Saturday, June 6, 2015

Du sinh hồi hương



Du sinh hồi hương
Nhangoc
Tôi du học Tây về! Câu đơn giản thế nhưng lanh lảnh như tiếng chuông mới đúc. Chữ “Tây” không chính xác về địa lý nhưng chuẩn xác về sự phân chia cấp bậc cũng như cái nhìn trong xã hội. Có điều tôi chỉ đi “Tây” Nga về chứ không “Tây” Mỹ, “Tây” Úc hay “Tây” Đức, Pháp... Cái “thiệt thòi” hôm nay là “ưu đãi” trước kia của Bộ đại học dành cho tôi. Chả gì nước Nga cũng “ông anh cả” của Việt nam – “nước cộng hòa thứ 16 của Liên xô”.
Tôi là kỹ sư kinh tế ở Nga về. Nghe không vang như câu trên. Phải thôi. Kinh tế Nga chục năm nay lu mu, chả ra “kế hoạch quốc gia”, chả ra “kinh tế thị trường”. Sách vở là phương tiện cãi nhau của các nhà “đổi mới”. Năm năm đèn sách nhét thứ đó vào đầu không ngớ ngẩn là may. 


Tôi mang chiếc bằng đi xin việc. Đầu tiên tôi mua báo, nghiên cứu “tuyển người”, đánh dấu xanh đỏ những chỗ “khả thi” và bắt đầu gọi điện. Nhà có điện thoại lợi đủ đường. Tuy nhiên, mỗi lần “bắt” được giọng đầu dây kia, hiện tượng này chiếm 30% số lần gọi, mẹ và bà chị dâu đều “ý tứ” xem đồng hồ. Nào tôi có ham “nấu cháo điện thoại” mà tại phí điện thoại “cấu” vào đồng lương gớm quá. Tôi đi Tây, tưởng “kinh tế” cho gia đình mấy năm sinh viên. Nào đâu đúng thời kỳ khó khăn. Việt nam qua thời “tem phiếu” từ lâu mà nước Nga bắt đầu “talon”*. Tháng 2 kg đường, 7 lạng thịt, 2 chai vôtka là tiêu chuẩn sinh viên! “Talon” đường, rượu tạm đủ còn thịt thiếu nặng. Ra chợ, có đấy, nhưng học bổng eo hẹp.

Chẳng nhẽ để con gái chết đói ở đất nước Xã hội chủ nghĩa, mẹ tôi đành tiếp viện. Năm năm “hạch toán” ra chắc cũng lõm của mẹ tôi ối. Biết thân, biết phận, về nước tôi không dám làm mình, làm mẩy “quen ở Tây” thế nọ, thế kia. Chỉ duy nhất cái “màn tra tấn” 6 giờ sáng bị khua bằng đủ âm thanh “nội” “ngoại” là tôi “choáng” hẳn. “Nội” là tiếng mẹ tôi mở cửa sắt đi tập thể dục, chị dâu tranh thủ sáng có nước bơm giặt giũ. Xô chậu “duyệt binh” xủng xoảng ra trữ nước dùng trong ngày. “Ngoại” là tiếng rao bán.

Từ “mỳ nóng”, “bánh cuốn”, “xôi” các loại đến gạo tẻ, gạo nếp “tên tuổi” nghe như tiếng Thổ, hoặc mắm muối kèm mùi khó tả... Điên nhất là ông mãnh “mỳ nóng” sáng nào cũng như
“đồng hồ Tây”. Nó đứng dưới cửa sổ tôi gào “mì nóng” lanh lỏi, kết thúc bằng chữ “ròn”. Chao ôi, khâm phục độ nẩy của lưỡi nó. Đồ rằng, cả miền Bắc có mình nó biết phát âm chữ R! Không trốn được những âm thanh đó, tôi chúi đầu vào đống chăn chịu đựng qua “cơn bĩ cực”. Nhưng giờ “thái lai” đến là lúc mẹ tôi đi tập thể dục về. Nhìn con gái còn “giương đò”, bà lại ca “dậy sớm có lợi cho sức khỏe” là lá la... Thôi thà dậy béng cho xong.

Chuyện xin việc không thể gọi điện thoại. Tôi đã qua bài học thứ nhất khi tổng kết thông tin qua điện thoại là con số 0 tròn trĩnh. Mấy người trực điện thoại hoặc nhấm nhẳng hoặc chẳng trả lời câu nào cho ra hồn.

Tôi mò tới “Trung tâm giới thiệu việc làm” và thấy ngay mình là con ngớ ngẩn. Vừa lộ “tốt nghiệp ở Nga về”, họ hỏi ngay:
- Sao không ở lại, về làm gì?
- Làm việc.
- Việc gì mà làm?
Tôi trố mắt nhìn họ, thầm điểm lại xem mình có vào nhầm chỗ.

- Ở đây không giới thiệu việc à? Sao ngoài kia cả chục người làm hồ sơ?
- Họ làm hồ sơ xin đi ra nước ngoài lao động, làm ăn. Đi Hàn quốc, Libi, Iran... có cả đi Nga đấy. Cô có muốn...
Tôi xua tay cám ơn rồi chuồn thẳng ra cổng.
Bài học thứ hai. Tránh lai vãng ở “Trung tâm giới thiệu mờ ám”. Không khéo bị lẫn vào hàng ngũ các cô gái “sính” chồng Đài Loan.

Sau hai bài học, 50% nhiệt tình “phục vụ đất nước” đã đi tong. Tôi chuyển sang “xu hướng” nghe ngóng chứ không đâm đầu làm theo báo nữa. Người thân mong ngóng tôi về sau những năm xa cách, qua 5 tháng, tình cảm cũng vơi đi. Đến mẹ tôi còn sốt ruột khi thấy con gái thất nghiệp nằm chỏng gọng ở nhà. Bà rỉ rả “nhàn cư vi rồi đấy con ạ”. Đúng quá, nhàn đến “rách việc” đây. Sáng chiều cơm nước.

Từ ngày tôi về, tự dưng “Osin” về quê. Chả hiểu bà chị dâu tốt nghiệp khoa kinh tế ở đâu mà giỏi tính thế. Tôi hậm hực cũng chịu, nhăn nhó mẹ tôi chả “hát” nửa tiếng đến ong thủ mất. Bạn bè, đứa có việc đi cả ngày, đứa chưa có việc lại có người yêu, chồng con. Tôi trơ thổ địa, chẳng nhẽ trách ông Trời. May còn dăm ba đứa
“lơ lửng giữa trời”. Tối tối tôi xách xe chạy qua nhà chúng tán gẫu, chia xẻ “mánh khóe sống đời”.

Tôi hiểu giờ người ta xin việc là xin vào chỗ có “mầu”. “Mầu” là bổng lộc. Khoản này không thể có ngay khi mới làm mà phải nhích lên “lão làng”. Không phải ai cũng nhấp nhổm lên được. Chỉ những “tinh hoa” thôi. “Mầu” nữa là “mầu đi Tây” theo suất “nâng cao”. Tụi bạn tôi may mắn có việc thấy chí tiến thủ của chúng nhuộm sắc “hướng ngoại”. Chúng cong mông theo các lớp tiếng Anh, tiếng Pháp như lũ “sống gấp”, xem ngoại ngữ là cái “cánh” mang chúng ra bầu trời tự do.

Sau mấy tháng “thất nghiệp” từ một con “Nga ngố” tôi kết hợp tính nói thẳng, nói thật của Tây với ngoa ngoắt của mấy bà hàng rau, hàng thịt mà mỗi ngày hai lần tôi nhẵn mặt thành một dạng “củ chuối” mà mẹ tôi không chấp nhận được. Bạn bè bầu tôi là “huấn luyện viên phụ huynh” tầm cỡ. Từ chỗ mẹ tôi muốn lấy lại hình ảnh đứa con gái út thùy mị của trước ngày đi Tây, chuyển sang tôi “biến” bà phải chấp nhận triết lý “cái gì cũng có thể với con gái mình”, thậm chí là cướp biển! Một kết quả đôi bên cùng có lợi.

Tôi được tự do, mẹ tôi khỏi thấp thỏm khi khuya khoắt. Nhưng một cái lợi nữa mà tôi chưa lường được. Tình trạng “bụi đời” của tôi khủng bố tinh thần cả nhà nên họ huy động toàn bộ các mối
quen biết họ hàng từ “bắn đại bác” đến “phi dao” để tìm việc cho tôi. Vào một bữa cơm chiều, ông anh trai yêu quý thông báo một tin quan trọng rằng ông giám đốc, bạn cũ hồi phổ thông, dù mới tìm lại nhưng có nhiều duyên nợ, nhận tôi vào công ty ông ta. Mà đó là công ty nhà nước trăm phần trăm, thuộc Bộ khoa học và Công nghệ môi trường cơ mà.

Cả nhà xôn xao, khởi sắc. Tôi cũng hí hửng như sắp thành “ông nọ, bà kia”. Thêm bài học thứ ba. Muốn xin được việc phải quen biết. Tổng quát, muốn được bất kỳ việc gì đều phải có “quan hệ”. Cứ kiểm chứng bằng những buổi tôi “đánh quả” nhà bạn bè là biết. Chị dâu hay mẹ tôi đi chợ, y rằng bọn bán hàng nó giúi cho rau già, bí xơ, thịt dai nhoách. Không có “quan hệ khách hàng thường xuyên” tôi xây dựng mấy tháng nay làm sao có đồ ăn ngon. Tôi giờ ra chợ mua cả tuần không trả tiền là cứ vô tư. Quen thế, không chừng khi nào cưới, tôi phát đại cho chúng thiếp mời cũng chẳng có gì muối mặt hết! 

Ông anh giục tôi tới Bộ Giáo dục và Đào tạo xin giấy chứng nhận tốt nghiệp làm hồ sơ. Tôi ngoạc mồm cãi “bằng sờ sờ ra còn chứng nhận, chứng nhiếc gì” liền bị cả nhà xúm vào sỉ vả ác liệt. Mỗi người một giọng lên lớp hòng dẹp cái thói “ngông nghênh” của tôi.

Mười giờ sáng tôi có mặt ở cổng Bộ Giáo dục và Đào tạo. “Mười năm trồng cây, trăm năm trồng người” có khác, nhà cửa của Bộ đàng hoàng, khang trang. Khu vườn thênh thang giữa thủ đô tấc đất, tấc vàng nhìn sướng mắt. Tôi tiến đến khu nhà 5 tầng, bắt đầu một chuỗi những “xin lỗi chú”, “xin lỗi cô” và cuộc “việt dã” theo cầu thang. Giờ tôi mới biết người Việt nam nào có tính “nhúng mũi” vào chuyện người khác. Tất cả các câu hỏi của tôi đều được trả lời u ơ “không rõ”, “hình như”. Tôi khùng người vì leo thang nhưng ngộ ra vì sao mẹ tôi về hưu rồi còn tập chạy(!).

Cuối cùng tôi cũng mò ra phòng phụ trách lưu học sinh tốt nghiệp. Tôi gõ cửa dõng dạc, bước vào sau tiếng hừm. Tôi chào lịch sự dù chỉ nhận lại chiếc gật hay lay động cơ cổ.
- Cô cần gì?
Một trong hai người đàn ông đang đọc báo hất hàm hỏi.
- Thưa, cháu xin chứng nhận tốt nghiệp để làm hồ sơ xin việc.
- Về bao giờ?
- Dạ, gần một năm.
- Sao giờ mới lên đây?
- Dạ... chẳng ai bảo cháu phải lên ngay cả.

- Cô này vô tổ chức, nguyên tắc về nước phải báo cáo ngay, còn chờ ai bảo. 
Bị mắng “ngứa tai” lắm nhưng bài học cả nhà dạy hôm qua còn nguyên nên tôi im như hến. Tôi rút bằng, sổ điểm cùng giấy sứ quán cấp trình ông ta.
Ông ta cầm tấm bằng, không đọc mà lật qua, lật lại. Lật chán ông quay nhìn tôi. Nhìn như đánh giá mặt hàng, không khác gì tôi chọn cá. Thậm chí còn bĩu môi. Tôi nghĩ, ông này mua cá mà “thể hiện” thế, bọn hàng cá chửi cho tanh người. Nghĩ gì thì nghĩ tôi vẫn làm mặt khép nép. Chợt ông ta ném bẹt cả bằng lẫn giấy tờ của tôi xuống bàn, hỏi gọn lỏn:
- Học gì? Ở đâu?
- Dạ kinh tế, trường Plekhanov ở Matxcơva.

- Học từ năm nào? Tốt nghiệp năm nào?
- Dạ... những điều đó có cả trong bằng rồi, sao chú còn hỏi.
- Tôi hỏi là việc của tôi. Cô không trả lời được phải không?
Ông ta ngẩng nhìn tôi mãn nguyện. Chả hiểu ông ta phát minh được cái quái gì từ mấy câu hỏi trẻ con đó mà mắt ông chợt ánh lên ranh mãnh.
- Cô học hành cái gì. Sang chỉ lo đi buôn, bằng thì mua.
Tôi há hốc mồm còn chưa tin ông ta đang “vu cáo” mình. Ông ta dồn tiếp:
- Cô nói tôi nghe, bằng này cô mua bao nhiêu?

Đến nước này tôi chịu hết nổi. Bao kinh nghiệm cãi nhau với mấy bà ngoài chợ chợt loang loáng trở về. Tôi vênh mặt không kém ông ta, mắt cũng “đèn pha ôtô” xoáy áp đảo:
- Chú nói bằng này giả? Chú nói bằng này mua? Nghĩa là bảng điểm cũng giả, giấy chứng nhận của chú trưởng phòng Lưu học sinh Matxcơva cũng mua nốt. Vậy chú làm ơn ghi cho cháu mấy chữ vào đây. Tiện ký và đóng dấu luôn cho cháu. “Nói có sách, mách có chứng”, mai kia có người sang Matxcơva, cháu kiểm chứng lời chú.
Vừa nói tôi vừa rút xoạch tờ giấy và cây bút đặt trước mặt ông ta. Ông ta đứng bật dậy, há hốc mồm chẳng khác gì tôi lúc trước, lắp bắp:

- Cô... cô ăn nói với tôi thế hả. Giọng lưỡi con buôn...
- Chú nhìn người như thần. Cháu học kinh tế chú nói đi buôn. Bằng chú lật qua mà biết giả, thật kém gì người buôn “xanh”...
Ông ta đập bàn đánh rầm:
- Cô tưởng đây là chợ, cô phát biểu vô tổ chức... biết đây là đâu không?
Tôi suýt nữa cũng học bà bán thịt bò kèm 70% thịt trâu ngoài chợ chống tay vô hông, “quạc” lại:
- Cháu biết... thì chỉ có chợ mới nói “giả, thật, giá bao nhiêu” chứ.

Mặt ông ta đỏ rần như người có triệu chứng huyết áp “quá tải”. Tôi trót “cưỡi lưng hổ”, tự biết không đường lui. Cuộc đấu khẩu sẽ đến đâu nếu không có tiếng cười của người đàn ông thứ hai trong phòng. Cả hai “đối thủ” cùng dồn mắt sang ông ta. Người đàn ông chậm rãi tới bên tôi. Nét mặt hòa nhã nhưng mắt giấu vẻ khoái chí sau cặp kính.

- Cháu nói với chú Đạo thế là không được. Chú Đạo người lớn chẳng chấp cháu “trẻ người, non dạ” làm gì. Đứa nào mới đi Tây về chẳng thế. Đưa bộ copy đây chú vào sổ. Chiều mai lên lấy giấy ở phòng 32. Thôi, chưa xin lỗi chú Đạo còn chờ gì?
Nghe vậy là tôi đủ “thông minh” hiểu ý. Một trọng tài kinh nghiệm thổi còi đúng lúc nhắc hai cầu thủ “fair play”! Tôi chuyển tần số lời nói:
- Chú Đạo bỏ qua cho cháu mấy lời láo lếu vừa rồi. Ở nhà cháu vẫn bị mẹ mắng suốt vì tội cãi bướng mà.

 “Chú Đạo” kia mặt vẫn đỏ nhưng lẽ nào không “miễn cưỡng bắt tay đối thủ”. Ông ta lầm lỳ chẳng ra gật, ra lắc ngồi xuống cầm tờ báo đọc tiếp. Tôi lại gần người đàn ông mang kính để ký vào sổ, khẽ nói nhỏ: 
- Cháu cám ơn chú nhiều.
Ông ta mỉm cười với tôi:
- Molodec! (Cừ lắm!)

Bữa cơm chiều, tôi “tường thuật” lại chuyện “chú Đạo”. Chị dâu tôi khoái bất ngờ tới mức trước mặt mẹ chồng dám vỗ đùi đôm đốp. Tôi ngờ rằng bà này cũng từng bị cái Bộ kia “đì” rồi nên giờ được “trả thù quá khứ”. Mẹ và anh tôi nhăn nhó. Mãi sau mẹ mới chép miệng:
- Mày thật chả khác bố mày ngày xưa.
Bố tôi ra đi sớm khi tôi mới 10 tuổi. Tôi chẳng còn nhớ nhiều về bố. Nhưng tôi tin, nếu ông còn, ông sẽ xoa đầu con gái rượu chứ chẳng mắng đâu.

Đầu tuần, theo lời ông giám đốc tôi đến cơ quan làm việc. Không biết nếu tôi đi làm dâu mẹ tôi có lo như tối hôm trước ngày tôi đi làm. Bà đi ra nhắc, đi vào dặn. Anh trai tôi răn đe:
- Mày làm thế nào cho tao còn gặp lại được bạn bè. Bớt mồm đi. Người ta hỏi, trả lời cho ngoan ngoãn. Lớn rồi, nghe hỏi phải biết ý họ mà trả lời.
Con bạn thân đọc “lesson” cho tôi lĩnh hội. Nào bánh kẹo, thuốc lá, trà ra sao, chào ai cô chú, ai anh chị... Đặc biệt khoản “ngoại hình”:

- Mặc đầm cho nữ tính. Đầm dài bớt ganh ghét của đồng nghiệp nữ nhưng mất cổ động viên nam. Độ ngắn của đầm tỉ lệ thuận với trình độ văn hóa.
Tôi lục tung valy tìm ra chiếc đầm xanh. Màu hơi ngớ ngẩn nhưng có vẻ nữ tính. Độ dài của nó vừa khéo để không sexy cái đầu gối củ lạc, lại chứng tỏ tính kín đáo của bằng Đại học.

Tôi đi sớm, lởn vởn chờ phòng số 4 có người. Theo lời giám đốc, tôi xông tới “làm quen”. Ở nhà mẹ vẫn khen tôi có đức “trơ tráo”. Tôi còn nhiễm tính “tự tin mù quáng” của người Nga nên chả bối rối chút nào khi bước vào.
- Chào các chị, các anh - Tôi hơi nghiêng người và nở nụ cười bài bản – Em là Thu, anh Bình giám đốc nhận em vào làm công ty mình từ hôm nay.
Năm người, định vị năm bàn quay nhìn tôi. Một giây, hai giây... năm giây. Tôi chợt thấy nụ cười trên môi mình vô duyên trước 10 chiếc mắt dọi vào.

Từ hôm về nước, tôi xem nhiều phim Việt nam và không chịu được vẻ vô cảm của các “sao” điện ảnh. Giá họ học được vẻ mặt của năm người đang chiếu tướng tôi đây chắc nền điện ảnh Việt nam sẽ phất kém gì Holywood. Sang giây thứ sáu, muốn hay không nụ cười của tôi cũng không le lói hơn được nữa. Tôi đứng đực ra chờ phản hồi nhưng hình như họ cố làm vẻ nghễnh ngãng. Tôi thầm rủa số mình đi đâu cũng không xuôi xẻ.

- Sao tôi chả biết gì nhỉ?
Một giọng nam chất kim vang lên phá tan bầu không khí “mặc niệm”.
- Ông Bình làm những chuyện lạ đời. Đùng đùng cái gì cũng theo ý mình, hay dở thế nào cho người khác đổ vỏ. Giọng nữ ồ ồ cằn nhằn.
- Em có nghe loáng thoáng - giọng cô gái khá trẻ ngồi bàn gần cửa – Anh Bình nói nhận người về. Sắp tới công ty mình ký hợp đồng với công ty thiết bị y học của Nga.

- Ôi dào, viện này thiếu gì kỹ sư học Nga về. Toàn thằng chẳng làm được việc gì lại còn nhận thêm.
Giọng kim vừa nẫy nhưng tôi đã phát hiện ra của người đàn ông ngồi góc phải. Dù cửa sổ mang ánh sáng ban mai vào nhưng khuôn mặt ông vẫn không vì thế bớt già nua và nhăn nhó như quả táo Tàu. Kinh nhất là cặp mắt kẻ chỉ, khó đăm đăm đang tranh thủ “miệt thị” tôi.

Tôi vẫn đứng vì chả có ai định mời mình ngồi xuống chịu trận. May hôm nay tôi mặc chiếc đầm xanh. Tuy ngớ ngẩn nhưng theo các nhà “tâm lý học”, màu sắc có tác dụng giải tỏa. Màu xanh lờ lợ đó như lá chuối đặt trên thùng nước đang sánh qua sánh lại. Khổ nỗi “chiếc lá chuối” này không mảy may tác dụng “tâm lý” ông giọng kim. Ông chán bâng quơ, chuyển sang chĩa mũi dùi vào tôi:
- Ai bảo cô tới đây?

Kinh nghiệm ở Bộ Giáo dục và Đào tạo đã dạy tôi chẳng nên ngạc nhiên trước câu hỏi thừa. Ngoan ngoãn như lời ông anh dặn, tôi thỏ thẻ:
- Dạ thưa, anh Bình dặn sáng nay em tới làm quen với các anh chị.
Tình hình nghe ra chẳng sáng sủa hơn sau câu trả lời nhún nhường của tôi. May cô gái gần cửa bước tới kéo ghế mời tôi. Tôi đầy cảm kích. Tôi liếc tìm bộ ấm pha trà, lấy mấy gói bánh kẹo, thuốc lá ra đặt trên bàn, mạnh dạn hỏi cô gái còn đang đứng gần tôi:
- Cho mình mượn mấy chiếc đĩa được không?

“Đồng minh trong hy vọng” của tôi nhanh nhẹn mở tủ lấy đồ và giúp tôi. Tôi thầm cám ơn Trời. Dù thái độ của tôi giờ không còn tự tin như trước nhưng tôi vẫn đủ “khả năng” bê ra từng bàn mời các vị đang chiễm chệ đọc báo và bình luận chuyện không đâu. Tất nhiên họ uống trà. Tất nhiên họ gặm nhấm bánh kẹo và coi sự phục vụ của tôi là “tất nhiên” khỏi cần cảm ơn. Còn tôi “tất nhiên” phải quên thói lịch sự của Tây mà coi đó là văn hóa Việt nam!

Người đàn ông ngồi gần cửa sổ chợt cắt ngang câu chuyện về giá xe máy Thái lan đang xuống:
- Em học ngành gì bên Nga?
- Dạ em học Kinh tế.
- Lại Kinh tế - giọng kim lần này hơi méo có lẽ do chiếc kẹo Hải châu còn mắc trong răng – Đâu cũng nhan nhản kỹ sư kinh tế. Mang tiếng học hành mà chả biết “đếch” gì. Làm hợp đồng viết ngu bỏ mẹ. Cháu ông Viện phó học Kinh tế vừa vào Viện, con bà Hoài phòng “Công nghệ nguyên tử” cũng đang làm hợp đồng bên đó.
Tôi khẽ nhăn mặt. “Lại gặp bạn “chú Đạo” rồi. Giờ mà ông hỏi giá bằng Đại học, mình phải hô bao nhiêu đây?”.

- Cô ở đâu đến đây?
Chiếc kẹo đã chui tọt vào họng nên câu hỏi vang lên lanh lảnh. Một câu hỏi đơn giản như bài học đầu tiên của chương trình học ngoại ngữ, ông có hỏi bằng tiếng Anh tôi vẫn trả lời vô tư.
- Em ở Hà nội ạ.
Những khuôn mặt “đầy ấn tượng” hiện ra. Cáu kỉnh là của ông giọng kim:
- Ai chả biết Hà nội. Quen ai mà tới đây?

- Á... – hơi ngượng vì sự “chậm hiểu” nhưng tôi chữa ngay- Dạ, em chỉ quen anh Bình giám đốc thôi ạ.
- Quen mỗi ông Bình mà xin được vào Viện lớn thế này. Giọng ồ ồ thắc mắc kèm theo cái nhìn nghi vấn rất “nữ tính”.
Tôi còn quen thêm được ai từ ngày về nước ngoài mấy bà buôn ngoài chợ.
- Thế cô con ai?
Cái hất hàm đầy tính “khảo sát” của ông giọng kim chĩa vào tôi. Tất nhiên lần này tôi đã “thấu” câu hỏi. Ông anh tôi chả dặn phải xem ý người ta mà trả lời là gì. Tôi dõng dạc:
- Dạ em không con ai cả ạ.

Có bịt tai tôi cũng nghe tiếng cô gái “đồng minh” cười váng lên. Tiếng ho khục khục giấu tiếng cười “thiên nhiên” là của ông ngồi kế cửa sổ, anh chàng trung niên từ đầu chưa nói gì chợt rút kính lau lấy, lau để. Chỉ còn lại hai khuôn mặt của hai chất giọng “ngược đời” là thộn ra. Giọng kim rít lên:
- Cô học đâu kiểu nói trêu ngươi thế hả? Cô biết tôi là ai không?

Tôi nghệt mặt chả hiểu mình có tội gì. Tôi quay sang “đồng minh” cầu cứu nhưng cô ta còn mải cười đến mức chạy bắn ra hành lang, vội vàng lao ngay vào ông Bình đang bước tới. Cô khẽ “Ối”, ngượng nghịu. Bốn người còn lại kéo ghế đứng lên chào đồng loạt. Chỉ có tôi đang ngẩn ngơ vì “quả mắng” nên ngồi tại chỗ khẽ lúng búng.

- Chào mọi người! - Giọng sang sảng đúng chất Sếp - Làm quen vui quá. Nhân viên mới có quà cho anh em hả. Được đấy.
Quay sang bên, ông giám đốc nói:
- Anh Trung tổ chức và chị kế toán lên phòng tôi có việc cần bàn nhé!
Hai người đứng dậy theo ông lên phòng. Tôi toát mồ hôi. Thôi xong. Ông anh nhắc “khéo lời với ông trưởng phòng tổ chức mới hòng được vào biên chế”. Loạng quạng thế nào tôi “trêu ngươi” ông ta rồi. Vụ này khéo đứt!

Ngày sau, tôi đến, chẳng có chỗ riêng của mình trong phòng, chẳng có việc cụ thể. Giám đốc bảo làm quen công việc nhưng có ai nói năng gì với tôi đâu. Cô “đồng minh” trở nên giữ kẽ. Mặt ai cũng như bức tường. Cảm tưởng tôi bị tẩy chay. Tôi ra hành lang nghe chim sẻ chíu chít trên nhánh xà cừ, buồn bã như giữa đảo hoang. Vài ngày sau, giám đốc chỉ tôi phòng nhỏ, kêu dọn dẹp, kê bàn vào lấy chỗ làm việc. Sáng 8 giờ đi, trưa cơm nhà, chiều lại công ty. Việc duy nhất là ngồi và ngó qua cửa sổ. “8 giờ vàng ngọc” thoải mái tiêu. Chán, tôi lò dò xuống phố thăm tình hình Model của Hà nội.

Từ ngày tôi đi làm, dù tập sự không lương, mẹ yên lòng hẳn. Tôi thành “thất nghiệp” toàn phần. Hiếm hoi gặp bọn bạn chẳng biết kể chuyện gì. Chẳng lẽ kể chuyện “năm anh em trên chiếc xe tăng” hở ra là nã đạn vào tôi. Hay kể chuyện Sếp sáng đảo qua công ty vài phút là biến. Thỉnh thoảng, ông định vị trong phòng thì toàn thấy “họp... kín”. Có lần không nén được tò mò, tôi ghé tai nghe trộm. Hoá ra các bố chơi “tá lả”. Tôi chán ngấy đóng vai người thừa. Ho hoe tính chuyện xin thử chỗ khác đã bị ông anh dạy thế nào là đức kiên tâm “trường kỳ kháng chiến”. Tiền tiêu do mẹ tài trợ đủ ăn sáng, bơm xe, tình rỗng tuyếch, công việc đuổi ruồi.

Tôi tù túng trong mọi ràng buộc từ nhà đến công ty. Mẹ tôi nhắc khéo chuyện “gia
đình”. Tôi tỉnh queo:
- Mẹ chi tiền. Con ra chợ coi thằng nào “sạch nước cản” mua về làm chồng.
Bà chán. Tôi buồn, tôi nhớ nước Nga. Khi ở đó tôi chỉ nhìn thấy những điều đen tối mà chê nhưng khi về rồi, tôi biết, tôi thiếu nó. Cho dù ngày đó có bơ vơ, có khó khăn, khắc nghiệt nhưng tất cả thật rõ rằng để mình phải vượt qua. Còn sống nơi quê hương sao tôi lạc lõng. Ai giúp tôi mài bớt những sù sì, góc cạnh để có thể lăn tròn trong xã hội này?

Tối thứ bảy, tôi ngồi nhà xem vở tuồng “tân cổ giao duyên”, ngoan như bà góa thủ tiết với chồng. Chuông điện thoại kêu, tôi uể oải nhấc.
- Thu hả?
- Thu đây, ai đó?
- Còn nhớ Thắng “mập” không? Tao đây.
- Ôi Thắng, mày đang ở đâu vậy? Tôi reo lên khi nhận ra thằng bạn thân từ ngày học phổ thông đến suốt năm tháng ở Nga.

- Matxcơva chứ ở đâu. Mày thế nào, nghe tụi nó bảo đi làm rồi hả?
- Làm khỉ gì, chán muốn bỏ. Tao đã thấy lời mày khuyên ở lại là “chân lý”.
- Thế mày còn thích đến với “chân lý” không?
- Thích cũng phải qua ối “cửa” mới tới được “chân lý”. Còn mày thế nào?
- Tao gọi về hỏi mày chịu qua giúp tao phụ trách phần kế toán cho công ty của tao ở Matxcơva không? Đồng ý tao gửi giấy tờ về làm hộ chiếu. Tao điểm ra chỉ mày đủ khả năng, đúng nghề và tính “bà la sát” của mày mới trị được bọn trong công ty. Nghĩ sao?

Tôi bất ngờ chẳng nói được lời nào. Hơn một năm qua, tôi đã biết, ở Việt Nam “nghề” sáng giá nhất là “nghề đi Tây”, “nghề xuất ngoại” dù ngắn hạn, dài hạn. Những ai chê “nghề” này chắc chắn là Sếp. Mà Sếp chỉ chê “dài hạn” vì đi lâu dễ “vênh cạ” chứ “ngắn hạn” Sếp OK đầu tiên.
- Ê, chán nước Nga chưa mà im như thóc vậy?
- Không... tao đang tính – tôi lúng túng không biết nên nói kiểu gì để hợp “phong cách người Hà nội”- mẹ tao lo đi nữa sẽ “ê sắc ế”...
- À... mày định lấy chồng kiểu gì tao không biết nhưng nếu định lấy thằng yêu mày thì lấy tao đi. Tao yêu mày lâu rồi.

Lần này tôi “cấm khẩu” hoàn toàn. Thắng chợt chuyển giọng:
- Nói thật đấy.
Trời ạ, mẹ tôi nói cấm có sai “Ngưu tầm ngưa, báng bổ như mày, chỉ gặp thằng ngang ngửa”. Nhưng dù “củ chuối” cỡ nào tôi cũng không thể tưởng tượng ra được màn tỏ tình “mày” “tao” qua điện thoại quốc tế!
- Thu ơi, suy nghĩ đến trưa mai nhé! Thời Edison chỉ cho suy nghĩ 5 phút thôi mà -Thắng cười hì hì- không đùa đâu, 100% nghiêm túc. Hẹn mai!

Máy bay cất cánh, mảnh đất quê hương chao nghiêng. Dòng sông Hồng kia rồi, quanh năm đỏ đậm phù sa. Hà nội li ti, nhấp nhô mái ngói. Tôi lại ra đi lần nữa. Chút nhơ nhớ, bâng khuâng về Hà nội, về mẹ.
Giọng cô chiêu đãi viên Nga nhắc người ngồi cạnh đeo dây an toàn nghe quen như mới hôm qua. Nhưng hình như vẫn có gì là lạ. Có lẽ, lạ vì không ngơ ngác như khi xưa sang học. Con đường phía trước sẽ không trải thảm, sẽ không ít khó khăn, nhưng tôi biết, ở đó tôi có thể sống và làm việc mình mong muốn. Cảm giác tự do ngọt ngào.
Hà nội mờ dần qua làn mây mỏng. Quê hương ơi, ta sẽ về như tìm bóng cây giữa con đường chang nắng. Sẽ về để thêm động lực ra đi. Về để hiểu ta Người Việt Nam và Quê hương ngàn đời vẫn một!

Nhangoc
http://nhinrabonphuong.blogspot.com/2015/06/du-sinh-hoi-huong-nhangoc.html

Khiêm Cung



KHIÊM CUNG
Posted by adminbasam on 27/05/2015
27-05-2015
Tôi vẫn tin, một cách cực đoan, rằng chỉ có nền giáo dục tử tế mới có những con người tử tế và biết cách khiêm cung, biết cách giới hạn lòng tự tôn và biết cách kiểm soát bản thân trước những lời khen. Chẳng có gì nhanh chóng đẩy chúng ta xuống vực bằng cách thỏa mãn sự vuốt ve lẫn sự tự vuốt ve. Giới học giả trước 1975 tại miền Nam gần như chẳng ai phách lối coi mình là cái rốn của vũ trụ, kể cả triết gia cực ngông Phạm Công Thiện.
Sự khiêm cung thể hiện ở ngay trong tác phẩm họ soạn hoặc dịch. Trong “Nam Hoa Kinh” (Tủ sách Tân Việt xuất bản, 1962), dịch giả – cụ Nhượng Tống – viết lời mở đầu: “… Tôi mong các bạn sẽ phân-tích và được chịu những lời dạy-bảo cao-minh. Tài học tôi có lẽ chưa đủ hiểu hết phần cao-siêu trong học-thuyết Trang và chưa đủ quyền nói đến những chuyện mà phạm-vi là “vô cực”… Trong “Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam” (NXB Hiện Tại, 1959), Linh mục Mậu Hải viết lời giới thiệu cho tác giả-Linh mục Nguyễn Hồng: “… Nhưng trí một người có hạn, óc cá nhân có mức nên tác giả cũng như kẻ cầm bút viết mấy lời này vẫn thành thực thầm ước được nghe lời chỉ giáo của chư độc giả bốn phương”. Và trong “Việt Nam Văn học Sử yếu” (Trung tâm Học liệu, Bộ giáo dục VNCH, 1968), cụ Dương Quảng Hàm viết: “…. Quyển sách này còn có nhiều chỗ thiếu-thốn sơ-lược, sau này cần phải bổ-khuyết hoặc giải-thích thêm…, ngõ-hầu một ngày kia tìm thấy những hoa lạ quả quý hiện nay còn ẩn khuất trong đám cành lá rậm-rạp, thì thật là hân-hạnh cho chúng tôi lắm”.
Mà không phải trong giới nghiên cứu học thuật mới có sự khiêm cung. Trong khoa học cũng tương tự. Có thể thấy điều này trong giới khoa học thuộc cộng đồng Việt kiều. Chúng ta đã nghe nói đến kỹ sư Đinh Trường Hân (đoạt giải môi sinh của Nhà Trắng năm 2006, được tạp chí Public Works chọn là một trong 50 nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn nhất nước Mỹ năm 2006); từng nghe nói đến bà Lê Duy Loan (kỹ sư Texas Instruments-TI; với hàng chục bằng sáng chế; trở thành phụ nữ đầu tiên và là gương mặt châu Á đầu tiên được bầu làm viện sĩ TI – chức danh trước đó chỉ được trao cho bốn gương mặt nam trong lịch sử TI); từng nghe nói đến bà Dương Nguyệt Ánh (tổng giám đốc Phòng khoa học-kỹ thuật thuộc Trung tâm chiến sự Hải quân Hoa Kỳ, người thiết kế bom cực mạnh chuyên phá hầm bêtông); từng nghe nói đến ông Trung Dũng (tiến sĩ khoa học máy tính Đại học Boston; cử nhân toán và khoa học máy tính Đại học Massachusetts; từng xuất hiện trên các tạp chí Forbes, Financial Times, Wall Street Journal, San Francisco Chronicle cũng như trong quyển The American Dream của nhà báo kỳ cựu Dan Rather)… Chúng ta đã nghe về tài năng của họ. Điều chúng ta chưa nghe đến là thái độ vung vẩy ngạo mạn lố bịch của họ. Có lẽ điều đó không bao giờ xảy ra.
Gần đây, trong chương trình “Tôi Là Người Việt Nam”, cô Nguyễn Cao Kỳ Duyên cũng kể đến trường hợp ông Trịnh Tiến Trinh, người dù từng được giải “NASA’s Inventor of The Year 1992″ nhưng vẫn thấy… “mắc cỡ” khi được ông Ngọc Ngạn dùng từ “khoa học gia” gọi mình! Hoặc chuyện ông Đinh Xuân Anh Tuấn (bác sĩ, giáo sư, nhà nghiên cứu). Khi được ông Ngạn hỏi “Ông vừa là một bác sĩ vừa là một nhà giáo vậy ông muốn tôi xưng bác sĩ hay giáo sư?”. Ông Tuấn trả lời: “Thưa anh Ngạn, tôi chỉ là một bác sĩ khi đứng trước bệnh nhân và một giáo sư khi đứng trước học trò, còn ở đây anh cứ gọi bằng tên thường được rồi”.
Khiêm cung. Tại sao họ lại khiêm cung? Họ hẳn hiểu rằng chẳng ai có thể toàn bích và sự hiểu biết dù mênh mông của họ vẫn luôn có những giới hạn nhất định… Cá nhân tôi vẫn tin rằng, một cách cực đoan, chỉ có một nền giáo dục tử tế mới sinh ra những con người tài năng, và khiêm cung.
Nguồn: https://anhbasam.wordpress.com/2015/05/27/3962-khiem-cung/#more-147752

Đối Phó Với Trung Quốc



Hùng Tâm - 150602
Hồ Sơ Người-Việt

Những chiêu pháp biến hóa và nỗi lo của Nhật Bản

Chúng ta bình luận thế nào về việc Bắc Kinh đơn phương bành trướng ra Đông Hải và tranh chấp với các lân bang Đông Bắc Á và Đông Nam Á và gây nguy cơ đối đầu với Hoa Kỳ?

Trung Quốc đã mất hai chục năm xây dựng lực lượng Hải quân, là từ đầu thập niên 1990 khi mà lần đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa một Đô đốc lại cầm đầu quân đội. Nhân vật đó là Đô đốc Lưu Hoa Thanh (1916-2011) được Đặng Tiểu Bình đưa lên vị trí cao nhất trong đảng, là Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Trung ương Quân ủy hội bên Chủ tịch/Tổng bí thư Giang Trạch Dân từ năm 1989 đến 1997. Họ Lưu đã hiện đại hóa Hải quân Trung Quốc cho một viễn ảnh trường kỳ là 1) kiểm soát được các quần đảo trong vùng biển cận duyên vào thời điểm 2000-2010, rồi 2) mở rộng khả năng kiểm soát viễn duyên để ra tới đại dương vào khoảng 2010-2020. 

Thời điểm ấy đã tới. 

Nếu cũng nhìn sự thể trong viễn ảnh trường kỳ, người ta không nên ngạc nhiên, hoặc giận dữ, vì những gì Bắc Kinh đã làm, rồi nói, hoặc chối, mà vẫn thực hiện. Bạch thư về Quốc phòng do Bắc Kinh công bố tuần vào ngày 26 Tháng Năm, chỉ xác nhận chuyện đó. Người ta nên tranh luận về cơ sở pháp lý của việc Bắc Kinh đơn phương chiếm đoạt quần đảo Trường Sa và xây dựng khả năng bành trướng ra hải dương. Điều ấy không thừa về ngoại giao chính trị, nhưng vẫn chưa đủ. Người ta nên nhìn xa hơn và nghĩ đến khả năng đối phó của các nước ở gần tầm đạn của Bắc Kinh. 

“Hồ Sơ Người-Việt” sẽ tìm hiểu về khả năng đó…


Thế Trận Đông Hải


Chúng ta nên nghĩ đến hình tượng bát trận đồ, với những kết hợp và biến hóa linh động.

Thứ nhất, trận đấu trí có nhiều đối tác chứ không chỉ có hai nước như Hoa Kỳ và Trung Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản hay Việt Nam với Trung Quốc. Chiến lược bành trướng của Bắc Kinh liên quan tới Nam Hàn, Hoa Kỳ, Đài Loan, Bắc Hàn, Hiệp hội ASEAN của 10 Quốc gia Đông Nam Á, lẫn Ấn Độ và Úc Đại Lợi, tức là có ít ra 18 nước lớn nhỏ và gần xa. Thứ hai, trong tập thể 18 quốc gia đó, hãy tưởng tượng đến sự tính toán song phương, giữa từng cặp, ví dụ như Hoa Kỳ với Trung Quốc, Nhật Bản với Nam Hàn hay Philippines với Hoa Kỳ căn cứ trên những quan hệ song phương của họ. 

Bước thứ ba mới là nghĩ đến thế liên kết đa phương để từng nước tranh thủ hay thuyết phục nhau, ví dụ như giữa bốn nước dân chủ theo kinh tế thị trường và có hiệp ước phòng thủ hỗ tương là Mỹ, Nhật, Hàn, và Đài Loan. Từ đó thì từng nước hay từng nhóm đối tác có nhiều chiến lược trong tinh thần biến hoá là liên kết hay đối lập với nhau, kể cả chiến lược hăm dọa có thể sử dụng, thí dụ như những thiệt hại khả dĩ xảy ra nếu không đạt nổi đồng thuận.

Bước thứ năm, sau khi tính ra những chiến lược khác nhau mà từng nước có thể áp dụng khi đấu trí hay đàm phán thì ta vẫn trở lại chuyện thế và lực, là từng nước phải nghĩ đến phương tiện kinh tế hay quân sự có thể huy động từ bên trong hoặc vận dụng từ các nước liên kết khác ở vòng ngoài. 

Bước thứ sáu là trong lối tính toán về huy động và vận dụng ấy, phải nghĩ đến quyền lợi có thể chia cho nước khác căn cứ trên sự đóng góp của họ. Không ai muốn nói chuyện hợp tác hay yểm trợ với một quốc gia chỉ muốn ăn người và đòi được bảo vệ miễn phí. Thứ bảy và quan trọng nhất trên một trận thế có nhiều giải pháp và chiến lược khả dụng, thì từng nước phải châm thêm yếu tố rủi ro hoặc khả năng chịu đựng hiểm nguy trong cách tính toán về quyền lợi của mình. Nếu chỉ nghĩ đến giải pháp ta cho là có lợi nhất mà không lý đến rủi ro hay thiệt hại thì mình bị nhược điểm duy ý chí trong cuộc đấu trí.


Nước Cờ Bắc Kinh 


Quốc tế không có quy định gì rõ rệt về quyền thiết lập hay quản trị vùng phòng không của các nước. Công ước Quốc tế về Luật biển của Liên Hiệp Quốc (UNCLOS) có những chuẩn mực rõ ràng hơn, nhưng cơ chế quốc tế ấy lại không có khả năng cưỡng hành. Đấy là cơ hội Trung Quốc đang khai thác, để lấy sức mạnh làm lý lẽ bất chấp các quy định của quốc tế.

Thí dụ như Bắc Kinh sẽ lập ra vùng Nhận diện Phòng không (là ADIZ Air Defense Identification Zone) để từ các căn cứ vừa xây dựng trên quần đảo Trường Sa của các nước Đông Nam Á sẽ theo dõi phi cơ dân sự bay vào “không phận” của họ ở ngoài biển hầu “bảo vệ quyền lợi và an ninh lãnh thổ”. Mọi phi cơ dân sự bay vào vùng ADIZ phải xác nhận căn cước và đối thoại với cơ quan phòng không của nước "chủ nhà". Nghĩa là các nước phải công nhận chủ quyền của Trung Quốc trên các quần đảo mà họ vửa cưỡng chiếm.

Về thực tế kỹ thuât, khu vực này phải rộng hơn không phận để bộ máy phòng không của Bắc Kinh kịp thời ứng phó với mối đe dọa khả dĩ xảy ra. Gặp trường hợp khả nghi, Không quân mới đưa chiến đấu cơ lên trực tiếp nhận diện máy bay lạ và kịp đối phó theo phép hỏi han, dụng lễ rồi mới dụng binh, nếu có phi cơ đòi tự sát.

Đấy là hoàn cảnh của Trung Quốc.

Đối diện thì ngoài Hoa Kỳ, gần hai chục nước kể cả Việt Nam, cũng có vùng bảo vệ như vậy.

Là một quốc gia quần đảo, Nhật có vùng ADIZ từ lằn ranh do Hoa Kỳ vạch ra sau Thế chiến II, nhằm bảo vệ không phận từ hướng Tây. Vùng ADIZ do Nhật thiết lập năm 1969 trùng với vùng đặc quyền kinh tế EEZ, nhưng Tháng Sáu năm  2013, Nhật mở vùng ADIZ thêm 22 cây số về hướng Tây, và khi ấy, Đài Loan có than phiền là "đáng tiếc". Nhưng rồi thôi vì Đài Loan không sợ Nhật đòi tiền mãi lộ khi thương thuyền của mình đi qua vùng ADIZ của Nhật!

Chi tiết đáng chú ý ở đây là lằn ranh xa nhất của Nhật chỉ cách lãnh thổ Trung Quốc có 130 cây số. Cho nên, Bắc Kinh không phát minh ra trò này và nay mới chỉ hăm dọa.

Tại vùng Đông Bắc Á, vùng ADIZ của Trung Quốc đi tới mức xa nhất về hướng Đông, và trùm lên đảo Jeju của Nam Hàn, vùng ADIZ của Đài Loan và nhất là vùng ADIZ mới của Nhật. Việc Bắc Kinh vẽ ra lằn ranh phòng vệ lên vùng phòng không của các lân bang mới bị cho là gây bất ổn vì làm thay đổi hiện trạng. Bây giờ, nếu họ tiếp tục như vậy trên vùng Đông Nam Á thì sao?



Những Thách Thức Cho Bắc Kinh


Ta thấy vấn đề không chỉ là trận đấu trí giữa Bắc Kinh và Tokyo trên không phận của cụm đảo Senkaku của Nhật mà Trung Quốc nhận là Điếu Ngư của mình. Vấn đề cũng không là cuộc đấu trí hay hăm dọa của Bắc Kinh với từng nước Đông Nam Á trong tương lai trước mặt.

Trên bậc thềm không gian trước khi bay vào lãnh thổ, Bắc Kinh giao hẹn với thiên hạ rằng từ nay các máy bay ra vào thì phải xin phép cơ quan hữu trách của Trung Quốc. Nếu không, máy bay vi phạm sẽ hoàn toàn chịu trách nhiệm. Từ vài năm qua, các hãng hàng không dân sự đều cân nhắc rủi ro và lấy quyết định an toàn cho khách hàng, theo kiểu tránh voi chẳng xấu mặt nào. Sau khi ngần ấy nước than phiền thì mọi hãng máy bay đành tuân thủ đòi hỏi của Bắc Kinh để tránh họa. 

Cái yếu tố rủi ro trong trận thế của Trung Quốc khiến Bắc Kinh coi như đã thắng một keo!

Nhưng nếu mối nguy không đến từ phi cơ dân sự mà đến từ một quốc gia thì Bắc Kinh tính sao?

Đấy là một thách đố mà chúng ta chẳng nên quên vì tính gì thì tính sau khi vạch ra luật chơi mới  Bắc Kinh phải có khả năng động thủ nếu quả thật là bị đối thủ thách thức. Khả năng đó gồm có hai mặt. Một là phải theo dõi được mọi chuyện trên không phận trùng lập với lằn ranh phòng thủ của xứ khác. Thứ hai là phải thi hành được lời răn đe.

Khả năng theo dõi đó đòi hỏi sự phối hợp giữa lục quân, hải quân với không quân và "Đệ nhị Pháo binh" (hệ thống hỏa tiễn). Bắc Kinh chưa có khả năng phối hợp này nếu so với đối thủ gần là Nhật Bản và đối thủ xa là Hoa Kỳ. Bạch thư Quốc phòng của họ mới chỉ nói đến những ý hướng sẽ thực hiện mà thôi.

Nước Nhật là một quần đảo có nhiều cơ sở quân sự nằm sát Hoa lục, với trình độ kỹ thuật cao gấp bội. Hệ thống bảo vệ trên đất liền của Trung Quốc lại ở quá xa "hiện trường" là lằn ranh ADIZ nằm mãi ngoài khơi Đông Hải của họ. Nếu muốn xuống tới vùng biển Đông Nam Á, Bắc Kinh còn phải đi xa hơn, từ các căn cứ trên đất liền tới các đảo nhân tạo mà họ vừa thực hiện.

Thứ nữa, khi hữu sự thì Bắc Kinh phải có khả năng ra đòn và đỡ đòn khi bị phản đòn. Cụ thể là muốn thật sự bảo vệ không phận thì còn phải xác định đối tượng, chứ không thể bắn hạ hay hăm dọa bắn hạ mọi vật lạ mà mình chưa biết là gì và bắn hạ bằng võ khí nào là thích hợp. Thách đố ấy đòi hỏi loại chiến đấu cơ có thể ngăn chặn và tiêu diệt đối thủ theo đúng lời hăm, và các chiến đấu cơ phải có căn cứ ở gần hiện trường.

Vì đã nhoài mình quá xa ra ngoài, Bắc Kinh cũng chưa có khả năng đó.

Cho nên, Bắc Kinh mới chỉ dọa già trong khi ráo riết thi đua để tiến tới trình độ "lực tòng tâm". Ngoài nhu cầu tháu cáy dọa già, lãnh đạo Bắc Kinh còn muốn cho thần dân hỷ hả khi thấy đảng đơn phương vẽ lằn ranh lên trời mà người đời đều sợ. Nhưng kết luận như vậy thì vẫn chưa là phép đấu trí thật trên trận đồ bát quái!



Nhật Bản Bất An


Trong trận thế do Bắc Kinh vừa mới vạch ra, Hoa Kỳ là quốc gia đã có những phát biểu mạnh nhất mà thật ra, Mỹ chưa bị trực tiếp đe dọa và không muốn động thủ. Bắc Kinh cũng không chơi dại, mới chỉ muốn làm chủ vùng biển cận duyên và trông cậy vào sự nhu nhược của Hoa Kỳ dưới triều đại Barack Obama. Nhật Bản mới là cường quốc nằm trong tầm nhắm của Trung Quốc.

Từng là đại cường hải dương khi Trung Quốc còn lạc hậu vào thế kỷ 19, Nhật đã bị Mỹ khuất phục và giải giới bằng hai quả bom nguyên tử vào năm 1945. Từ cục diện đó, trong 70 năm qua, Nhật chỉ có thế thủ chứ không được phép công.

Ngày nay, trước sự xuất hiện và hăm dọa của Trung Quốc, Nhật mới thấy số phận bất an. Trên đầu thì đến Bắc Hàn nhỏ nhít còn có thể thao dượt hỏa tiễn. Dưới nước thì Bắc Kinh vẽ ra lằn ranh mới. Tại vùng Đông Bắc Á, lằn ranh đó đe dọa an ninh của Nhật, tại vùng Đông Nam Á, lằn ranh đó sẽ đe dọa kinh tế Nhật vì bao trùm lên khu vực vận chuyển phân nửa hàng hóa toàn cầu.

Trên lãnh thổ bát ngát của mình, khi lụn bại và gặp rủi ro, lãnh đạo Trung Quốc còn có đất lùi là khu vực nội địa. Nhật Bản chỉ còn nước lùi ra biển.

Vì vậy, trong khi Mỹ ăn nói nước đôi với nhiều bửu bối yểm sẵn ngoài khơi, và Tầu tưởng bở mà lấn đất giành hơi, Nhật nghĩ tới kịch bản tệ nhất của trận đấu trí. Không ồn ào như anh Sơn Đông mãi võ ngoài chợ đời, Nhật tự chuẩn bị cho trận đấu lực.

_______________________

Kết luận ở đây là gì?

Trên cuộc cờ rắc ngoài Đông Hải, giữa cái uy giả của một Trung Quốc hung hăng mà mặc cảm và nỗi lo thật của Nhật Bản, yếu tố nào mới thật sự đáng sợ?

Khi có chuyện, các lân bang và thế giới sẽ phản ứng thế nào? Bênh vực Trung Quốc? Còn lâu!

Và nếu lãnh đạo Bắc Kinh lại muốn tự sát trong trò hăm dọa này, ai sẽ là người can ngăn?
Nguồn: http://dainamaxtribune.blogspot.com/