Wednesday, May 9, 2018

Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 5)-Hoàng Hải Thuỷ


Posted on November 16, 2007 
Hoanghaithuy

Thời ấy – những năm đầu thập niên 80 Thành Hồ có mấy câu Phóng Dao tả cảnh những anh Con Bà Cả Đọi đi lãnh đồ:
Muốn tắm mát thì lên ngọn cái con sông đào
Muốn ăn sim chín thì vào rừng xanh
Đôi tay anh vín đôi cành
Quả chín anh hái quả xanh anh vồ
Năm sáu năm nay anh ăn ở Thành Hồ
Anh ra Bưu điện lãnh đồ em cho
Đồ em vừa nặng vừa to
Anh đã con mắt, anh no cái mồm…
Thấy mấy cái hộp đồ Poste Pháp tốt quá Trí Văn giữ lại làm kỷ niệm. Anh đâu biết mấy cái hộp giấy vô thưởng vô phạt đó sẽ bị công an VC coi là những bằng chứng về tội anh liên lạc với người nước ngoài. Tôi không gặp Trí Văn lần nào, nhưng tôi biết chắc mà không cần hỏi là khi bắt Trí Văn, bọn công an CS tịch thâu mấy cái hộp đựng quà, ghi vào biên bản bắt, coi đó là “tang vật”.
Vợ chồng Anh Con Trai Bà Cả Đọi trong mấy mùa thu lá rụng ở Thành Hồ – từ 1980 đến 1984 – có may mắn được hai vị sống ở Pháp gửi thuốc tây cứu trợ nhiều nhất. Hai ân nhân của anh chị là:
– Dượng Ba Trần Tam Tiệp, Tổng Thư Ký Hội Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại.
– Cô Phương Hương Cao Ngọc Phượng, tu sĩ Phật giáo. Từ năm 1992, cô đã xuống tóc quy y, pháp danh Thích Chân Không.
Trong mấy mùa lá đa rụng ấy Alice làm hoa vải tại gia. Nàng giữ lại những hộp giấy đựng đồ làm hoa. Trong căn nhà nhỏ ở Cư xá Tự Do, Ngã Ba Ông Tạ của vợ chồng anh chị có đến mấy chục cái hộp giấy của Poste Pháp.
Trong đêm công an Việt cộng đem chiếc xe bông thứ hai đến Cư Xá Tự Do đón anh chồng đi lần thứ hai – đúng là tội nghiệp anh Con Trai Bà Cả Đọi. Anh chỉ can tội dính líu tí ti vào bộ phim Hai Chuyến Xe Bông dưới bóng cô đào Thanh Nga thôi. Dzậy mà đời anh cũng tả tơi hoa lá vì hai chuyến xe bông thực sự. Trong vòng mười niên mà hai lần đi xe bông công an Việt cộng thì đúng là đời anh đen hơn mõm chó mực – Trong đêm anh bị bắt lần thứ nhì, công an xếp một đống hộp đựng đồ từ Pháp gửi về ở giữa nhà, bắt vợ chồng anh đứng “chụp ảnh với tang vật”.
Trong đống “tang vật” có hai hộp cạc tông không phải hộp đựng quà trả công cho gián điệp. Anh Con Trai đứng rũ liệt chân tay, chị Con Dâu vẫn còn cố tranh đấu đến cái gọi là hộp giấy cuối cùng:
– Mấy cái hộp đó không phải là hộp đựng đồ ngoại quốc gửi về. Tôi yêu cầu mấy anh bỏ ra…
Anh Con Trai nói với vợ:
– Thôi em ơi. Nếu không có tội thì dù ta có cả ngàn cái hộp như thế này ta cũng không có tội. Còn có tội thì chỉ cần một cái hộp cũng đủ rồi…
Như vậy là trong đêm Công an Thành Hồ đến bắt tôi lần thứ hai – hai giờ đêm ngày 2 tháng 5 năm 1984 – Alice có vài bức ảnh chụp chung với anh chồng vất vả trước đống tang vật. Những tấm ảnh này hiện nằm trong Kho Hồ sơ Nhân dân Tù tại Sở Công an thành phố HCM.
Hơn mười mùa mít chín trôi qua, hôm nay ngồi bình an viết những dòng này ở Rừng Phong Arlington, bang Virginia của những người Còn Trinh và Yêu Nhau, hồi tưởng lại giây phút vợ chồng sánh vai nhau đứng trước ống kính máy ảnh của bọn công an Việt cộng nửa đêm trong căn nhà nhỏ tôi có một nỗi bực mình nho nhỏ.
Tôi bực mình vì chính tôi. Đêm ấy khi bọn đầu trâu, mặt ngựa ùn ùn kéo vào căn nhà nhỏ của tôi rồi tôi vẫn còn mong đợi một cách ngu si, đần độn quá mức là chúng chỉ vào “xét sổ hộ khẩu” sơ sơ rồi đi. Bởi nghĩ như vậy và muốn chúng ra mau mau đi ra khỏi nhà để mình tiếp tục ngủ lại, tôi đã không sửa sang cho người ngợm tôi đừng tả tơi quá.
Nửa đêm về sáng, đang ngủ mệt, bị công an đập cửa dựng dậy, hào hoa phong nhã đến như các ông Phan An, Tống Ngọc, Tư Mã Tương Như cũng… nát như tương. Lúc ấy tôi đầu bù, tóc rối, mắt có ghèn, miệng hôi, áo quần xộc xệch. Phải chi tôi cứ mặc cho chúng ngồi đợi – khi chưa đọc lệnh bắt giam, chúng chưa sẵng giọng với mình – tôi đàng hoàng đi làm vệ sinh, đánh răng, rửa mặt, chải đầu, bận sơ mi, quần tây săng pờli đàng hoàng rồi mới ra tiếp chúng. Thì đã sao? Đầu tóc tả tơi, quần áo xộc xệch, mặt mũi nhơm nhếch thì chúng cũng bắt, cũng tù. Trang phục chỉnh tề, bộ dạng hào hoa phong nhã thì cũng chỉ đến đi tù thôi. Đằng nào cũng tù nhưng tù đường hoàng, tại sao mình lại tù rúm ró thiểu não?
Than ôi… Khi tôi có được cái kinh nghiệm ấy thì đã muộn màng. Tôi không còn có dịp dùng đến kinh nghiệm ấy… Qua hai lần bị Việt cộng bắt, bị Việt cộng thẩm vấn, tôi có cảm tưởng như tôi là một em trinh nữ lần đầu tiên bị đàn ông hiếp dâm – trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu, tôi không nói đến những trinh nữ bị hiếp dâm năm bẩy chục lần dài dài và đều đều – Em trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu thường mềm nhũn chân tay, không chống cự mà cũng chẳng phản ứng, thuận ứng gì cả – Với bọn Việt cộng bắt tôi, hỏi cung tôi, đe dọa tôi, tôi cũng mềm như bún. Nhiều đêm nằm vắt chân lên trán trong biệt giam nhớ lại buổi hỏi cung trong ngày tôi vẫn bực bội với chính tôi:
– Sao mình lại có thể ngu đần quá đến như dzậy? Sao lúc nó hỏi câu ấy mình lại không trả lời như vầy… như vầy… Trả lời như thế thì tội mình đâu có nặng hơn? Tại sao mình lại trả lời một câu ngu đến như thế chứ?
Tôi giống như các em trinh nữ bị hiếp dâm lần đầu nhưng tôi cũng có một điểm khác các em. Đó là điểm có một số các em dường như cũng mong, cũng thích bị hiếp dâm còn tôi, tôi không thích công an Việt cộng hiếp dâm tôi một ly ông cụ nào.
*****
Khi viết về những người bị các anh gọi văn huê là “Những tên biệt kích cầm bút”, những người bị các anh bắt giam mút mùa trinh nữ và khép vào tội nặng “Gián Điệp Tử Hình” v.v… hai anh cớm Minh Kiên – Nam Thi đã cố tình không viết một chi tiết quan trọng. Hai anh đánh bài vờ như chuyện đó không có. Họ chỉ nhắc qua đến chuyện đó trong có một dòng.
Đó là sự kiện trong số 8 Biệt Kích Dzăng Bút bị bắt ở Thành Hồ Tháng 5 năm 1984, có đến 6 mạng đã bị bắt đi cải tạo, đi tù từ hai đến năm, sáu mùa lá rụng. Kể tên:
1. Gián điệp đầu sỏ Doãn Quốc Sĩ: Đã tù năm niên, năm 1981 từ trại Gia Trung – Gia Lai trở về đường An Dương Vương, Sàigon.
2. Khuất Duy Trác: Năm niên, năm 1981 từ miền Bắc Xã hội Chủ nghĩa trở về đường Lý Thái Tổ, Sàigon.
3. Trần Ngọc Tự: Năm niên, từ Phú Quốc, Hoàng Liên Sơn trở về khu bên trong Cổng Xe lửa số 6, Sàigòn.
4. Dương Hùng Cường: Ba niên, từ đâu đó hổng nhớ trở về căn nhà ở gần cái gọi là “Trung tâm Nữ Quân Nhân” đường Lý Thường Kiệt. Ngày xửa, ngày xưa trên mục “Cà Kê Dê Ngỗng”, báo Con Ong, chủ nhiệm Minh Vồ, Dê Húc Càn, bút hiệu của Dương hùng Cuờng, từng viết một bài về cái gọi là “Trung Tâm Nữ Quân Nhân”. Anh théc méc không hiểu cái Trung tâm ấy nó mô tả ký gì.
5. Lý Thụy Ý, nữ biệt kích, từng có thời giữ Trang Kaki Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, tù hai mùa mít chín.
6. Hoàng Hải Thủy: tù nhẹ nhất, 23 tháng ngồi rù trong trại giam số 4 Phan Đăng Lưu, cuối 1979 trở về khu Hồ tắm Cộng Hòa Ngã Ba Ông Tạ nổi tiếng về bộ môn Cầy Tơ dân tộc.
7 và 8: Khứa lão Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và Em Ghế Tơ Nguyễn Thị Nhạn là hai người mới nếm mùi tù cộng sản lần thứ nhất.
Minh Kiên – Nam Thi bị bắt buộc giả vờ không biết bọn văn nghệ sĩ Sàigòn bị bắt lại đã chịu một lần tù tội – ngôn ngữ Việt cộng học mót Trung cộng là “cải tạo” – bởi vì nếu họ viết ra chi tiết này thì kỳ quá. Té ra mấy tên Sè Goòng bại trận này chúng nó gan cóc tía hay sao? Đã một lần tù rồi chúng vẫn không tởn? Chúng vẫn coi như “nơ pa”? Dzậy là sao? Nếu không phải bọn chúng gan lì thì chế độ “giáo dục cải tạo bằng lao động” do đảng ta học mót và áp dụng chẳng có qua một tí ti giá trị thực tiễn gì cả sao?? Mà nào có phải là bọn chúng bị đi tù năm bẩy tháng gì cho cam? Tên nhẹ nhất cũng hai mùa lá rụng, tên nặng là năm, sáu năm.
Khi phịa ra cảnh Hoàng Hải thả lời ong bướm kiểu cải lương miệt vườn với bà chủ Vi-la Kiều Trang, Nam Thi – Minh Kiên gài cho Hoàng Hải nói:
– Tôi gác bút rồi. Viết ký gì bi giờ???
Sai. Dziệc cộng dzô Sè Goòng, Hoàng Hải – cũng như những Anh Con Trai Bà Cả Đọi khác – bị bắt buộc phải gác rất nhiều thứ nhưng bút thì anh không bao giờ “gác” cả. Bằng chứng: Tạp chí Thời Tập, do Viên Linh chủ trương, ấn hành số 1 tháng Tư năm 1979 ở Hoa Kỳ đã đăng bài viết gửi đi từ Thành Hồ của Hoàng hải Thủy, có cả ảnh đương sự ở trần, rầu rĩ triển lãm bộ xương bọc da trước lá cờ đỏ sao vàng ở giữa lòng Thành Hồ.
Tôi đăng lại một số bài tôi viết trước 1977 và trước 1984, được đăng ở hải ngoại trước nhất là để khoe, thứ hai là để làm bằng chứng hai anh Nam Thi – Minh Kiên bảo tôi “gác bút” là viết không đúng.
Ngay từ đầu năm 1976 tôi đã lai rai viết ra ngoại quốc với mục đích diễn tả thực trạng đời sống của nhân dân Sàigòn. Tôi diễn tả những nỗi buồn sầu tuyệt vọng nhiều hơn là chửi bới Việt cộng, những bài tôi viết không hô hào người khác cầm súng bắn Việt cộng. Nhưng dầu sao thì bọn văn nghệ sĩ Sàigòn không nhanh chân bỏ của chạy lấy người kịp chúng tôi cũng đã tìm cách viết ra nước ngoài rất sớm – sớm đến cái độ có thể gọi là “Sớm nhất thế giới”. Chỉ xỉu xỉu sáu tháng sau ngày nón cối, dép râu, răng cải mả, tóc bím, đít bự như cái thúng, ngơ ngáo kéo vào Sàigòn chúng tôi đã có thư, tin, bài, thơ linh tinh đủ thứ gửi ra nước ngoài. Chẳng phải là vì chúng tôi can đảm hay giỏi giang gì hơn người, phần lớn tại vì đến năm 1975 tình hình chính trị thế giới đã bắt đầu có những chuyển biến bất lợi cho bọn cộng sản. Sự liên lạc bằng thư giữa những nước tư bản Âu Mỹ với thành phố Sàigòn bị cưỡng hiếp đổi tên được tái lập ngay sau ngày 30 Tháng Tư 75; thư từ Xê Kỳ, Pháp gửi về Sàigòn tới tấp, thư con cá Sàigòn vượt đại dương đi các nước tự do, tư bổn cũng nườm nượp. Nhờ vậy bọn chúng tôi mới lén gửi được những bức thư tả oán ra khỏi nước. Xin so sánh với tình trạng các nước đàn anh Xã hội Chủ nghĩa: Khi bức màn sắt rơi xuống nước Nga, hai mươi mùa trứng caviar đóng hộp sau vẫn chưa có một văn nghệ sĩ Nga nào sống trong nước gửi được những tác phẩm chống chế độ bạo tàn ra nước ngoài. Khi bức màn tre chụp xuống Trung Quốc, sau hai mươi mùa lệ chi được gửi Express đến Đảo Bồng Lai cho nàng Dương Thái Chân thưởng thức, mới có lẻ tẻ vài ông chính khứa Tầu cộng bỏ đảng dzọt được sang các nước Pháp, Anh lai rai viết tố cáo những tội ác ghê rợn của chế độ Trung Cộng.
*****
Le Parisien: Hoang Hai Thuy a refusé de se taire
Dưới đây là bản dịch bài báo viết về “Kiệt kích dzăng bút Hoàng Hải Thủy” đăng trên nhật báo Le Parisien, Tháng Tư năm 1988. Người viết là Nữ ký giả Catherine Monfazon:
Đáp ứng lời kêu gọi của Hiệp Hội Phóng Viên Không Biên Giới – L’Association Reporters sans frontières – 38 cơ sở truyền thông Pháp quốc đã nhận bảo lãnh mỗi cơ sở một ký giả bị tù vì làm tròn công việc của mình. “Le Parisien” tự chọn tranh đấu cho sự tự do của Hoàng Hải Thủy, ký giả Việt Nam, hiện đang bị bỏ quên trong một trại lao động cải tạo.
Chúng tôi yêu cầu chính phủ Pháp quốc không những chỉ vận động để đưa ông Thủy ra khỏi nhà tù mà còn, theo sự đòi hỏi của gia đình ông ta, đưa ông ta ra khỏi quốc gia của ông ta…
Hoàng Hải Thủy không chịu câm miệng
Đừng nói đến cái tên Hoàng Hải Thủy ở Việt Nam, nói đến cái tên đó trong điện thoại, đường dây sẽ bị cắt, trong đường phố những đôi mắt sẽ nhìn xuống đất. Được nhờ đến Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, được coi như là một động lực của công cuộc đổi mới của Việt Nam, sẽ bực bội gạt bạn sang Bộ Tư pháp, một cách từ chối, không tiếp khéo léo.
Hoàng Hải Thủy năm mươi chín tuổi, đêm đêm nằm ngủ trên tấm ván rộng năm mươi phân giữa ba ngươi người bạn tù chung phòng giam trong trại cải tạo Xuân Lộc, một nơi cách thành phố HCM (Sàigòn) một trăm hai mươi cây số. Những lời buộc tội thật mơ hồ “Lên tiếng chống chủ nghĩa cộng sản” Người ta trách ông ta đã gửi ra nước ngoài những bài thơ, bài viết không sao có thể đăng được trong những tờ báo Việt Nam bị rọ mõm.
Hoàng Hải Thủy biết rất rõ những người cộng sản. Bên cạnh họ ông đã tham gia kháng chiến năm 1945. Nhưng kề từ đó ông chỉ đi theo một con đường: nhân bản. Thi sĩ, văn sĩ, ký giả, dịch giả: ông được nhiều người biết vì tính tình hay nói thẳng, vì niềm hăng say tố cáo những sự bất công. Ông tự ý làm những việc ấy. Trước năm 1975 ông công khai chỉ trích chế độ cũ trên những tờ báo châm biếm như tờ Con Ong (nghĩa đen là con ong chuyên châm chích). Ông cũng là viên chức của Trung tâm Thông Tin Hoa Kỳ, USIS.
Năm 1974, ông dịch “Trăm năm cô đơn” của Garcia Marquez. Bản dịch truyện này bị cấm xuất bản. Bản dịch “Quần đảo ngục tù” (Archipel du Goulag) cũng bị cấm. Lần này là đảng cấm. Sau năm 1975 Hoàng Hải Thủy phải sống nhịn nhục. Nhưng ông từ chối không chịu im tiếng. “Ông ấy không thể im lặng trước những đau khổ của đồng bào ông. Ông ấy tức giận khi thấy bọn cán bộ kêu gọi người khác hy sinh nhưng chính chúng lại sống như vương giả”. Đấy là lời một người bạn của Hoàng Hải Thủy nói về ông.
Năm 1977 ông ta đã bị bắt lần thứ nhất, bị giam hai mươi ba tháng trong nhà tù Chí Hòa. Vừa ra khỏi tù, ông lại cầm bút. Ông bị bắt lần thứ hai năm 1984. Năm 1988, ông bị xử ở tòa án. Người bạn của ông nói tiếp về ông: “Trong phiên xử, ông ấy có nói ông không viết vì thù hận chính quyền mà viết để chống lại tất cả những kẻ dối trá từ trong trái tim…”
Bị tuyên án sáu năm tù Hoàng Hải Thủy chỉ được trả tự do vào tháng Năm năm 1990. Ông còn phải chịu đựng nhiều tháng sống trong trại cải tạo vì thái độ tự do tư tưởng của ông, một thái độ mà cái chính phủ vẫn tự nhận là đã mở nắp nồi và đổi mới vẫn không thể chấp nhận được.
Nữ ký giả Catherine Monfazon
Nhật báo Parisien


Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 4)


Posted on November 16, 2007 
 Hoanghaithuy

Hai trang 5,6 NTBKCB, người viết Phan Hiền. Có thể đây là anh Phan Hiền, nhân viên Bộ Ngoại Giao VC. Lời lẽ chung chung, bài tựa này có thể dùng để làm tựa cho tất cả những “quái phẩm Cộng sản” mạ lỵ nhân dân ta trên cõi đời này. Phan Hiền nhắc lại những lời cũ rích từ khươm mươi niên. Theo đúng thông lệ anh ca tụng bọn công an Việt cộng – những kẻ bị nhân dân căm thù nhất – là những “chiến sĩ bảo vệ Tổ quốc” hy sinh, mẫu mực, đấu tranh gian khổ trường kỳ.
Bài học đầu tiên trong những khóa dậy nghề Công an Việt cộng có câu: “Quân đội bảo vệ Tổ quốc, Công an bảo vệ Đảng…” Bẩy mươi mùa đói rét trôi qua trên đất nước Liên Xô vĩ đại, Thành trì của Chủ Nghĩa Xã Hội Thế Giới, đến những năm 1988. 1989 bức tượng tên tội đồ Dherzinsky, tên lập ra cơ quan KGB ác ôn nhất lịch sử nhân loại – Tượng đá Vĩ Nhân Dherzinsky oai dũng đứng trước trụ sở KGB – bị nhân dân Nga tròng xích sắt vào cổ, kéo xuống cho ra nằm ở bãi rác. Bọn nhân viên Công an Nga, Tiệp, Đức, Hung trở thành những tên “mặt người dạ thú”. Tờ báo Tuổi Trẻ Thành Hồ năm 1992 đăng một bài dịch từ một tạp chí Tiệp Khắc. Anh công an Tiệp được phỏng vấn trong bài báo này than:
– Đảng đã làm chúng tôi trở thành những kẻ thù của nhân dân.
Quyền lợi của Đảng Cộng sản và quyền lợi của nhân dân chưa bao giờ và không bao giờ đi đôi với nhau. Chuyện ấy, trẻ con lên ba, cụ già chín bó đều biết. Với những người cộng sản, việc “bảo vệ thành quả cách mạng của nhân dân” có nghĩa là bảo vệ những đặc quyền, đặc lợi của bọn đảng viên cộng sản, giữ vững mãi cái chế độ trong đó “người đối xử với người tàn tệ hơn là lang sói”, để yên cho bọn cộng sản mặc tình ăn trộm, ăn cướp, ăn hại, đái nát, hủy hoại đất nước, đầy đọa nhân dân, làm những thế hệ con em sống dở, chết dở trong ngu dốt, nghèo đói.
“Trí thông minh, tinh thần sáng tạo…” của công an cộng sản được biểu hiện bằng việc phóng tay “bắt hết, nhốt hết, cho đi tù chết bỏ”. Kể từ ngày Lenin “vĩ đại” gọi những người chống đảng cộng sản là “bọn sâu bọ”, Công an cộng sản tất cả các nước chẳng may bị bọn cộng sản cướp chính quyền, thẳng tay đàn áp, giết tróc những người không may cùng một dân tộc với chúng.
Tôi sống ở K3 – Trại Cải Tạo Z30A trọn năm 1989, cùng sống với tôi trong trại cải tạo này năm ấy có Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Linh Mục Trần Đình Thủ, Dòng Đồng Công Thủ Đức, Linh Mục Nguyễn Công Đoan, Trưởng Dòng Tên Việt Nam, Tu Sĩ Phật Giáo Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, anh Doãn Quốc Sĩ, Tiến sĩ Sử học Mã Thành Công, Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, Kỹ sư Lê Công Minh cùng khoảng năm trăm người tù chính trị từ khắp lãnh thổ Quốc gia Việt Nam Cộng Hòa. Năm 1994 khi tôi đi khỏi thành phố HCM, Trí Siêu Lê Mạnh Thát còn ở Z30A, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận mãn án đã trở về mái chùa xưa, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương năm 1990 bị điều ra Trại cải tạo Phú Khánh. Trại này nằm trong rừng giữa hai tỉnh Phú Yên, Khánh Hòa, nên được gọi là Phú Khánh.
Năm 1989 là năm cộng sản không rẫy chết mà chết ngắc ở Đông Đức. Trong Z 30A chúng tôi phấn khởi truyền nhau những tin tức như tin Bức Tường Ô Nhục Bá Linh bị phá đổ, “Đồng chí Eric Honecker vĩ đại” – danh hiệu Việt Cộng tôn xưng “Đồng chí Eric Honecker, Chủ tịch Đảng Cộng sản Đức”, Honecker có sang thăm Thành phố HCM năm 1976 – phải bỏ Đảng chạy ra nước ngoài. Chúng tôi phấn khởi nghe tin nhân dân các nước Đông Âu, theo gương nhân dân Ba Lan, tự phá gông xiềng Búa Liềm, tin vợ chồng Sô-xét-cu, Chủ Tịt Đảng Cộng Lỗ Ma Ni, bị nhân dân lôi cổ ra dí súng vào đầu, bắn bỏ. Những chuyện chúng tôi không thể ngờ có thể xẩy ra trong đời mình.
Tháng Hai năm 1990, mãn án tù lần thứ hai sáu mùa cóc chín, tôi trở về Ngã Ba Ông Tạ. Mang giấy ra trại đến phường công an khai báo để ghi tên trở vào sổ Hộ Khẩu – vừa bị bắt là tên bị xóa ngay trong sổ – anh công an khu vực, nay đổi tên là công an đường phố, bảo tôi:
– Chú viết bản tự kiểm…
Bị coi là có tội, bị bắt, bị ra tòa, bị kết án, mãn án tù, về nhà, còn tự kiểm, tự cáo gì nữa? Tôi nghĩ. Tôi hỏi:
– Tôi tự kiểm về chuyện gì?
– Về những việc chú đã làm – Anh công an Ông Tạ trả lời tôi, anh giải thích – Chú đã làm gì để bị bắt? Chú làm những gì trong thời gian cải tạo. Chú có suy nghĩ gì? Và bây giờ về chú dự định sẽ làm gì?
Tôi nghĩ thầm: “Anh mới là người phải viết tờ tự kiểm những tội lỗi của anh và của bọn anh với nhân dân chứ? Tại sao đến bây giờ tôi vẫn còn phải viết tờ tự kiểm với anh…?” Cộng sản nó sụp ở những đâu đâu, ở quê hương tôi nó còn vững lắm. Tôi bùi ngùi cầm bút viết trang tự kiểm cho xong. Tôi vụng dại đủ mọi thứ, làm việc gì cũng bê bối không giống ai, được cái viết vớ vẩn vô thưởng vô phạt thì tôi mần khá dễ dàng.
Bọn công an cộng sản Nga, Đức, Tiệp, Hung, Ba Lan, Lỗ đã phải “trả lời những tội trạng của chúng trước nhân dân”, đã “phải cúi đầu nhận tội”, đã nhục nhã vì bị nhân dân chửi rủa, khinh bỉ, vợ con tủi hổ, xa lánh.
Sẽ có ngày đẹp trời bọn cộng sản Việt Nam cũng phải chịu chung số phận với bọn đàn anh của chúng. Ngày đẹp trời ấy bao giờ đến? Tháng mấy? Năm hai ngàn mấy? Tôi có được thấy ngày đẹp trời ấy chăng? Thôi thì đành tự an ủi bằng ý nghĩ: “Mình đã thấy cộng sản sụp ở gốc rễ của nó rồi. Trước sau gì mấy cành cây mục cũng chết theo thôi. Đừng có nóng…”
Nhưng tại sao tôi lại bi quan nhỉ? Đời tôi còn những hai bó nữa kia mà? Hai bó nhiều lắm, lâu lắm chứ. Hai bó là hai mươi quyển lịch Tam Tông Miếu. Chịu khó bóc vài ba tập lịch nữa thôi, ngày đẹp trời sẽ đến. Có thể lắm chứ. Biết đâu đấy.
*****
Trích NTBKCB, trang 7, 8, 9.
Hơn một tuần nay, Nguyễn Trí Văn được nhận vào làm lái xe cho một Công ty Xuất khẩu hải sản. Nhờ người anh họ từ miền Bắc vào công tác ở thành phố quen với Trưởng phòng Tổ chức cán bộ Công ty giới thiệu nên Văn được nhận dễ dàng, vả lại anh không có quan hệ chính trị gì phức tạp. Tuy là Thượng sĩ trong quân đội Saigon cũ, nhưng anh ta chỉ biết cầm súng khi còn ở quân trường, sau đó được tuyển vào đội bóng đá của Sư Đoàn 3 Không Quân. Từ giã vị trí trung phong trên sân cỏ đã mấy năm rồi nhưng phản xạ của cơ bắp vẫn còn tốt cho nghề lái xe. Anh ta cảm thấy xin được việc làm ở một cơ quan Nhà Nước là điều may mắn đối với mình.
Cũng trong thời gian này, điều may mắn thứ hai lại đến. Anh vừa nhận được món hàng nhỏ từ Paris gửi về. Thật là của từ trên trời rơi xuống, giữa lúc gia đình anh gặp khó khăn túng thiếu. Gói hàng có kèm theo lá thư với mấy dòng vắn tắt:
Paris ngày…
Văn thân mến,
Xin gửi cho em món quà nhỏ. Gọi là của ít lòng nhiều. Mong rằng em vẫn còn ở chỗ cũ và nhận được thư này. Hãy viết thư ngay cho anh sau khi nhận được thư.
Thân ái,
Trần Tam Tiệp
Thật là một niềm vui bất ngờ đối với Nguyễn Trí Văn.
Khi nhận quà về, Văn đã khoe với vợ con, bạn bè rằng Tiệp là anh em “kết nghĩa”, mặc dầu ông ta vốn là Trung tá, “Mạnh thường quân” của đội bóng ngày xưa của anh. Và đây là lần đầu tiên anh được tin tức của cấp chỉ huy cũ sau ngày 30 tháng 4 năm 1975
Lúc này, nhiều sĩ quan cũ mà anh biết đi học tập chưa về, môt số người được về lại đã dông ra nước ngoài. Trước đó, Văn cho rằng có liên lạc với các ông “xếp” ấy cũng chả cần thiết. Thật tình anh không còn nghĩ đến ai. Cái quá khứ ấy cũng nên quên đi, trừ những lần đi xem những trận bóng ở sân Thống Nhất, anh vẫn nhớ lại quãng đời cầu thủ ngắn ngủi của mình. Nay được thư kèm theo quà, anh thấy cũng hay. Quá khứ lại sống dậy trong anh. Hơn một tháng sau khi trả lời thư của Trần Tam Tiệp, anh lại nhận được lá thư thứ hai của ông ta. Gói quà lần này sộp hơn lần trước nhiều, đem ra chợ trời bán gần được 4000 đồng, đủ trang trải mấy món nợ, còn dư may sắm cho vợ con. Trong thư Trần Tam Tiệp nhờ tìm gặp Trung úy Không quân Trần Ngọc Thự và một số người khác để lấy địa chỉ gửi qua cho Tiệp. Ông ta bảo những người đó là bạn thân, ông ta cần biết địa chỉ để gửi quà về giúp. Văn thấy không thấy gì trở ngại, vả lại đây là chuyện”tình nghĩa” không có lý do từ chối. Chỉ trong hai Chủ nhật, Văn đã tìm gặp được mấy người bạn cũ, và từ người này hỏi thăm người nọ, cuối cùng anh đã gặp hầu hết những người Tiệp cần biết tin tức.
Sau lần ấy, Văn còn nhận thêm vài món quà nữa, rồi Tiệp viết thư báo sắp bận đi làm ăn xa. Từ đó bặt tin luôn. Văn thấy như vậy cũng đủ rồi. Làm một cái gạch nối cho viên chỉ huy cũ liên lạc với anh em bạn bè, anh đã hoàn thành và cũng đã được trả công. Anh trở về với nếp sống cũ và hầu như quên đi chuyện ấy, chỉ còn giữ lại mấy cái hộp giấy đựng quà làm kỷ niệm
Nhân vật Nguyễn Trí Văn có thật. Là một cầu thủ khá nổi trong đội banh Không quân, Nguyễn Văn Trí được anh em không quân biết tên, biết mặt. Nghe nói anh vẫn được gọi bằng cái tên thân thương Trí Lùn.
Những Tên BKCB mở đầu bằng 3 trang nói đến Nguyễn Trí Văn tức Nguyễn Văn Trí. Và từ Trí Lùn “giới thiệu” đến Trung tá Không quân VNCH Trần Tam Tiệp, ông “Dượng Ba” thương mến của anh em chúng tôi..
Công an Thành Hồ cay cú Dượng Ba của chúng tôi nhất. Mấy ảnh kết tội Trần Tam Tiệp là người chủ động trong những việc:
1. Tranh đấu trong những tổ chức văn học – chính trị quốc tế để bảo vệ những văn nghệ sĩ Saigon bị cộng sản đàn áp.
2. Tố cáo trước dư luận thế giới những hành động bạo tàn của VC ở Việt Nam.
3. Làm nhịp cầu liên lạc giữa những văn nghệ sĩ Saigon sống dưới ách đàn áp thô bạo của cộng sản với những tổ chức văn học-nhân quyền quốc tế như PEN International, Amnesty International: Hội Văn Bút Quốc Tế, Hội Ân Xá Quốc Tế.
4. Cung cấp sự giúp đỡ về tinh thần và tiền bạc cho những văn nghệ sĩ kẹt giỏ ở Thành Hồ đỡ tả tơi, cuộc sống bớt chút màu sắc đen hơn mõm chó mực.
Công an Thành Hồ gán cho Trần Tam Tiệp cái tội “thúc đẩy chúng tôi viết và gửi tác phẩm ra nước ngoài…”
Và Công an Thành Hồ cay cú nhất vì mấy ảnh cóc đụng được vào cái lông chân nào của Trần Tam Tiệp. Dượng Ba của chúng tôi sống ở Paris. Các anh Công an VC hung hăng con bọ xít bắt, bỏ tù mút chỉ cà tha mấy tên dzăng nghệ sỡi kẹt giỏ bị mấy anh gọi là Biệt Kích Cầm Bút – mấy ảnh là công an VC cầm súng –
nhưng mấy ảnh hận mà hổng có làm gì được Dượng Ba Trần Tam Tiệp của chúng tôi. Vì vậy mấy ảnh cay cú dữ dội.
Trong thời gian tôi bị thẩm vấn ở Nhà Giam Số 4 Phan Đăng Lưu – những tháng 5,6,7 năm 1984 – Sáu Khôi, một nhân viên cấp trung của sở Công an thành phố HCM, đến nhà giam chỉ huy bọn thẩm vấn chúng tôi. Sáu Khôi không đích thân thẩm vấn chúng tôi. Y chỉ ghé vào các phòng đang thẩm vấn, ngồi nghe, góp vài ý kiến. Tôi thấy rõ Sáu Khôi căm thù Trần Tam Tiệp. Mỗi lần nói đến Dượng Ba của chúng tôi, Sáu Khôi đều gằn giọng: “… Thằng Tiệp… Thằng Tiệp…”
Đọc mấy trang NTBKCB trên đây, ta thấy hai anh Nam Thi – Minh Kiên viết về Trí Văn nhẹ hều. Đi tìm những ông không quân vất vưởng ở Thành Hồ để những ông này liên lạc với Trung tá Trần Tam Tiệp ở Paris, nhận được vài thùng quà. Rồi thôi. Chẳng có tội gì cả. Nhưng… “Dziệc cộng dziếc dzậy mà hổng phải dzậy…” Dziệc cộng công an nói và dziếc lại càng khác nhau. Sự thực não nùng bi đát đúng kiểu VC là chỉ vì cái tội đi tìm mấy ông bạn đồng ngũ không quân giúp Trung tá Trần Tam Tiệp, anh Nguyễn Trí Văn, tức Nguyễn Văn Trí, tức Trí Lùn Đội Bóng Không Quân Quân Lực VNCH, bị công an Thành Hồ cho xe bông đến tận nhà – nghe đâu Trí ở Gò Vấp – ưu ái đưa vào Số 4 Phan Đăng Lưu cho nằm ngâm thơ Gãi Háng – cơm tù bưng đến tận cửa xà lim, nước tù xịt xà lim cho tắm vì những ống nước nhà tù đặc cứng rỉ sét – Không hề bao giờ là Biệt Kích Cầm Bất Cứ cái gì, Nguyễn Trí Văn cũng nằm xà lim, ăn cơm nhạt xỉu xỉu mười tháng.
… Văn thấy không có gì trở ngại, vả lại đây cũng là chuyện tình nghĩa không có lý do gì từ chối…
Nguyễn Trí Văn không đến nỗi phải chết vì “tình nghĩa”. Anh chỉ vì “tình nghĩa” mà bị Công an Việt cộng cho đi tù gần một mùa lá rụng…
… Anh trở về với nếp sống cũ và hầu như quên đi câu chuyện ấy, chỉ còn giữ lại mấy cái hộp giấy đựng làm quà kỷ niệm…
Poste Phú Lang Sa văn minh hơn Post Mẽo ở những hộp các-tông đựng quà. Những hộp giấy vàng vuông vắn, gọn đẹp. Những năm đầu thập niên 80 một trong những lạc thú hào hứng nhất của những Anh Con Trai, những Chị Con Dâu Bà Cả Đọi ở Thành Hồ là đến Bưu Điện hay vào phi trường Tân Sơn Nhất lãnh đồ. Gần như cả nước sống nhờ đồ ngoại quốc gửi về. Có đồ là có tất cả. Có đồ là nỗi tuyệt vọng mênh mang trong lòng ta dịu bớt, vơi đi, ta được tiếp đôi chút hy vọng để có thể không chết. Nỗi sợ hãi công an trong ta cũng nhạt đi khi ta có đồ. Đồ càng lớn, càng nhiều, càng tốt. Tất nhiên. Nhưng đồ nhỏ cũng rất tốt. Chỉ một paquet một ký lô thuốc Tây từ Pháp quốc văn minh phồn hoa trữ tình lãng mạn sông Seine mờ sương trắng – là áo sương mù hay váy em. Ga Lyon đèn dzàng… Những anh Con Trai Bà Cả Đọi từ muôn kiếp trước đến muôn kiếp sau chưa từng một lần được đặt những bước loạng quạng đến Paris, chưa từng biết mùi Đầm là gì… vẫn xúc động khi nghe chuyện lên xe tiễn em đi. Chưa bao giờ buồn thế… – những paquet quà thơm phức từ Pháp quốc gửi về Thành Hồ. Mỗi paquet – tuy không đủ lãng quên đời – cũng đủ cho hai vợ chồng và ba con nhỏ sống được một tháng.
Đấy là thời gian những anh Con Trai Bà Cả Đọi ở thành Hồ được gọi là những anh Tư Đê. Đúng ra mấy ảnh là mấy anh Năm Đê. Ngoài một tiếng Đê, ngôn ngữ thuần túy dân tộc, mấy ảnh luôn luôn sài bốn tiếng vần Đê:
– Đi, Đồ, Đói, Đợi
– Sao không đi? Còn ở đây?
– Đi không được. Sao lại không đi!
– Có tính đi không? Có đường đi không?
– Có đồ không?
– Đói thấy mồ…
– Đành đợi vậy…
Mấy ảnh nói mấy ảnh đợi, nhưng chính mấy ảnh cũng không biết mấy ảnh đợi ai, đợi cái gì, đợi đến bao giờ…


Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 3)-Hoàng Hải Thuỷ


Posted on November 16, 2007 
 Hoanghaithuy

Ngày 2 tháng 5 năm 1984, tám anh em chúng tôi bị bắt cùng trong một đêm. Trong số có hai người lần đầu nếm mùi tù ngục Xã hội Chủ nghĩa: Anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và cô Nguyễn Thị Nhạn. Sáu anh em chúng tôi đều đã qua một lần tù tội. Tôi gọi việc tôi trở vào Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu là “tái đáo Thiên Thai.” Lưu Thần, Nguyễn Triệu ngày xưa trở lại Thiên Thai buồn như thế nào lòng tôi cũng não nùng như thế. Năm 1977 tôi đã bị còng tay đưa vào đứng ngơ ngáo trong những hành lang nhà tù này. Năm 1980 tôi xách cái túi du hành rách từ đấy đi trở ra. Bốn năm sau tôi trở vào. Nhà tù nghèo nàn, u ám hơn, những đoạn đường xi măng sụp, rạn nứt, những vách tường dơ bẩn.
Công An Thành Hồ không loan tin chúng tôi bị bắt trên báo, nhưng chỉ một năm sau – năm 1985 – bọn văn công Việt cộng đã viết về cái gọi là “cuộc đời ái tình và sự nghiệp” của anh em chúng tôi để đăng linh tinh, lang tang trên nhiều báo tháng, báo tuần ở Hà Nội, Thành Hồ. Tuần báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh là tờ viết về đời tư chúng tôi hung hãn nhất. Bọn Cớm Cộng thành Hồ có hồ sơ tài liệu về chúng tôi, chúng khám xét nhà chúng tôi, chúng được bọn “ăng ten” cung cấp nhiều sự kiện về chúng tôi nên chúng có tài liệu để viết về chúng tôi nhiều hơn cả.
Năm 1988, “Quái Phẩm” NTBKCB được xuất bản thành sách. Ở Nhà Tù Chí Hòa chúng tôi được đọc một số trang NTBKCB đăng trên các báo, một số trang khác được người nhà chúng tôi lén gửi vào tù cho chúng tôi. Trí Siêu Lê Mạnh Thát cùng sống với tôi trong phòng 10, lầu Ba, Khu ED Chí Hòa, sau khi đọc một số trang BKCB, nói với tôi:
– Sao chúng nó thù các bác quá?
Tôi không coi việc Công An VC kết tội chúng tôi trong một quyển sách là một vinh hạnh. Tôi chỉ ghi nhận một sự kiện: cùng thời gian chúng tôi bị tù có rất nhiều nhóm hoạt động chính trị bị Việt Cộng đàn áp tàn bạo hơn bọn văn nghệ sĩ chúng tôi rất nhiều. Tôi chỉ kể hai vụ tôi biết rõ, những người trong hai vụ này cùng tù với tôi, nhiều người nằm chung phòng với tôi: Vụ Luật sư Phạm Quang Cảnh bị VC xử tử hình, hai người cùng nhóm với ông là Giáo sư Nguyễn Quốc Sủng, Kỹ sư Lê Công Minh chung thân, nhiều người tù 18, 15 năm. Vụ thứ hai là Vụ Già Lam: Tuệ Sĩ Phạm văn Thương, Trí Siêu Lê mạnh Thát mỗi người tù 20 năm, Thượng Tọa Thích Đức Nhuận tù 10 năm. Nhưng các ông không bị CAVC viết truyện vu cáo, mạ lỵ, mạt sát, chửi rủa, bôi bẩn, bới móc đời tư đến cả đời ông, đời cha như chúng tôi.
Tôi gọi NTBKCB là “Quái phẩm” vì không thể xếp nó vào loại “dzăng phẩm” nào cả. Hai anh Nam Thi – Minh Kiên gọi nó là “truyện”. Tôi thấy nó không phải là “truyện” vì nhân vật trong nó là người thật, đang ở tù thật. Những sự kiện trong nó phần lớn do người viết bịa đặt, tưởng tượng – ngôn từ VC học mót Tàu Cộng, gọi việc tưởng tượng bịa đặt này là “hư cấu”. Nó không phải là phóng sự điều tra vì những sự kiện trong nó không có thật, không có những thông số, thống kê, không có bằng chứng độc lập. Nó lại càng không thể là phóng sự tiểu thuyết vì người ta không thể tiểu thuyết hóa cuộc sống, chuyện đời của những nhân vật có thật đang bị tù tội đến chết – và nhiều người đã chết – trong ngục thất.
Việc viết, ấn hành những “Quái phẩm” như NTBKCB không phải là việc làm mới mẻ do bọn CAVC nghĩ ra. Bọn Nga Cộng đã làm chuyện ruồi bâu, kiến đậu này từ những năm 1922.
NTBKCB do hai anh Nam Thi – Minh Kiên, Tổng và Phó Tổng Biên Tập báo Công An Thành Hồ viết, được xuất bản thành sách, chỉ là một trong số năm bẩy loạt bài viết về nhóm văn nghệ sĩ chúng tôi. Cái gọi là “truyện” đã được in thành sách một lần vào năm 1987. Những trang in tôi trích đăng ở đây lấy ở bản in năm 1994 do nhà xuất bản Văn Nghệ Thành phố HCM tái bản. Ấn bản NTBKCB năm 1994, ngắn hơn, chỉ còn 200 trang. Có nhiều đoạn bịa đặt, dựng đứng trắng trợn, làm chính những người cộng sản cũng cảm thấy lố bịch, ruồi bâu, kiến đậu, có tác dụng phản tuyên truyền trong ấn bản 1987 được bỏ đi trong ấn bản 1994. Chẳng hạn như đoạn tả ông Biệt Kích Doãn Quốc “thả lời ong bướm” với em Lý Thụy Ý, đoạn bịa chuyện anh bạn Không quân Trần Ngọc chở em Nguyễn Thị Nhạn đi chơi quán Cây Dừa Xa lộ làm bà xã anh bạn chúng tôi có cái gọi là “cơ sở” để nghi ngờ và mất cảm tình với anh em chúng tôi. Như đoạn viết về ông Ngoại tôi với câu kết mà bất cứ người viết nào có chút thông minh nhỏ bằng đầu que tăm xỉa răng cũng không hạ bút. Đó là câu: “…Ngày xưa… tri phủ, tri huyện nào mà không nghiện thuốc phiện…”
Người viết cộng sản phấn khởi, hồ hởi vu cáo mạ lỵ, bịa đặt những chuyện xấu gán cho đời ông, đời cha những người bị chúng bắt giam. Đó không phải là chuyện mới lạ. Bọn Nga Xô đã làm cái việc tệ mạt ấy từ năm 1922, tiếp đó là bọn Đức Cộng, bọn văn nô các nước chư hầu Đông Âu, rồi Tầu Cộng. Bọn Việt Cộng chỉ làm cái việc học mót đàn anh.
Trước khi nổ ra vụ Nhân Văn Giai Phẩm đòi văn nghệ phải được tự do năm 1956-1957 ở Hà Nội, Phùng Quán, với bài thơ Lời Mẹ Dặn, được coi là thi sĩ cách mạng vô sản điển hình, là hình ảnh người đảng viên cộng sản kiên cường, bất khuất. Phùng Quán có viết trong tập hồi ký Vượt Đảo. Chế Lan Viên ca tụng Phùng Quán trong bài tựa quyển này là: “… người đảng viên trung kiên, đứa con ưu tú của tổ quốc…” Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm những bài viết chửi bới tàn tệ Phùng Quán có chi tiết “Ông bố hắn làm Mật thám cho Pháp. Bố như thế thì con không thể khá được v.v…”
Sau Tháng Tư 1975, người Việt Nam đói sách báo, không có sách báo để đọc “từ Ải Nam Quan cho đến Mũi Cà Mâu” như lời những ông rao bán thuốc ho bà Lang Trọc trong những tác phẩm của ông Vũ Trọng Phụng. Tiểu thuyết hoàn toàn không có mặt trong xã hội gọi là “Xã Hội Chủ Nghĩa”. Cái gọi là “truyện” được ấn hành ở miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa chỉ là những bản ca tụng Đảng, ca tụng Bác Hồ và bọn đảng viên, diễn tả những cuộc sống giả tạo, những tâm trạng và những mẫu người không có trong đời sống thật. Anh Công An Huỳnh Bá Thành tung ra quyển “Vụ án Hồ Con Rùa”. Vì nhu cầu đọc của nhân dân quyển sách này bán khá chạy. Từ đó một lô những “Vụ Án…” đủ thứ được in ra. “Bọn xấu” trong những vụ án này là nhân dân. “Bọn tốt” là những chiến sĩ công an phẩm chất đạo đức sáng như gương Tầu, trình độ nghiệp vụ đạt đến đỉnh cao của loài người tiến bộ, tác phong mẫu mực, trong sạch, chí công, vô tư, xả thân vì nước, vì nhân dân, hành động không chỗ nào chê. “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút”, do Nam Thi – Minh Kiên viết, nằm trong loại sách “Vụ Án” này.
Nhưng không mấy lâu, dù cần đọc, nhân dân cũng rất mau chán ngấy loại sách “Vụ Án”. Vậy thì đã xuất bản năm 1987, nếu không có người mua, tại sao năm 1994 quyển NTBKCB lại được tái bản? Nguyên nhân vì Công An Việt Cộng là lực lượng mạnh nhất trong xã hội Việt Nam hiện nay. Hàng năm họ có khoản tiền lớn chi vào việc cung cấp tài liệu, văn hóa phẩm bồi dưỡng chính trị cho cán bộ Công an. Hai anh Đại tá Nam Thi – Minh Kiên đã về hưu. Quỹ công an mua sách của hai anh để hai anh có khoản tiền.
Tôi trích đăng vài trang hai anh Nam Thi – Minh Kiên viết về chúng tôi để bạn đọc thấy họ đã vu cáo, đã chửi rủa chúng tôi như thế nào. Bị CAVC “chửi rủa” không phải là chuyện nhục nhã mà cũng chẳng phải là một vinh hạnh. Tôi chẳng cần “trả lời” họ. Tôi đăng vài trang họ viết để quý bạn thấy việc làm đê tiện của bọn họ và để tôi viết lên, ghi lại những cảm nghĩ của tôi về những năm tháng u ám tôi sống ở Thành Hồ Ngục Tù.
Khi viết bài này, tôi không hỏi ý kiến các bạn tôi, những người có tên trong quyển “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút.” Chúng tôi tám người bị bắt năm 1984 – hai anh Hiếu Chân Nguyễn Hoạt và Dương Hùng Cường đã chết trong tù ngục cộng sản – năm 1996 chúng tôi còn sống sáu người. Hai người hiện ở Thành Hồ. Cô Nguyễn thị Nhạn hiện ở đâu tôi không được biết. Ba người: anh Doãn Quốc Sĩ, Khuất Duy Trác và tôi ở Hoa Kỳ. Tôi một mình chịu trách nhiệm về những chuyện tôi viết ở đây.
Mời bạn đọc Lời Giới Thiệu truyện “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” do Cán Cộng Phan Hiền viết.
Lời Giới Thiệu
Trong cuộc chiến tranh trường kỳ bảo vệ Tổ quốc, bên cạnh hoạt động quân sự mà mọi người đều biết, có những chiến công thầm lặng của các chiến sĩ an ninh, trên một mặt trận không có tiếng súng nhưng rất gay go quyết liệt.
Đặc biệt từ khi cuộc kháng chiến cứu nước giành được thắng lợi hoàn toàn, một cuộc đấu tranh mới lại tiếp diễn vì các lực lượng thù địch vẫn mưu toan phá hoại nền độc lập, xóa bỏ thành quả cách mạng của nhân dân ta trong một cuộc chiến tranh mới. Cuộc chiến tranh trên mặt trận văn hóa – tư tưởng lúc đầu được kẻ thù hoạch định trong “kế hoạch hậu chiến”,  sau trở thành một chiến lược diễn biến hòa bình.
Nhận biết rõ bộ mặt thật của các thế lực thù địch, trong khi nhân dân ta tập trung sức xây dựng lại đất nước và mở rộng các mối quan hệ quốc tế, nhân dân Việt Nam không lúc nào xao lãng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, giữ vững thành quả mà ông bà ta và các thế hệ tiếp nối đã xây đắp nên bằng bao nhiêu máu xương, mồ hôi, nước mắt suốt mấy ngàn năm lịch sử oai hùng.
Cùng với các lực lượng yêu nước trên mọi lĩnh vực xây dựng và bảo vể Tổ quốc Xã Hội Chủ Nghĩa, các chiến sĩ an ninh nhân dân lại bước vào cuộc chiến đấu mới đầy cạm bẫy và đòi hỏi nhiều trí thông minh, tinh thần sáng tạo trên mặt trận chính trị, văn hóa và tư tưởng. Những chiến công thầm lặng trên mặt trận này cần được phản ảnh, ghi lại một cách đầy đủ với nội dung phong phú, hình thức đa dạng để nêu cao những tấm gương cao đẹp của chiến sĩ và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” của Minh Kiên – Nam Thi là một trong những tác phẩm văn học góp phần làm phong phú thêm truyền thống đấu tranh bất khuất và ý chí quyết thắng của dân tộc, bảo vệ và phát huy hồn thiêng sông núi Việt Nam.
Phan Hiền


Những Tên Biệt Kích Cầm Bút (phần 2)-Hoàng Hải Thuỷ


Posted on November 16, 2007 
 Hoanghaithuy

Nhân đây, xin viết vài hàng về nhân vật Triệu Quốc Mạnh. Anh có chứng chỉ Cử nhân Luật, gia nhập Cảnh sát Quốc Gia, mang lon đại úy Cảnh Sát. Anh được bổ nhiệm làm Giám đốc Cảnh Sát Đô Thành Sài Gòn trong chính phủ hư thai Dương Văn Minh. Sau Đại Hội Đảng kỳ 6, Tổng bí thư Chăn Trâu Nguyễn Văn Linh tuyên bố: “đổi mới tư duy”, Triệu Quốc Mạnh và Nguyễn Đăng Trừng được phép mở một cái gọi là Phòng Dịch Vụ Pháp Lý. Tiếp đó, để cho có vẻ có pháp luật đôi chút Triệu Quốc Mạnh và Nguyễn Đăng Trừng trở thành “luật sư” biện hộ những vụ án chính trị được mang ra tòa xử. Triệu Quốc Mạnh biện hộ cho đám “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút,” Nguyễn Đăng Trừng biện hộ cho nhóm Tu Sĩ Già Lam Chống Đối trong có Thượng Tọa Thích Đức Nhuận, Trí Siêu Lê Mạnh Thát, Tuệ Sĩ Phạm Văn Thương, Ni Cô Thích Trí Hải, v.v… Năm 1992, trường Đại Học Luật Khoa được Võ Văn Kiệt cho mở ở thành phố Hồ Chí Minh, Triệu Quốc Mạnh là khoa trưởng.
Nghe nói cái gọi là trường Đại Học Luật Khoa Thành Phố HCM bị bọn lãnh đạo ở Hà nội coi là không được danh chính, ngôn thuận. Thủ đô Hà Nội không có Đại Học Luật. Bộ Nội Vụ Việt Cộng có cái trường gọi là Đại Học Pháp Lý chuyên đào tạo các anh chị cán ngố làm nhân viên Bộ Nội Vụ. Những cán đực, cán cái không cần có trình độ học vấn vẫn vào được Đại Học Pháp Lý. Vì vậy người ta thấy có những chị chuối chiên, vịt lộn viết cái biên lai giặt ủi cũng mướt mồ hôi nách trở thành những vị “thẩm phán”. Thời cộng sản mở toang mọi cửa lớn, cửa nhỏ, cửa trước, cửa sau để khều ngoại nhân vào đầu tư cho chúng ăn bám có nhu cầu phải có những chuyên viên về luật thương mại – chuyên viên cán sự thôi, đừng nói đến danh từ “luật sư” đao to búa lớn. Võ Văn Kiệt cho Thành Hồ mở Đại Học Luật Khoa, thu nhận sinh viên dân sự vào học, bọn cộng sản Hà Nội không bằng lòng. Thành Hồ hiện có một số anh được phong đại là “Luật gia” thường xuất hiện trên Tivi nói lăng nhăng về các vấn đề luật pháp. Không ai biết những anh “luật gia” này ở trường Luật nào ra. Lại thêm Đại Học Luật mà Giáo sư Khoa trưởng là ông Cựu Đại úy Cảnh sát Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa chỉ mới có chứng chỉ cử nhân thì trình độ giảng huấn của trường tất nhiên là khá quá rồi.
Triệu Quốc Mạnh – giống như những anh Trịnh Công Sơn, Phạm Trọng Cầu, Vũ Hạnh – là một thứ “phi cầm, phi thú”. Mấy anh không phải là đảng viên cộng sản. Cộng sản không nhận mấy anh là đồng đảng. Mấy anh phản bội những người quốc gia Việt Nam Cộng Hòa từng nuôi dưỡng mấy ảnh. Hai mươi mùa lá rụng qua rồi, thân phận những anh “phi cầm, phi thú” không có gì đáng để nói .
Trở lại chuyện “Những Tên Biệt Kích Cầm Bút” tôi nói rõ: Tôi không “trả lời” hai anh Nam Thi – Minh Kiên. Hai anh ở trong hàng ngũ bọn Công An Cộng sản đã bắt giam chúng tôi, hai anh viết vung xích chó về đời tư, vợ con, cha mẹ, việc làm của chúng tôi. Khi ở trong vòng kìm kẹp của các anh, tôi không có điều kiện để viết về việc chúng tôi làm. Hôm nay có điều kiện viết, tôi viết. Tôi đăng một số trang hai anh viết về chúng tôi để bạn đọc của tôi biết các anh đã – học mót bọn Nga cộng, Tàu cộng – “chửi bới” những người phơi bầy những tội ác của Đảng các anh như thế nào .
*****
Mặt trận không tiếng súng… Đó là lời huê mỹ anh Phan Hiền viết trong Lời Tựa “Quái Phẩm” NTBKCB. Trong cái gọi là “Mặt trận không tiếng súng” ấy một bên là phe công an Việt Cộng có súng, có nhà tù, có quyền bắt người, giết người, giam người gần như hoàn toàn tự do tùy ý. Phe bên kia, phe nạn nhân, không phải phe đối nghịch, là nhân dân, chân tay không, những người dân khốn khổ không có qua một chút bảo đảm nào về an ninh, những nạn nhân bị đàn áp suốt đời chỉ chịu trận mà không có qua một cách nhỏ nhất nào để có thể tự vệ, đỡ đòn, đừng nói đến chống trả.
Tôi – người viết loạt bài này – không cho việc Công An Thành Hồ bắt giam chúng tôi là việc xẩy ra trên một “Mặt Trận”. Không phải tôi nhát đến độ sang được Xê Kỳ rồi vẫn còn sợ không dám nhận mình có thời từng “chiến đấu” với Công an Việt cộng trên “mặt trận”, dù đó là “Mặt Trận Văn Hóa.” Theo tôi, gọi việc Công An Việt cộng bắt giam chúng tôi là việc xẩy ra trên một “Mặt Trận” là danh không chính và ngôn không thuận. Anh em chúng tôi chỉ có những cây bút Bic. Và chúng tôi cũng không được sử dụng cây bút để thể hiện một nửa khả năng của chúng tôi. Chúng tôi lén lút viết, lén lút gửi đi. Viết rồi gửi đi thấy lòng ngẩn ngơ như thả con mình đi vượt biên mà không biết nó sống chết ra sao. Người viết có cái lạc thú đọc bài mình in trên trang báo, trang sách, chữ in sáng sủa, gọn gàng. Những mùa thu lá bay vàng võ ở Thành Hồ chúng tôi hoàn toàn không có cái lạc thú đó.
Những ngày, những đêm dài u ám nằm ngâm Thơ Gãi Háng đến chán ngấy ở những phòng giam Nhà Tù Số 4 Phan Đăng Lưu, Ô ten Chí Hòa, Trại Cải Tạo Z30A, Xuân Lộc, Đồng Nai, đôi khi tôi nghĩ vẩn vương: “Nó có cả một bộ máy tuyên truyền cực mạnh; các báo, các nhà xuất bản, truyền thanh, truyền hình… của nó hết. Tại sao nó không dùng những phương tiện đó để tranh luận với mình? Mình viết về những cái xấu của nó, nó có thể phản bác, trưng bằng cớ nó không có những cái xấu ấy, nhân dân sẽ quyết định thằng nào đúng, thằng nào sai? Tại sao nó không làm thế? Tại sao nó lại phải bắt mình, phải bỏ tù mình?”
Sau những lần nghĩ như vậy tôi vẫn bùi ngùi thương thân. Trong tuyệt vọng tôi đã mong ước những người cộng sản làm với tôi cái việc họ không bao giờ làm. Đó là việc tranh luận để nhân dân làm Ngự sử. Mong cộng sản tranh luận thì thật là ngu đến cỡ phi-ní lô đia, tức ngu hết nước nói. Người cộng sản không đối thoại với bất cứ ai. Cách đối xử duy nhất họ áp dụng với những người không ca tụng họ là bắt, giết, bỏ tù đến chết. “Biết rồi. Khổ lắm. Nói mãi.” Lời Cố Hồng, Số Đỏ – Vũ Trọng Phụng.
Nón cối, dép râu, A-ka, cờ đỏ ngơ ngáo vào Sài Gòn. Cuộc biển dâu khủng khiếp bắt đầu.
Trải qua một cuộc biển dâu.
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Hai trăm năm trước người thơ xưa phải chứng kiến cuộc biển dâu Lê-Trịnh-Nguyễn- Nguyễn phân tranh, ông chỉ thấy đau lòng thôi. Con cháu ông không được cái may mắn chỉ chứng kiến biển dâu và chỉ thấy đau lòng như ông. Chúng tôi bị nhận chìm trong biển dâu, chúng tôi chết trong cái dâu biển ghê rợn, thê thảm ấy.
…. Ngươi đi bốn biển vui hò hẹn
Ta ở đây chìm dưới biển dâu
Mưa nắng xứ người ngươi gắng chịu
Sắt son dạ ấy chớ phai màu
Thôi ngươi đi nhé. Đừng quay lại
Ta khóc đây ngươi có biết đâu!
Thơ Mặc Thu tiễn Nhã Ca-Trần dạ Từ đi ODP ra nước ngoài. “Ta ở đây chìm dưới biển dâu” là cái ý tôi mượn để tả tình cảnh chúng tôi ở Thành Hồ sau ngày oan nghiệt Ba Mươi Tháng Tư 75.