Giải
Thích Các Điển Tích, Thành Ngữ, Ca Dao, Tục Ngữ
Tác
giả:
Thanh Quang & Thủy
Hà
*********
Phần
I:
1.
Vắng
Như Chùa Bà Đanh
2.
Tứ
Hỷ
3.
Thần
Tài
4.
Giấc
Mộng Nam Kha
5.
Giá
Áo Túi Cơm
6.
Hương
Lửa Ba Sinh
7.
Mài
Dao Dạy Vợ
8.
Bạch
Diện Thư Sinh
9.
Bát
Trân
10.
Công
Tử Bạc Liêu
1)
Vắng Như Chùa Bà Đanh
Chùa
Bà Đanh là tên gọi Nôm của chùa Châu Lâm. Chùa này được
cất lên cùng với viện Châu
Lâm
vào thời vua Lê Thánh Tông (1460-1497)
ở làng Thụy Chương, Hà Nội. Vì để tránh húy
miếu
vua Thiệu Trị nên sau này Thụy Chương phải đổi thành
Thụy Khuê. Vào thời đó, viện Châu
Lâm
được dùng làm
chỗ
ở cho những người Chiêm Thành được đưa về sau các
cuộc chiến
tranh,
còn chùa Châu Lâm là nơi dành cho họ cúng lễ (vì hầu
hết những người này đều theo đạo
Phật).
Sau
khi người Pháp chiếm đóng Hà Nội, họ đã chiếm khu
vực đất này để lập trường Trung học
bảo
hộ (1907) -
nay
là trụ sở của trường trung học Chu Văn An, vì thế
chùa Châu Lâm phải dời
về
phía Tây Nam, ở cuối làng và đổi sang tên mới là chùa
Phúc Lâm.
Dấu
tích của chùa Phúc Lâm hiện vẫn còn giữ lại được
tấm bia ghi rõ: Bà Đanh tự (chùa Bà
Đanh).
Theo tục truyền, Bà Đanh là một người đàn bà đã có
công dựng lên chùa này, vì thế mà
ngôi
chùa mang tên bà. Từ khi viện Châu Lâm bị bãi bỏ, số
người đến lễ bái chùa này ngày một
ít
đi. Chính vì thế mà không khí ngôi chùa này ngày càng
trở nên vắng vẻ. Trong bài "Tụng Tây
Hồ
phú" của Nguyễn Huy Lượng có ghi lại cảnh vắng
của chùa này:
Dấu
bố cái rêu in nền phủ
Cảnh
Bà Đanh hóa khép cửa chùa.
Cảnh
vắng vẻ, thiếu người đến lễ bái của chùa Bà Đanh
dần dần đã trở thành một hình ảnh để
so
sánh với bất cứ một cảnh
vắng
vẻ nàọ "Vắng
như chùa Bà Đanh"
là một sự vắng vẻ yên tĩnh
gợi
nên vẻ lạnh lẽo, cô quạnh, thiếu hơi ấm của con
người.
Ca
dao Hà Nội có câu:
Còn
duyên kẻ đón người đưa
Hết
duyên vắng ngắt như chùa Bà Đanh.
2)
Tứ Hỷ
Tứ
Hỷ phát xuất từ quan niệm của người Trung Hoa, cho rằng
trong đời người, có 4 điều tốt lành
mà
ai cũng đáng vui mừng:
Cữu
hạn phùng cam vũ
Tha
hương ngộ cố tri
Động
phòng hoa chúc dạ
Kim
bảng quải danh thì.
Hạn
hán lâu ngày nay có mưa
Nơi
xứ lạ quê người gặp được bạn cũ
Đêm
động phòng hoa chúc của vợ chồng mới cưới
Lúc
thi đỗ bảng vàng.
3)
Thần Tài
Theo
truyền thuyết, thần tài chính là Triệu Công Minh, người
đời nhà Tần. Ông lánh đời đi tu tại
núi
Chung Nam. Về sau đắc đạo, ông được phong làm Chính
Nhất Huyền Đàn Nguyên Soái, coi
việc
đuổi trừ ôn dịch, cứu bịnh trừ tai. Hơn nữa, ai bị
oan
ức đến cầu cứu ông thì được giúp đỡ.
Người
buôn bán thì cúng cầu ông để được phát đạt may mắn.
Người
ta thường vẽ ông thành hình một người mặt đen, râu
rậm, tay cầm coi, cưỡi cọp đen. Dân
gian
còn gọi ông là Tài Bạch Tinh Quân hay Triệu Công Nguyên
Soái.
4)
Giấc Mộng Nam Kha
Thuần
Vu Phần ngày xưa rất nghèo, nằm ngủ bên gốc cây hòe,
chiêm bao thấy hai sứ giả mời
ông
làm Phò mã, rồi được vua phong làm Thái thú ở đất
Nam Kha rất vinh hiển. Khi tỉnh giấc chỉ
thấy
một đàn kiến bên mình.
"Giấc
mộng Nam Kha", ý nói giấc mộng đẹp đẽ
và
ngắn ngủi (tương tự như "Giấc mộng hoàn")
5)
Giá Áo Túi Cơm
Thời
Ngũ Đại, có một người tên là Mã Ân, tiếm ngôi vua.
Mã Ân nguyên trước chỉ là một vị quan
võ
nhỏ, bộ hạ của quan Vũ An Tiết Độ Sứ đời Đường
là Lưu Kiến Phong. Rồi sau, Lưu Kiến
Phong
bị bộ hạ giết, Mã Ân được tôn
lên
làm Thống soái.
Rồi
đến khi Chu Ôn soán được thiên hạ của nhà Đường,
đổi quốc hiệu là Lương (sử gọi là nhà
Hậu
Lương), thì Mã Ân được phong làm Sở Vương, làm chủ
cả một giải đất Đông Bắc tỉnh Hồ
Nam
và Quảng Tây, quyền uy lừng lẫy một thời.
Nhưng
Mã Ân thật sự lại chỉ là một kẻ tầm thường, bất
tài, chuyên lo hưởng thụ, người đương
thời
rất khinh thường Mã Ân, và gọi Mã Ân là "Tửu nang
phạn đại", ý nói rằng Mã Ân chỉ là cái túi
để
chứa rượu, đựng cơm mà thôi.
Về
sau, người đời biến "Tửu nang phạn đại"
thành thành ngữ "Giá Áo Túi Cơm", để chỉ hạng
người
bất tài vô đức, không giúp gì được cho quốc gia xã
hội, trái lại chỉ chạy theo lợi danh, mưu
cầu
cơm áo cho mình mà thôi.
6)
Hương Lửa Ba Sinh
Trong
sách "Quần ngọc chú" có ghi lại chuyện Tỉnh
Lang đi chơi chùa Nam Huệ Tự. Ở chùa,
Tỉnh
Lang nằm chơi một lúc đã ngủ thiếp đi không hay biết
gì. Trong giấc ngủ, Tỉnh Lang mơ
thấy
mình đi chơi Non Bồng. Ở chốn ấy, Tỉnh Lang gặp một
ông thầy ngồi niệm kinh, trước mặt
có
một cây hương đang cháy. Do tò mò, Tỉnh Lang bèn hỏi về
nguyên do cây hương nàỵ Thầy
tăng
đáp lại rằng, trước đó đã có một người lên chùa
và thắp cây hương này để khấn nguyện,
cầu
phúc. Nay cây hương vẫn còn cháy mà người ấy đã sinh
được ba kiếp rồi. Kiếp đầu tiên là
vua
Huyền Tôn, kiếp thứ hai là vua Hiến Tôn ở đời Đường,
và kiếp thứ ba là Tỉnh Lang. Nghe
đến
tên mình, Tỉnh Lang giật mình tỉnh giấc, lòng nửa tin
nửa ngờ. Về sau, điển tích này được
lưu
truyền rộng rãi trong dân gian và dần dà đã hình thành
nên thành ngữ "tam sinh hương lửa"
hay
"hương lửa ba sinh" để chỉ lời nguyện có hiệu
lực đến ba đời người.
Về
nguyên do của thành ngữ này, có sách cũng ghi lại nhưng
đôi chỗ có khác đi chút ít. Theo
"Từ
điển truyện Kiều" của cụ Đào Duy Anh thì sách
"Truyền đăng lục" chép là: có người mộng
thấy
một vị lão tăng, trước mặt có tia khói rất nhỏ. Vị
tăng nói rằng: "Đó là khói hương của một
người
đàn việt kết nguyện, người đàn việt đã trải qua ba
kiếp mà hương vẫn còn".
Như
vậy, tuy các dị bản có khác nhau ở một số chi tiết,
nhưng về cơ bản nguồn gốc và con
đường
hình thành thành ngữ "hương lửa ba sinh" đều
thống nhất. Trong tiếng Việt, thành ngữ
"hương
lửa ba sinh" được dùng để chỉ lời nguyền, lời
thề có ứng nghiệm đến ba kiếp.
7)
Mài Dao Dạy Vợ
Ngày
xưa có một người nhà quê lấy phải vợ độc ác. Người
vợ này đối xử với mẹ chồng rất là
hỗn
láo vô lễ. Người chồng khuyên hoài không được, bèn
nghĩ ra một kế.
Anh
ta sắm một con dao bầu thật sắc. Mỗi ngày lấy ra mài.
Người vợ lấy làm lạ hỏi, nhưng anh
ta
không đáp. Người vợ tò mò hỏi hoài, cuối cùng anh ta
trả lời: "Tôi mài dao để có dịp giết mẹ đi
thôi.
Mẹ đã già, sống mà ngày nào cũng cãi cọ với mình vậy
thì thà chết đi cho rồi".
Người
vợ thấy thế hoảng hốt, rồi ăn năn: "Xin mình đừng
giết mẹ, từ nay tôi hứa sẽ không có
điều
chi to tiếng trong nhà nữa".
Từ
đó trong nhà thuận hòa vui vẻ.
"Mài
dao dạy vợ" ý nói sự khôn ngoan của người chồng
để khuyên bảo vợ mình làm điều phải.
8)
Bạch Diện Thư Sinh
Đời
nhà Tống, ở vùng Vũ Khang thuộc Ngô Quận, có 1 người
tên là Trầm Khánh Chi, từ nhỏ đã
ôm
chí lớn, lại có sức mạnh và giỏi về bài binh bố
trận.
Niên
hiệu Nguyên gia thứ 27, Tống Văn đế muốn mở mang bờ
cõi về phương Bắc, sai nhóm
Vương
Huyền Mô đem quân Bắc phạt. Trầm Khánh Chi hết lời
can ngăn, lại đưa ra trường hợp
của
nhiều vị vua trước, đã nhiều lần Bắc phạt nhưng đều
thất bại. Tống Văn đế liền cử 2 vị quan
văn
ra tranh luận với Trầm Khánh Chi. Trầm Khánh Chi nói :
-
Giữ
việc nước, cũng như lo việc nhà vậy. Muốn bàn luận
về việc cày ruộng thì phải bàn luận
với
1 nông phu nhiều kinh nghiệm. Muốn bàn luận về việc
canh cửi thì phải bàn luận với người
đàn
bà dệt vải. Nay Bệ hạ muốn mở chiến tranh với nước
khác, mà lại để những người bạch
diện
thư sinh không 1 chút kinh nghiệm về quân sự đứng ra bàn
luận, thì làm sao mà thành công
được.
Tống
Văn đế không nghe lời Trầm Khánh Chi, cứ cho đem quân
đánh phương Bắc, và quả nhiên
bại
trận nặng nề.
Từ
câu nói của Trầm Khánh Chi mà người đời sau rút ra
thành ngữ "Bạch diện thư sinh" để chỉ
người
trẻ tuổi, chỉ có cái học sách vở, không có kinh nghiệm
gì và không biết đối phó với thực tế
ngoài
đời.