu với bằng khoán cẩn thận, ông Thiệu đã bẻ gãy cái liềm trên lá cờ có cái liềm cây búa. Lại còn Ngân hàng Quốc gia Nông tín Cuộc cho nông dân vay tiền mua máy cày, máy bơm nước tới mùa thì trả. Không trả được thì khất lại. Cả một chính sách cải cách ruộng đất mà những anh chàng vô sản rất lấy làm hãnh diện, ấy thế là… đi đoong. Thâm độc hơn nữa là cái vụ cấy lúa Thần Nông. Cái thứ lúa ngắn này phải cần bón phân cho nhiều. Mà lại phải là phân hóa học nhập cảng. Thì có chi lạ. Muốn chóng lớn thì phải ăn nhiều. Thấy lúa ngắn ngày, mấy chàng “Cứ tưởng bở “mang ngay về Bắc làm giống, huênh hoang khoác lác quá xá, để rồi mấy năm mất mùa và cho tới nay phải trở lại cày cấy hai vụ Chiêm mùa…Thật là thâm quá mà độc cũng quá là độc.
Lại sắp tới ngày 30 tháng Tư.
Từ 1975 đến 1982, đối với mọi người kể cả tôi, cũng đã gọi là quá dài.
Mấy thằng Tây thất bại vì đã trở lại sớm quá. Chín năm kháng chiến chống Tây, chúng nó đã có thật đông chính nghĩa. Nhưng rồi sau chín năm? Và tới bây giờ Trương Chi đã thật sự xấu xí. Mặt nạ chính nghĩa rơi rớt tơi tả.
Anh nói với bằng hữu, làm gì đi chứ? Chia rẽ làm chi, tội nghiệp quá đi thôi! Đoàn kết không phải là tôi đi theo anh hay là anh đi theo tôi. Đoàn kết là phải dẹp bỏ hết mọi tị hiềm, xung khắc để cùng chung lo việc cấp bách trước mặt là … Phục Quốc.
Rất thân chào Anh
Lão Húc