Thế
giới và Việt Nam sau TPP
Nguyễn-Xuân Nghĩa, RFA
2017-02-01
2017-02-01
Sau khi nhậm chức hôm
20, trong ngày làm việc đầu tiên hôm 23 tháng 1, Tổng thống Donald Trump đã thi
hành quyết định mà ông chủ trương từ khi còn tranh cử, đó là đơn phương triệt
thoái khỏi khuôn khổ đàm phán của Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương gọi
tắt là TPP và chỉ thị cho các cơ quan hữu trách tiến hành đàm phán với từng đối
tác thương mại theo thể thức song phương.
Mỹ rút khỏi TPP
Thanh Trúc: Ban Việt ngữ xin kính chào chuyên gia
kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa trong chương trình phát thanh đầu tiên của Diễn đàn
Kinh tế vào năm Đinh Dậu. Ngay sau khi nhậm chức thì Tổng thống Donald Trump
quyết định ra khỏi Hiệp ước Đối tác Xuyên Thái Bình Dương mà Hoa Kỳ đã ký kết
với 11 quốc gia trên vành cung Thái Bình Dương, thường được gọi tắt là TPP.
Quyết định ấy không gây ngạc nhiên cho các nước, nhưng thưa ông, hậu quả sẽ là
gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Như mọi khi, tôi xin được trình bày về
bối cảnh gần xa dẫn đến biến cố này trước khi chúng ta tìm hiểu về hậu quả cho
các nước. Tổng thống Hoa Kỳ có quyền lấy những quyết định cho bộ máy hành pháp
qua các sắc lệnh gọi là “executive orders”; song song ông cũng cho các
cơ quan hữu trách biết chiều hướng thi hành chính sách qua các chỉ thị, gọi là
“bị vong lục” hay memorandum, trong ý nghĩa là “cho khỏi quên”.
Trong ngày làm việc
đầu tiên, hôm 23, Tổng thống Donald Trump ban hành chỉ thị về chính sách đàm
phán thương mại của chính quyền mới, là thứ nhất, vì quyền lợi trên hết của
người dân Mỹ, thứ hai là sẽ đàm phán với từng nước theo thể thức song phương.
Từ nguyên lý ấy, ông ra lệnh cho Đại sứ Thương mại Hoa Kỳ triệt thoái khỏi
khuôn khổ thương nghị với các nước đã ký kết Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương TPP
và bắt đầu dàn xếp đàm phán song phương với từng nước để phát huy công nghiệp,
bảo vệ công nhân và gia tăng lương bổng cho dân Mỹ.
Thanh Trúc: Đấy là bối cảnh gần của việc Hoa Kỳ rút
khỏi Hiệp ước TPP, nhưng qua những gì ông vừa trình bày thì dường như người ta
còn thấy ra một điểm mới là việc đàm phán song phương, thưa ông có phải như vậy
không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Vì những lý do sau đây, tôi sợ nhiều
người hiểu sai quyết định này mà nói là vị Tổng thống thứ 45 của Mỹ đã “giết
chết” một hiệp ước. Thứ nhất, TPP hoàn thành việc đàm phán sau bảy năm thương
thuyết giữa 12 quốc gia vào ngày năm Tháng 10 năm 2015 rồi được đại diện các
nước ký kết ngày bốn Tháng Hai năm 2016. Sau đó, theo quy định thì Quốc hội và
các cơ quan hữu trách của từng nước phải nghiên cứu toàn bộ văn kiện phức tạp
ấy để đề nghị thay đổi nếu thấy cần thiết, trước khi chuẩn bị cơ sở pháp lý cho
việc áp dụng, và sau cùng mới phê chuẩn. Khi ngần ấy quốc gia đã thương nghị
lại rồi phê chuẩn văn kiện có điều chỉnh thì TPP với thật sự thành hình.
Sau khi TPP được ký
kết thì giới dân cử Hoa Kỳ trong Quốc hội khóa 114 mới thấy nội dung quá toàn
diện và rắc rối của TPP nên đa số bên đảng Dân Chủ bác bỏ và không ít dân biểu
nghị sĩ Cộng Hòa cũng không đồng ý. Các ứng viên tranh cử Tổng thống là ông
Donald Trump bên đảng Cộng Hòa và bà Hillary Clinton cũng ông Bernie Sanders
bên đảng Dân Chủ cũng chống, dù bà Clinton đã từng cổ võ Hiệp ước này khi làm
Ngoại trưởng cho Tổng thống Barack Obama. Chính là vì thiếu hậu thuẫn nên Quốc
hội Mỹ không nghiên cứu và phê chuẩn như Tổng thống Obama khẩn khoản yêu cầu,
và với Hoa Kỳ thì Hiệp ước TPP coi như đã chết trong trứng nước. Tổng thống
Trump chỉ làm đúng chủ trương khi tranh cử, nhưng xác nhận thêm giải pháp thay
thế là việc đàm phán song phương.
Hậu quả ra sao?
Thanh Trúc: Nhờ ông nhắc lại bối cảnh, thính giả của
chúng ta hiểu ra những rắc rối của chính trường Hoa Kỳ liên quan đến một Hiệp
ước giữa 12 nước, trong khi đó người ta cũng chú ý đến việc Quốc hội Nhật Bản
đã phê chuẩn TPP mà phía Việt Nam thì vẫn chưa. Thưa ông Nghĩa, khi hiểu rõ sự
thể, ta thấy được một yếu tố mới là chiều hướng đàm phán song phương của Chính
quyền Trump như giải pháp thay thế. Từ đó, ta có thể kết luận thế nào về hậu
quả?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Nếu muốn nhìn ra hậu quả trong tương lai
thì ta nên ngược về quá khứ và đây là bối cảnh xa mà chúng ta cần nhớ khi Tổng
thống Hoa Kỳ nói đến ba mục tiêu của việc đàm phán thương mại theo khuôn khổ
song phương là khuếch trương kỹ nghệ, bảo vệ công nhân và nâng cao lương bổng.
Nhìn trong bối cảnh xa
thì người ta thấy được hai ba chuyện. Thứ nhất là sự thất bại của khuôn khổ hợp
tác thương mại toàn cầu là Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, khi vòng đàm phán
Doha do Chính quyền của Tổng thống George W. Bush đề nghị với WTO từ Tháng 10
năm 2001 mà vẫn bế tắc. Thứ hai là cùng với nỗ lực toàn cầu của một tổ chức có
164 hội viên là WTO thì các nước cũng tiến hành hợp tác cấp vùng, trong từng
khu vực.
Thí dụ như Hiệp ước
TPP Xuyên Thái Bình Dương và Hiệp ước Xuyên Đại Tây Dương gọi tắt là TTIP giữa
Hoa Kỳ và 28 quốc gia thành viên của Liên hiệp Âu châu hay Hiệp ước CETA giữa
Liên Âu và Canada.
Các hiệp ước cấp vùng
ấy cũng thất bại, người ta chỉ nói đến TPP và Mỹ mà quên rằng TTIP hay CETA đều
lâm vào bế tắc, lần này do sự chống đối của nhiều nước Âu Châu. Điển hình còn
rõ hơn là Hiệp ước Tự do Thương mại Bắc Mỹ NAFTA giữa Hoa Kỳ, Canada và Mexico
đã được ba nước áp dụng từ năm 1994 mà nay đang lâm khủng hoảng.
Theo hướng đa phương
đó, sáng kiến thành lập một khu vực tự do mậu dịch giữa 21 quốc gia trên vành
cung Thái Bình Dương gọi là FTAAP được Úc đề xướng từ năm 1989 nay vẫn chưa
nhúc nhích. Thứ ba, ngoài nội dung trao đổi tự do về thương mại và đầu tư, ta
còn thấy một tham vọng khác đó là “hợp tác toàn diện”, với sự đồng thuận
về tiêu chuẩn cao hơn trong các lĩnh vực môi sinh, xã hội, công đoàn, v.v….
Chính là yêu cầu toàn
diện ấy mới khiến Hiệp ước TPP là văn kiện quá phức tạp với nhiều đòi hỏi thay
đổi trong từng nước và vi phạm chủ quyền quốc gia nên mới gây phản ứng chống
đối. Theo chiều hướng ấy, dự án hợp tác toàn diện do Trung Quốc cố thúc đẩy từ
năm 2014 với 10 quốc gia của Hiệp hội ASEAN và năm nước Nhật Bản, Nam Hàn, Ấn
Độ, Úc và New Zealand đã qua 15 vòng đàm phán mà chưa có kết quả. Nếu nhìn vào
bối cảnh trường kỳ thì việc TPP thất bại không có nghĩa là Hiệp ước Toàn diện
và Cấp vùng RCEP sẽ thành công, nhất là khi Bắc Kinh lại muốn đẩy Hoa Kỳ ra
ngoài sáng kiến này.
Song phương hay đa
phương?
Thanh Trúc: Thưa ông Nghĩa, khi nhìn sự kiện từ giác
độ mở rộng như vậy, người ta thấy được vài yếu tố sau đây: từ khuôn khổ hợp tác
toàn cầu như với tổ chức WTO, các nước cũng có nỗ lực hợp tác đa phương trong
phạm vi địa dư của từng khu vực và từ quy chế tự do mậu dịch, các nước còn có
tham vọng hợp tác toàn diện với những yêu cầu thay đổi lớn hơn. Nhưng nói chung
thì dường như các nỗ lực ấy đều gặp trở ngại, thậm chí thất bại. Phải chăng vì
vậy ta mới thấy một chiều hướng mới là tìm sự thỏa thuận song phương giữa hai
nước với nhau?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Tôi nghĩ là vậy. Vì dư luận quá chú ý
tới Chính quyền Donald Trump, người ta cứ cho là tất cả đều do Hoa Kỳ mà ra nên
chẳng thấy thất bại ở nhiều nơi khác như tại Âu Châu và điển hình không
kém là việc Vương Quốc Anh quyết định ra khỏi Liên Âu nay đang chuẩn bị thương
thuyết lại với Âu Châu và với Hoa Kỳ về khuôn khổ hợp tác kinh tế. Chúng ta
chứng kiến một chuyển động lớn là trào lưu hợp tác toàn cầu đang bị đẩy lui và
giải pháp tạm thay thế là các hiệp ước song phương.
Chuyện này xảy ra
trong 80 năm liền, từ 1860 cho tới Thế chiến II. Sau Thế chiến II, ta mới có
các định chế quốc tế trong một trật tự mới làm nền tảng của hợp tác kinh tế
toàn cầu. Trật tự ấy đang rã và thế giới lui về giải pháp song phương mà Hiệp
ước TPP và lập trường của Hoa Kỳ chỉ là hậu quả, không là nguyên nhân. Khi ấy,
ta nên tự hỏi là các nước còn có lợi gì chăng, trong khuôn khổ song phương ấy?
Thanh Trúc: Đây mới là câu hỏi chính vì sẽ giúp
chúng ta nhìn ra yếu tố quyền lợi sau thất bại của TPP. Thưa ông, tự do giao
dịch buôn bán với nhau có lợi hay không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thưa rằng câu trả lời thuộc phạm vi kinh
tế chính trị lại là câu hỏi: “lợi cho ai”?
Thời hiện đại từ 500
năm trước, thế giới gọi là tiên tiến gồm các nước Âu Châu đều ra khỏi lý luận
“trọng nông” của mấy ngàn năm mà theo trường phái kinh tế “trọng thương”.
Trọng thương là coi
trọng thương mại và giao dịch để tranh thủ quyền lợi quốc gia, với hàm ý kinh
tế bên dưới là bán thì lời hơn mua. Người ta lầm tưởng rằng trong mua bán thì
người bán giữ ưu thế theo lối “hơn bù kém” và các nước Âu Châu chinh phục quyền
lợi với chế độ thực dân để giành thêm đất đai hàng hóa từ các thuộc địa.
Triết lý trọng thương
hay nôm na lý tài ấy lại dẫn tới chiến tranh giữa các nước nên từ giữa thế kỷ
19 thiên hạ mới tìm đến các thỏa ước hợp tác theo tinh thần nếu được quyền giao
dịch tự do thì đôi bên đều có lợi, chứ chính sách ngăn sông cấm chợ để bảo vệ
quyền lợi riêng chỉ dẫn tới thất bại.
Chiều hướng ấy phát
triển mạnh sau Thế chiến II với hy vọng là khi tự do giao dịch về kinh tế thì
mọi người đều giàu có và các nước sẽ ít gây chiến với nhau, kết quả tiêu biểu
là tổ chức WTO và Liên Âu. Nhưng ngày nay, tham vọng ấy lại dẫn đến phản ứng
dội ngược là điều chúng ta vửa phân tích vì trong trao đổi, một thiểu số lại
làm giàu nhanh hơn đa số còn lại. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và tổ chức
sản xuất càng khiến một số thành phần xã hội không theo kịp đà tiến hóa và thấy
bị thiệt thòi, như thiếu tay nghề cho lọai công việc mới, bị mất việc hay đành
nhận lương thấp.
Thanh Trúc: Chúng ta đi tới phần kết luận về hậu quả
của TPP là Việt Nam nên làm những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: Thứ nhất, TPP vắng mặt nền kinh tế có
sức tiêu thụ và nhập khẩu cao nhất là Hoa Kỳ nhưng vẫn còn 11 thành viên kia,
kể cả Nhật Bản hay Úc. Đấy vẫn là cơ hội cho Việt Nam cải cách và hội nhập vào
một thị trường lớn hơn, có trình độ tổ chức cao hơn. Là một nước nghèo, Việt
Nam sẽ có lợi nhiều hơn các nước kia trong sân chơi mới.
Thứ hai, Việt Nam đã
bình thường hóa quan hệ với Hoa Kỳ từ năm 1995, có hiệp ước thương mại song
phương từ năm 2000, được quy chế tối huệ quốc một cách thường trực từ 10 năm
trước và vẫn có thể khai triển nền móng thảo luận song phương với Mỹ. Nếu xúc
tiến cải cách theo yêu cầu của TPP với 11 nước kia thì càng có lợi hơn khi đàm
phán với Mỹ.
Trong khi ấy, nếu ngả
theo hiệp ước RCEP có nội dung lý tài của Bắc Kinh thì càng khó ra khỏi tình
trạng lệ thuộc quá tai hại vào kinh tế Trung Quốc. Và sau cùng, bài học từ Hoa
Kỳ về hiện tượng Donald Trump là điều rất đáng cho Hà Nội và Bắc Kinh suy ngẫm:
đó là sự nổi dậy của quần chúng lao động lầm than chống lại những kẻ có quyền và
có tiền. Nên nghĩ đến sự lầm than còn khốc liệt hơn của đa số người dân Việt
Nam trước những chuyển động khá mạnh của thế giới chung quanh.
Thanh Trúc: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do xin cảm tạ
kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tách này.
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/programs/EconomicForum/post-tpp-vietnam-nxn-02012017102824.html