30/04: VNCH để lại nhiều di sản quý cho ngày nay và
tương lai
Vũ Thăng Long Gửi bài từ Hoa Kỳ nhân dịp
30/04
·
23 tháng 4 2019
Đáng lẽ bài này được
dành cho ngày 30/4 năm tới (2020), nhưng tác giả muốn viết sớm một năm để nhớ
dĩ vãng buồn vào mỗi dịp tháng Tư, và nhắc lại những thành tựu không thể phủ
nhận của 21 năm Việt Nam Cộng hòa (1954-1975) có thể thành bài học quý giá cho
Việt Nam bây giờ và trong tương lai.
Trước tiên, di sản lớn
nhất của VNCH đã để lại cho thế hệ sau 1975 phải nói đến là nền âm nhạc phong
phú, đa dạng và chan chứa tình tự dân tộc và văn hóa dân gian.
Bất chấp chủ trương
diệt tận gốc rễ của chính quyền mới sau tháng 4/1975, nét văn hóa bất diệt này
vẫn tồn tại ở miền Nam và sau đó lan dần ra miền Bắc. Ban đầu chỉ có một số nhỏ
bài hát được phép trình diễn chính thức, nhưng danh sách này lớn dần và đến nay
thì hình như không có lệnh cấm giới hạn nữa.
Phong trào nhạc
Bolero, hay còn được gọi là "nhạc vàng" tràn ngập bây giờ là ví dụ
hùng hồn nhất.
Nhưng trong giới hạn
của bài này, chúng tôi chỉ muốn đề cập đến các di sản chính khác về giáo dục,
kinh tế, chính trị hành chính và xã hội.
Tự hào tuổi trẻ và nền giáo dục Miền Nam
Đọc xong vài quyển
sách gợi chuyện cũ, tưởng như đã được rũ sạch nỗi ấm ức cái "hội chứng
Việt Nam" (Vietnam syndrome) từ lâu về một đất nước phú cường văn minh như
Nam Hàn phải có trong giấc mơ cho xứ mình.
Thật sự từ trên 40 năm
nay, sau khi du học ở tuổi 18 rồi ra trường, sống và đi làm nhiều nơi, tôi vẫn
chưa tỉnh hay thoát ra khỏi "NÓ". Tôi chưa giải tỏa được nỗi ấm ức
của "giấc mơ xưa" ở tuổi thanh xuân. Tôi từng có những giấc mơ đội đá
vá trời và lòng tự tin nhưng suốt đời vẫn chưa tìm thấy chốn "dung
thân" để phục vụ lý tưởng tuổi trẻ.
Đã từng về làm việc ở
Sài Gòn từ đầu thập niên 2000 cho đến 2014, tôi thấy hàng ngày sự phồn thịnh
hơn của xã hội về vật chất so với những ngày tuổi trẻ miền Nam của tôi, nhưng
tôi vẫn tò mò tìm hiểu nơi đám người tuổi trẻ hiện nay, xem họ có chia sẻ cái
"phần hồn ngày xưa" của đám anh em chúng tôi đã lớn lên trong cùng thành
phố này.
Chúng tôi lớn lên
trong khung cảnh của một đất nước loạn ly, nhưng may mắn còn được hấp thụ một
nền giáo dục, tuy mang tiếng "từ chương" lý thuyết nhưng vẫn có một
giá trị tối thiểu nào đó được chứng minh sau này khi đàn chim non miền Nam chúng
tôi tốt nghiệp trung học, bay ra khắp các chân trời thế giới đã ghi lại nhiều
thành tích trong các trường đại học Âu Mỹ.
Chúng tôi còn may mắn
lớn lên trong một nền lễ giáo cổ truyền Việt Nam còn sót lại, tôn trọng các
giá trị gia đình cao đẹp từ ngàn xưa, những tin yêu vào tình đời tình người vẫn
còn mạnh mẽ.
Nhất là thời kỳ
"vàng son" 1955-63 của nền Đệ nhất Cộng hòa trong thanh bình thịnh
vượng của một VNCH dân chủ tương đối.
Đáng nói nhất là đám
thiếu niên tuổi 15-16 thuở chúng tôi đã manh nha một lòng yêu nước mãnh liệt,
muốn góp tay xây dựng một đất nước phú cường bằng sự chăm chỉ học hành trau dồi
kiến thức, mơ tưởng đến một nền kinh tế hùng mạnh, một xã hội ấm no công bằng.
Chúng tôi chỉ có ý
nghĩ đơn giản như đại đa số thanh thiếu niên trong các nước Á châu khác lúc ấy,
là sẽ cố gắng học hành hay làm việc để xây dựng đất nước bằng một nền kinh tế
vững chắc. Đó là lưu dấu kỷ niệm đậm đà nhất của tuổi thanh niên mới lớn ở miền
Nam.
Sau này, khi có dịp về
sống ở Sài Gòn rồi ngồi trầm ngâm hàng giờ bên ly cà phê ở quán Continental,
tôi ngỡ ngàng xem từng đoàn xe máy phóng như đua chung quanh Nhà hát Thành phố
-Trụ sở Hạ nghị viện VNCH trước 1975 - của những người trẻ tuổi bây giờ.
Họ la hét ầm ĩ, có vài
cô mặc thiếu vải nhún nhảy tự nhiên trên băng sau của những chiếc xe máy Honda
đắt tiền kiểu mới nhất, ăn mừng trận bóng tròn vừa thắng Thái Lan hay Malaysia.
Họ hét to "Việt Nam vô địch" như thể hiện ý chí chiến thắng đó giống
các nhóm khán giả đông đảo thường la to mỗi lần có mặt trên những sân vận động.
Nhóm đua xe đông quá
và dường như tạo thành sức sống mãnh liệt cho cái thành phố quá tải của đất
nước được mệnh danh là "non trẻ" này, khi các nhóm trẻ từ 20 đến 40
tuổi được ước tính chiếm 40% dân số, vẫn là một ẩn số lớn về xã hội và chính trị.
Những người trẻ bay
lượn trong phố đêm trên những "mô tô bay" như biểu hiện của tự do,
của văn minh còn được tìm thấy cho tuổi trẻ của mình trong đất nước đó. Tôi
chợt hiểu tại sao họ thường "đi bão, xuống đường" tràn ngập với những
rừng cờ đỏ, băng rôn hay tô son vẽ mặt đậm màu quốc kỳ để chào mừng một trận
vừa thắng "kẻ địch".
Bên trên những chiếc
xe máy tốc độ giúp cái hừng khí ngắn ngủi chợt tìm thấy, lòng yêu nước được dịp
tỏ rõ qua những sự kiện thể thao. Đam mê còn lại đó cùng những ly bia đầy giúp
họ xóa đi cái vô cảm hàng ngày với những vấn đề lớn hơn của xã hội, và bớt đi
cái mặc cảm thiếu trách nhiệm với một đất nước tụt hậu thua kém láng giềng. Họ
có vẻ ít nghĩ xa như vậy.
Những người lớn tuổi
xưa cũ của thành phố này thường tỏ lộ u hoài, nói với tôi là họ nhớ lại các thế
hệ cùng tuổi như chúng tôi dạo 1960-1970. Ngay chính Chủ tịch Quốc hội đương nhiệm,
Nguyễn Thị Kim Ngân, vốn gốc tỉnh Bến Tre thời VNCH, cũng phải tâm sự lên tiếng
khen nền giáo dục cũ của miền Nam.
Những ý nghĩ vụn này
đã tạo dịp cho tôi được sống lại những tự hào của một thời tuổi trẻ trong thành
phố Sài Gòn, được hưởng nền giáo dục VNCH, với lý tưởng mộng mị cho một Việt
Nam hùng mạnh tương lai.
Ra đi du học mong trau
dồi kiến thức với tâm huyết hừng hực của một thanh niên tuổi 20, và sau này lúc
ra đời làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, vẫn mang trái tim phục vụ tuổi 30 dù
mái tóc đã điểm sương.
Và cùng với người Sài
gòn bấy giờ, tôi vẫn thấy bừng lên sức sống với giấc mơ xưa: Biết đâu sẽ có
một ngày?
Di sản cộng hòa cho Việt Nam nay là gì?
A. VNCH và thành công kinh tế thị trường
Dù chưa được quen
thuộc nhiều với các định chế kinh tế và tài chính quốc tế hay các nền kinh tế
tư bản lớn, VNCH đã biết sớm theo các qui luật của nền kinh tế thị trường và
nhất là nhấn mạnh vai trò khu vực tư nhân.
Điều này tương phản
hoàn toàn với nền kinh tế VN bây giờ, sau 44 năm thống nhất, vẫn loay hoay với
lý thuyết "kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa" mà
không ai chứng minh được.
Các thay đổi lớn sau
ba thập niên Đổi Mới từ những năm 1986-1989 đã giúp VN có một bộ mặt tương đối
phồn thịnh ở các thành thị, nhưng đi dần vào bế tắc nếu không có các cải cách
thể chế song hành với cải cách kinh tế ở giai đoạn tới. So sánh thời kỳ 21 năm
dưới VNCH với thời gian ít hơn một nửa so với 44 năm của nước VN thống nhất,
hai di sản kinh tế nổi bật của VNCH là:
Đặc biệt là chính sách
"Cải Cách Điền Địa" dưới thời Đệ Nhất Cộng Hòa được tiếp nối bởi
"Người Cày Có Ruộng" dưới thời Đệ Nhị Cộng Hòa, nhằm lấy lại các mảnh
ruộng bao la nằm tập trung trong tay một số nhỏ đại điền chủ từ thời Pháp
thuộc, phát đất rộng rãi cho các tầng lớp nông dân và khuyến khích tự do trồng
trọt, nhất là lúa gạo, để miền Nam tự cường.
Ngoài ra, và quan
trọng nhất, là những năm về sau Chính phủ VNCH đã cho áp dụng một chính sách
qui mô cho gieo hạt lúa mới "Thần Nông" trên toàn vùng đồng bằng Cửu
Long, làm tăng gia đột biến năng suất trồng lúa và mức sản xuất gạo của đất
nước, đưa đến cả khả năng xuất cảng gạo bắt đầu vào năm 1974. Đây là thành tích
kinh tế đáng kể của VNCH khi cuộc chiến tương tàn cũng đi vào giai đoạn ác liệt
nhất.
Nước VN thống nhất sau
tháng 4/1975 mới chỉ nhận ra tầm quan trọng của chính sách sản xuất lúa gạo tự
do với Đổi Mới từ năm 1986 khi đến bờ vực của nạn đói, lúc không sản xuất đủ
gạo ăn và dân chúng bắt đầu phải trộn cơm với bo bo từ những năm 1980.
Từ khi chính phủ trung
ương ở Hà Nội thay đổi chính sách bằng "ngòi bút" từ nghị quyết năm
1986 cho phép dùng giá cả và sản xuất tự do, di chuyển gạo từ vùng thừa sang
vùng thiếu, đã làm lại cuộc "cách mạng xanh" nói trên của VNCH, khởi
đầu toàn chiến lược đổi mới nông nghiệp và tiếp đó "lột xác" toàn nền
kinh tế trong ba thập niên theo sau.
Điều đáng lưu ý là
cuộc cách mạng này đã được thừa hưởng di sản có sẵn của chính sách tự do trồng
trọt ở đồng bằng Cửu Long, diện tích trồng đã được phân phối rộng và công bằng
ở miền Nam, và nhất là kiến thức nông gia trong việc canh tác lúa "Thần
Nông" đã có sẵn. Đáng kể hơn là việc có thể đem kỹ thuật và giống lúa này
ra đồng bằng sông Hồng ngoài Bắc, khiến mức sản xuất lúa gạo của toàn cõi tăng
kỷ lục, và không ngạc nhiên khi chỉ chục năm sau VN đang từ thiếu gạo ăn trong
nước, trở thành xứ xuất cảng gạo hạng ba thế giới sau Thái Lan và Ấn Độ.
VNCH đã tìm ra vài
"túi dầu" đầu tiên vào các năm 1973-74 ở thềm duyên hải Vũng Tàu, chỉ
tiếc là chưa kịp thì giờ và vốn đầu tư khai thác để tìm ra dung lượng lớn đáng
kể đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra, tình trạng thiếu an ninh do
cuộc chiến tiếp diễn hàng ngày đã là yếu tố quyết định khiến các nhà đầu tư
ngần ngại.
Nhiều quan sát viên
quốc tế và nhà bình luận chính trị sau này đã tiếc cho VNCH là chưa đủ thời
gian để khai thác các mỏ dầu và khí ngoài khơi khổng lồ, nhất là đủ để hấp dẫn
các hãng dầu Hoa Kỳ.
Nếu có, và nếu các
hãng này ký kết khai thác với chính phủ miền Nam dạo đó, chưa chắc gì có cảnh
Henry Kissinger ký kết bán đứng VNCH vào năm 1972, sửa soạn cho hiệp định ngừng
bắn Paris 1973 và ngày nhân dân miền Nam phải bỏ cuộc tháng 4/75.
Sau 1975, nước VN
thống nhất thừa hưởng trọn vẹn và dầu khí từ miền Nam trở thành tài nguyên chủ
lực của nền kinh tế VN bây giờ. Ngoài việc đem lại số xuất cảng đáng kể hàng
năm cho dân chúng và nguồn lực phát triển, đáng tiếc là một phần tài nguyên đó
cũng bị mất mát do tham nhũng và đầu tư phung phí như các tài liệu điều tra mới
đây về đầu tư ở Venezuela chỉ ra.
Không cần nhìn đâu xa
phức tạp hơn, phải chăng một phần di sản của VNCH là đây?
B. Nền dân chủ của VNCH
Nền dân chủ phôi thai
của Đệ Nhất Cộng Hòa (1955-1963) trong khung cảnh mới dành lại độc lập và nền
dân chủ được củng cố thêm của Đệ Nhị Cộng Hoà (1967-1975) tuy khiêm nhượng và
tương đối, do bị đe dọa hàng ngày bởi cuộc chiến, vẫn cho phép nhân dân miền Nam
sống hạnh phúc trong khuôn khổ nhân quyền được tôn trọng theo hiến chương Liên
Hiệp Quốc và các quyền tự do căn bản nhất như bầu cử, ngôn luận, hội họp, biểu
tình v.v…vẫn được thực thi.
Chủ trương pháp trị,
hay thượng tôn pháp luật (rule of law) của cả hai nền Cộng hòa với bầu cử Quốc
hội và Tổng Thống tương đối tự do; nền hành chánh trung ương và địa phương được
điều khiển bởi các chuyên viên kỹ trị được đào tạo bài bản trong các trường
chuyên môn (thí dụ nổi bật là trường Quốc gia Hành chánh của miền Nam). Ở mỗi
tỉnh, người tỉnh trưởng là nhân vật chính trị hay quân sự do Chính phủ trung
ương bổ nhiệm, nhưng Phó Tỉnh trường thường là chuyên viên kỹ trị.
Trái lại, Việt Nam
thống nhất bây giờ mới chỉ cổ võ cho bầu cử tự do nhưng chưa bao giờ được thực
hiện trong thực tế qua các cuộc ứng cử và bầu cử các Hội đồng Nhân dân và Đại
biểu Quốc hội.
Tương tự, Việt Nam
bây giờ mới bắt đầu học hỏi kinh nghiệm về cải cách hành chánh như dưới thời
VNCH và cử chuyên viên kỹ trị ở cấp trung ương và địa phương.
Quốc hội Việt Nam bây
giờ mới sửa soạn các dự thảo luật đề nghị bổ sung thẩm quyền của Thủ tướng
trong việc áp dụng những mô hình mới về tổ chức bộ máy từng Bộ, cơ quan ngang
Bộ, các cơ quan thuộc chính phủ trung ương, và chính quyền địa phương cấp Tỉnh
và cấp Huyện.
Theo đó, Thủ tướng
cũng có thêm quyền thành lập, sát nhập, hay giải thể các cơ quan, tổ chức hành
chính khác thuộc cấp Tỉnh và cấp Huyện.
C. Các tổ chức Xã hội Dân sự
Các tổ chức này dưới
thời VNCH được tự do thành lập và hoạt động với qui chế tự trị về cả hành chính
và tài chính. Ví dụ như Tổng liên đoàn Lao công hay các Tổ chức chính trị, xã
hội và Hiệp hội.
Còn hiện nay, Nhà
nước tìm mọi cách để trì hoãn không trình ra Quốc hội hai Dự luật lập hội và
Biểu tình, mặc dù hai quyền này của dân đã quy định trong Hiến pháp 2013.
Người dân cũng không
được quyền ra báo, như đã duy định trong "quyền tự do ngôn luận" ở
Điều 25 Hiến pháp 2013 viết:
"Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định."
Như nói ở trên, những
dòng viết ngắn của tôi nhân dịp 44 năm từ biến động lịch sử 30/04/75 không phải
là để thêm nước mắt cho một đau buồn còn ghi đậm dấu trong tâm hồn tôi, một con
dân Việt Nam Cộng hòa cũ.
Với thời gian hơn 50
năm từ tuổi thiếu niên rời trường, ra nước ngoài du học, rồi bôn ba theo vận
nước nổi trôi làm việc bên ngoài, tôi lại tìm cách "chim quay về tổ"
trong 12 năm để tò mò xem xứ mình ra sao.
Nhưng cuối cùng, sau
những trải nghiệm với thực tế và con người "mới", tôi lại phải ra đi
tìm về một nơi qui ẩn để nghĩ lại đời mình và quê hương cũ một cách bình tĩnh
hơn.
Tôi tự cho mình trên
nguyên tắc là người thuộc "Bên Thua Cuộc" với hai cơ hội bỏ lỡ từ
thời 1963 của Đệ nhất Cộng hòa và 1975 của thời Đệ nhị Cộng hòa. Nhưng không
phải hoàn toàn do lỗi chúng ta, mà quan trọng hơn là do sự phản bội của nước
bạn "đồng minh" Hoa Kỳ không giữ lời cam kết ngăn chặn cuộc tấn công
miền Nam của lực lượng cộng sản.
Lời hứa bằng giấy
trắng mực đen của Tổng thống đảng Cộng hòa Richard Nixon lúc bấy giờ đã hứa
bằng văn thư với Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu, sau khi ông Thiệu bằng lòng
ký Hiệp định Paris 1973.
Do đó mà chúng ta đành
chấp nhận kiếp tha hương hiện tại do số mệnh đi từ vận nước không khá kéo dài
suốt từ hơn 70 năm nay.
Dù không giữ được miền
Nam thân yêu, nhưng chúng ta, những người miền Nam đã để lại di sản VNCH đáng
kể cho cả đất nước và dân tộc hôm nay và tương lai.
Các kênh truyền thông
và các cuộc tiếp xúc của tôi với người trong nước đều cho thấy đại đa số đồng
bào ta đều hướng về di sản đó với lòng thán phục và thiện cảm, cũng như lòng
ngưỡng mộ của họ với các nền dân chủ tiến bộ phương Tây.
Một cách công bằng,
chúng ta cũng phải nhìn nhận về "legacy" của "Bên Thắng
Cuộc" (như tựa đề cuốn sách của Huy Đức), nói đúng ra là huyền thoại
"chiến thắng" của họ năm 1975 nhờ vào sự mệt mỏi bỏ cuộc của Mỹ do áp
lực chính trị ngay từ trong lòng Washington, D.C. và tham vọng chính trị cá
nhân của Henry Kissinger muốn bỏ rơi VNCH như "món quà chuộc" lấy
lòng Trung hoa, mở ra chiến thắng chính trị và thương mại cho Mỹ với thị trường
rộng lớn 1,3 tỷ dân Trung Hoa.
Phần khác, họ đạt được
chiến thắng quân sự sau cùng nhờ sự yểm trợ tích cực bền bỉ của Liên Xô và
Trung Quốc.
Họ đã nắm được quyền
hành chính trị, xét cho cùng thì cũng là một "legacy" thôi và nếu họ
biết "góp vốn" bằng cái đó vào việc xây dựng một Việt Nam tương lai
dân chủ và văn minh trong tình hòa giải dân tộc cả trong và ngoài nước, thì sẽ
là công lao lớn cho dân tộc và đất nước.
Nhưng nếu các nhà lãnh
đạo hiện nay chỉ biết nắm giữ quyền hành toàn trị, gậm nhắm quá khứ "vinh
quang" của chiến thắng 1975 thì "di sản" đó sẽ bị lịch sử xóa đi
nhanh chóng.
Đã trải qua thời VNCH,
cuộc sống ở hải ngoại và có dịp về Việt Nam ngày nay thường xuyên, tôi tin
vào lẽ tuần hoàn của Trời Đất sẽ phải áp dụng cho quê hương cũ: "Cùng tắc
biến, biến tắc thông…"
Nhiều người lãnh đạo
cũ của VNCH ở tuổi 35-50 lúc ra đi năm 1975 đều đã nằm xuống.
Nhóm lãnh đạo 60-80
tuổi của VN bây giờ cũng phải ra đi vì quy luật thời gian trong 5-10 năm nữa.
Các tang lễ liên tiếp
của thế hệ lãnh đạo cộng sản 'kháng chiến' gần đây và sắp tới cho thấy họ
đang thành quá khứ, và không phải một mà hai ba thế hệ khác trẻ hơn đang
trưởng thành, chỉ chưa có quyền được làm chủ quốc gia.
Đất nước không thể
"tắc" mãi như thế này, và sắp đến lúc phải có chữ "THÔNG"
mà thôi.
Nhất là các thế hệ trẻ
25-55, lớp người quyết định vận mệnh của đất nước Việt Nam trong 5-10 năm nữa,
sẽ nối tiếp bó đuốc lãnh đạo và, cùng với thế hệ trẻ gốc Việt lớn lên ở hải
ngoại quay về, họ sẽ có thể hướng đất nước về một hướng tốt đẹp hơn nhiều.
Và tôi tin rằng họ sẽ
để lại tên tuổi trong lịch sử một Việt Nam dân chủ, phồn thịnh, hùng cường
trong vùng Đông Nam Á.