Ảnh
hưởng của “Bảy chị em” (Seven Sisters) tới VN
I.
“BẢY CHỊ EM” (Seven Sisters) nghĩa là gì?
“BẢY CHỊ EM ” hay tiếng
Anh còn gọi là “Seven Sisters ” là tiếng lóng để ám chỉ bảy công ty dầu hỏa lớn
nhất thế giới , nắm khoảng 85%—95% trữ lượng dự trử dầu hỏa của thế giới. Khởi
thủy ( lúc ban đầu) , “BẢY CHỊ EM” trong ngành dầu hỏa bao gồm các công ty sau
đây:
•Exxon (xuất thân từ
Standard Oil of New Jersey )
•Mobil (xuất thân từ Standard Oil of New York)
•Chevron (xuất thân từ Standard Oil of California)
•Texaco
•Gulf Oil
•Shell
•British Petroleum
•Mobil (xuất thân từ Standard Oil of New York)
•Chevron (xuất thân từ Standard Oil of California)
•Texaco
•Gulf Oil
•Shell
•British Petroleum
Về sau này, Exxon xác
nhập với Mobil vào năm 1998 để trở thành ExxonMobil , Chevron mua đứt Texaco
vào năm 1984 và Britist Petroleum mua đứt Gulf Oil cho nên “BẢY CHỊ EM”
lần hồi không còn đúng nữa nhưng thành ngữ “BẢY CHỊ EM” vẫn được sử
dụng để ám chỉ các công ty dầu hỏa hàng đầu của thế giới.
Hiện tại thì Chevron và
Texaco, hai thành viên quan trọng nhất của giới “BẢY CHỊ EM” đang
khai thác dầu hỏa tại Việt Nam. Riêng Chevron thì cho là đã có mặt tại Việt Nam
ngay năm 1994 , tức là năm Hoa Kỳ chính thức bãi bỏ mọi cấm vận đối với
Việt Nam . Xin được ghi chú là thêm hai công ty Chevron và Texaco đã vào
Việt Nam còn đội lốt dưới cái tên khác là CALTEX.
Như vậy “BẢY CHỊ EM ”
thực sự có mặt tại Việt Nam từ lâu và những bí ẩn riêng tư bên trong của giới
“BẢY CHỊ EM” ảnh huởng lên chính trị , lịch sử , và kinh tế của Việt Nam
là điều mà cần phải phân tích cặn kẽ tận tường khi bình luận hay khi đưa ra
những đối sách chính trị ngoại giao cần thiết cho Việt Nam
II.
Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên nền chính trị Việt Nam hiện nay:
Cơ quan US Energy
Information Administration gọi tắt là EIA của Hoa Kỳ loan báo chính thức
là trữ lượng dầu hỏa tại Biển Đông lên đến 11 tỷ thùng và 190 ngàn tỷ cubic ft
khí đốt (một cubic foot tương đương với 0.28 mét khối )
EIA cũng đưa ra bản
thống kê chính thức trữ lượng dầu hỏa và khí đốt của các nước trong vùng biển
Đông như sau:
Bảng
thống kê 1 : Dự trữ dầu hỏa tại biển Đông
Như vậy , trữ lượng dầu thô của Việt Nam ( 3 tỷ thùng ) không thôi đã chiếm gần 27.3 % gần một phần ba trữ lượng của toàn vùng . Còn về lượng khí đốt thì Việt Nam đã đứng hang thứ ba trong vùng theo bảng tổng kết trình bày ở trên từ EIA.
Như vậy , trữ lượng dầu thô của Việt Nam ( 3 tỷ thùng ) không thôi đã chiếm gần 27.3 % gần một phần ba trữ lượng của toàn vùng . Còn về lượng khí đốt thì Việt Nam đã đứng hang thứ ba trong vùng theo bảng tổng kết trình bày ở trên từ EIA.
Dữ liệu do chính EIA đưa
ra cho thấy Việt Nam đã có thể cán đán sản xuất gần 300 ngàn thùng dầu thô mỗi
năm , tức là tương đương với khoảng 13.5 tỷ Mỹ kim mỗi năm nếu giá dầu thô chỉ
là 45 Mỹ kim một thùng.
Biểu
đồ 1: Mức tăng trưởng sản xuất dầu hỏa của Việt Nam
Dựa vào biểu đồ 1 , nếu
lấy năm 1994 làm cột mốc vì là năm Hoa Kỳ chính thực bãi bỏ cấm vận, thì
sản lượng dầu thô của Việt Nam đã tăng từ 150 ngàn thùng một năm lên đến hơn
300 ngàn thùng một năm, gấp đôi tổng sản lương trong hai mươi năm.
Rõ ràng , với trình độ
kỹ thuật và khả năng khai thác của Việt Nam không thể tạo ra sự nhẩy vọt về
tổng sản lượng nếu như không có “BẢY CHỊ EM” ta đứng đằng sau trợ sức mọi mặt
từ vốn đến kỹ thuật
Quan trọng hơn hết ,
toàn bộ miền duyên hải phía nam của Việt Nam, trong đó có quần đảo Trường Sa
(Sparatly Islands) thuộc chủ quyền của Việt Nam nằm hoàn toàn trên tuyến
đường chuyên chở dầu hỏa khắp cả vùng châu Á Thái Bình Dương, theo sự xác nhận
của EIA với tổng số lên đến 11 triệu thùng một ngày vào năm 2011 được
phân bố ra các quốc gia như bản đồ dưới đây:
Như vậy , nguồn lợi thu
được từ thuế hàng hải khi vận chuyển dầu hỏa qua hải phận đối với các quốc gia
trong vùng và nhất là đối với Việt Nam, hiện đang kiểm soát 29 đảo của quần đảo
Trường Sa vô cùng to lớn.
Do đó , nhằm đảm bảo
quyền lợi lâu dài lên đến cả trăm năm, “BẢY CHỊ EM” cần phải có những ảnh huởng
chính trị cần thiết lên chính trường Việt Nam cũng như cần chính phủ Hoa
Kỳ can thiệp mạnh mẽ để sự đi lại hàng hải, chuyên chở dầu hỏa trên con đường
này không bị Hải quân Trung Quốc bắt nạt và buộc phải đóng thêm thuế hàng hải
cho Trung Quốc
Trung Quốc đã nhiều lần
kiếm cách phá rối, hăm dọa cũng như áp lực lên giới “BẢY CHỊ EM ” bằng nhiều
kiểu cách khác nhau nếu tiếp tục bắt tay với Việt Nam khai thác dầu hỏa, khí
đốt trong vùng .
Việc Trung Quốc đưa dàn
khoan dầu khổng lồ 981 vào lãnh hải Việt Nam vào ngày 2 tháng Năm năm 2014 với
dàn hải quân hùng hậu hộ tống cũng chính là nhằm dằn mặt “BẢY CHỊ EM” ta đã
phớt lờ Trung Quốc khi ký kết các hợp đồng khai thác tại vùng biển này và nhất
là tại Cửu Long Basin , phía nam duyên hải Việt Nam mà Trung Quốc đã ngang
ngược cương quyết đòi chủ quyền. Ngoài ra , Trung Quốc cũng muốn nhìn phản ứng
của “BẢY CHỊ EM” ra sao trước tình huống này (political benchmark
testing).
“BẢY CHỊ EM” biết quá rõ
về lâu về dài, khi Trung Quốc đã không chế được tình hình rồi thì Trung Quốc sẽ
tự bỏ vốn khai thác , “BẢY CHỊ EM” vĩnh viễn không có phần và phải quy lụy Bắc
Kinh tối đa để duy trì sự vận chuyển dầu hỏa lên Nhật Bản hoặc các nước khác
trong vùng.
Điều đó càng cho thấy
giới “BẢY CHỊ EM” ta không thể để các phần tử Đảng viên bảo thủ thân Trung Quốc
ở trong Đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục mạnh thế khiến những toan tính
cam kết đầu tư giữa Việt Nam và giới “BẢY CHỊ EM” bị đe dọa, bất ổn.
Hơn nữa, để đảm bảo
quyền lợi lâu dài, “BẢY CHỊ EM” sẽ tìm đủ cách tạo ra cho mình những ảnh huởng
chính trị cần thiết trên chính trường Việt Nam nhằm bảo vệ quyền lợi của mình.
Cho nên, để “BẢY CHỊ EM”
có thể yên tâm dò tìm , đầu tư và khai thác dầu hỏa và khí đốt tại thềm lục địa
Việt Nam, Cộng Sản Việt Nam cần phải có chính sách chính trị đối ngoại
hợp tác với Hoa Kỳ sâu rộng về quốc phòng.
Nếu Đảng Cộng Sản Việt
Nam tỏ ra do dự hay sẵn sàng ngả về Trung Quốc thì giới “BẢY CHỊ EM” sẽ không
gia tăng đầu tư vào Việt Nam vì rủi ro ( risk) quá lớn trước sự hăm dọa của
Trung Quốc.
Từ đó, mối bang giao
Việt- Mỹ chịu ảnh hưởng âm thầm nhưng mạnh mẽ của giới “BẢY CHỊ EM”.
Đơn giản, đầu tư của
“BẢY CHỊ EM” sẽ sút giãm nghiêm trọng dẫn đến thiệt hại nặng nề về
kinh tế cho Việt Nam nếu Việt Nam không nằm trong đường lối hợp tác quốc
phòng mà chính phủ Hoa Kỳ đề ra trong sách lược của mình tại Đông Nam Á.
Như vậy đường lối chính
trị ngoại giao của Cộng Sản Việt Nam cũng đang lần hồi bị ảnh hưởng áp lực
của giới “BẢY CHỊ EM “.
Ngụy trang bằng lý do
quốc phòng, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã từ từ xích gần lại Hoa Kỳ để tìm một sự
bảo vệ nhằm lợi nhuận từ dầu hỏa được ổn định và gia tăng.
Nếu mất đi gần
hoặc hơn 10 % tổng giá trị sản phẩm quốc dân – GDP ( Gross Domestic Product
) từ nguồn lợi tức dầu hỏa và cả khí đốt , chưa kể các quyền lợi về công
ăn việc làm , cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội do các hoạt động đầu tư của “BẢY CHỊ
EM” đem lại thì kinh tế Việt Nam và ngân sách quốc gia của Việt Nam sẽ suy sụp
nhanh chóng .
Điều này sẽ đặt Đảng
Cộng Sản Việt Nam vào tình thế lâm nguy về an toàn chính trị trước suy thoái
kinh tế. Khi nguồn lợi tài chánh từ dầu hỏa mất đi , Đảng Cộng Sản Việt Nam sẽ
bị tê liệt về ngân sách , dẫn đến sụp đổ nhanh chóng về chính trị.
Ba đời thủ tướng Cộng
Sản Việt Nam, từ Võ Văn Kiệt đến Nguyễn Tấn Dũng điều là người miền Nam và có liên
quan trực tiếp đến sự an toàn, tự do khai thác dầu hỏa cho “BẢY CHỊ EM” ngoài
khơi lãnh thổ miền Nam Việt Nam.
Bộ luật đầu tư khai thác
dầu hỏa được thông qua để BẢY CHỊ EM tư do đấu thầu, khai thác dầu
hỏa ban hành vào năm 1993 khi Võ Văn Kiệt là thủ tướng.
Chevron đã vào Việt Nam
năm 1994 dưới sự bảo vệ về chính trị của Kiệt để đổi lại những khoảng tài chánh
cứu trợ cần thiết cho Việt Nam và Đảng cầm quyền cũng như sự hậu thuẫn của
Chevron cho Việt Nam trong chính trường Mỹ.
Sau đây là một đoạn từ lá
thơ của Lisa Barry , General Manager Government Affairs ( Tổng Giám Đốc Tư Pháp
) của Chevron chính thức gởi đến Hạ Viện Hoa Kỳ ( House of Representative- H.
R. ) , áp lực Hạ Viện tiếp tục duy trì quy chế tự do mậu dịch “Permanent
Normal Trade Relations “ gọi tắt là PNTR với Việt Nam. PNTR cho phép tự do mậu
dịch giữa hai quốc gia Việt- Mỹ được hợp pháp – nguyên văn bằng tiếng Anh :
“
Chevron is a long term investor in Viet Nam . We re-entered the
Vietnamese market as soon as it was legally permissible following the end
of US trade embargo in 1994 and have increased our present since then as
opportunities have been available . We are please to support and urge favorable
consideration of the last step in the trade normalization process: extending
Pernament Normal Trade Relations (PNTR) to Viet Nam as authorized by H.R
5602 “
(Xin tạm dịch : Chevron
là một công ty đầu tư lâu dài tại Việt Nam. Chúng tôi hiện diện tại Việt Nam
ngay sau khi cấm vận được bãi bỏ vào năm 1994 và tiếp tục gia tăng sự hiện diện
của mình khi có cơ hội đầu tư. Chúng tôi hết lòng vận động và ủng hộ bước
tiến cuối cùng của quá trình bình thuờng hóa : tiếp tục duy
trì nghị quyết H.R 5602- Pernament Normal Trade Relations (PNTR) ,
quy chế tự do mậu dịch với Việt Nam)
Đoạn trích trên từ lá
thơ của công ty Chevron chính thức gởi đến Hạ Viện Hoa Kỳ là một bằng chứng đã
cho thấy rõ ảnh huởng mạnh của giới “ BẢY CHỊ EM” lên mối quan bang giao
Việt-Mỹ tác động đến nền chính trị và các quyết định chính trị sau này của Cộng
Sản Hà Nội. Xin vào
website để đọc hết toàn bộ
nguyên văn bức thư bằng Anh ngữ .
Phan Văn Khải cũng là
người miền Nam , tiếp nối Võ Văn Kiệt làm thủ tướng từ năm 1997 cho đến 2006 ,
trong thời gian này thì tổng sản lượng dầu hỏa của Việt Nam nhanh chóng nhãy
vọt từ dưới 200 ngàn thùng dầu lên gần 400 ngàn thùng dầu mỗi ngày do sự
hiện diện mạnh mẽ của giới “BẢY CHỊ EM” dập dìu ngoài khơi Việt Nam (biểu
đồ 1 )
Trong giai đoạn
tăng vọt sản lượng dầu hỏa này, chỉ cần nhìn vào Chevron thì đã thấy cổ phần
của Chevron tăng vọt tại các mỏ dầu ngoài khơi Việt Nam:
+ Block 122 – Phu Khanh
Basin : Chevron sở hữu 20%,
+ Block B&48/95 – Malay/Tho Chu Basin : Chevron sở hữu lên đến 42.38%
+ Block 52/97- Malay/Tho Chu Basin Chevron sở hữu lên đến 43.40%
+ Block B&48/95 – Malay/Tho Chu Basin : Chevron sở hữu lên đến 42.38%
+ Block 52/97- Malay/Tho Chu Basin Chevron sở hữu lên đến 43.40%
Ông Khải cũng được cho
là nhờ sự vận động ráo riết của BẢY CHỊ EM để ông trở thành Thủ Tướng Cộng Sản
đầu tiên viếng thăm Hoa Kỳ , ký kết hàng loạt các hợp đồng kinh tế , trong đó
là chuyến đi thăm ngoạn mục đến nơi sản xuất của một người bạn lâu đời thủy
chung của giới “BẢY CHỊ EM “, đó là hãng Boeing.
Nguyễn Tấn Dũng tiếp nối
ông Khải làm Thủ Tướng Cộng Sản Việt Nam cũng là người miền Nam, mở rộng cửa
cho hàng loạt các tay chân của BẢY CHỊ EM vào Việt Nam, trong đó có các hãng
lọc dầu của Pháp, Nam Hàn, Nhật Bản.
Thời của ông Dũng, Trung
Quốc gia tăng sách nhiễu BẢY CHỊ EM ngoài khơi Việt Nam khiến quan hệ hai nước
Việt – Mỹ xích gần nhau hơn về quốc phòng dẫn đến hàng loạt các chuyến ngoại
giao con thoi Mỹ- Việt . “BẢY CHỊ EM” đang hậu thuẫn mạnh cho chính
giới Hoa Kỳ gia tăng hợp tác quốc phòng với Việt Nam. Sự hậu thuẫn này khiến bộ
quốc phòng Mỹ lần lượt có những đối sách gia tăng tuần tra hợp tác tại biển
Đông để bảo vệ quyền lợi đầu tư của “BẢY CHỊ EM” ngoài khơi Việt Nam.
“BẢY CHỊ EM “ đã âm mưu
núp bóng , dựng ra nhiều tập đoàn dầu hỏa cho nhiều quốc gia khác , rồi lôi kéo
các tập đoàn này vào Việt Nam , chịu dựng sự xách nhiễu và hăm dọa từ Trung
Quốc buộc lòng chính phủ các quốc gia này lên tiếng phản đối áp lực Trung Quốc
, tạo ra một thế cuộc quốc tế hóa vấn đề dầu hỏa tại Biển Đông có lợi cho toàn
cầu và đương nhiên , chỉ có hại cho tham vọng riêng tư của Trung Quốc.
Hệ quả của âm mưu này là
Việt Nam có thêm hàng loạt các tập đoàn dầu hỏa từ Thái Lan , Nhật , Úc ,
Canada , Nam Hàn , Quatar , Kuwait , India ….vân vân mà hầu hết điều là con đẻ
của “BẢY CHỊ EM ” ồ ạt vào Việt Nam dưới sự hậu thuẫn của chính phủ các quốc
gia này.
Như vậy, Trung quốc nếu
muốn xách nhiễu hay áp lực cũng mệt mỏi vì có quá nhiều quốc gia liên can ,
nhiều tập đoàn khác nhau để liên hệ phản đối.
Các nhà phân tích ,
chiến lược gia đang chờ xem Trung Quốc sẽ đối phó với âm mưu này của BẢY CHỊ EM
như thế nào.
Nền chính trị của Việt
Nam độc tài Cộng Sản hôm nay và Tự Do Dân Chủ mai sau luôn luôn sẽ phải
chịu những tác động và ảnh huởng mạnh từ “BẢY CHỊ EM” Đây là một
thực tế cần phải chấp nhận khi bàn thảo những đối sách chính trị cho Việt Nam
III. Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” trong lịch sử của Việt Nam:
III. Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” trong lịch sử của Việt Nam:
Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ
EM” lên lịch sử của Việt Nam là điều mà các sử gia vẫn chưa chịu thừa nhận vì
ảnh hưởng này không ồn ào lộ ra ngoài cho mọi người nhìn thấy dù ảnh huởng này
rất là quan trọng
Trong quá khứ, Nhật Bản
buộc lòng phải tấn công Hoa Kỳ tại Trân Châu Cảng (Pearl Harbor) vào ngày 7
tháng 12 năm 1941 vì Hoa Kỳ cấm vận mọi chuyên chở dầu hỏa từ con
đường dầu hỏa (đề cập ở phần II bên trên) lên Nhật Bản khiến Nhật Bản sẽ
suy xụp tê liệt hoàn toàn về kinh tế nếu không có hành động để tìm
một giải pháp.
Hoa Kỳ hành động cấm vận
dầu hỏa quyết liệt như vậy đối với Nhật Bản là để trả đũa hành động Nhật Bản
tấn công cảng Hải Phòng, lúc bấy giờ còn thuộc Đông Dương- L’indochine do Pháp
kiễm soát vào ngày 26 tháng 9 năm 1940
Nhật Bản tấn công cảng
Hải Phòng nhằm cắt đứt đường mua bán , trao đổi tiếp viện xăng dầu đạn dượt cho
chính phủ của Tưởng Giới Thạch từ Hoa Kỳ thông qua cảng Hải Phòng và
đường rày nối liền Hài Phòng- Hà Nội- Lào Cai- Côn Minh và Vân Nam (Sino-
Vietnamese railway)
Như vậy, cuộc đối đầu
trực diện nảy lửa giữa Hoa Kỳ với Nhật Bản về ngoại giao từ
năm 1940 dẫn đến đối đầu quân sự trực diện ngay năm sau đó bằng trận tấn công
Trân Châu Cảng kinh hoàng bởi Nhật Bản vào ngày 7 tháng 12 năm 1941 tạo
ra đệ Nhị Thế Chiến tại Châu Á khởi nguồn từ sự xâm lược của Nhật Bản vào cảng
Hải Phòng vào ngày 26 tháng 9 năm 1940
Trong khi đó, Trung Quốc
đã bị Nhật Bản xâm lược trắng trợn từ năm 1935 nhưng Hoa Kỳ vẫn chỉ phản đối
cho có lệ mà thôi, không hề có những hành động cấm vận cương quyết toàn diện
đối với Nhật Bản như sau trận tấn công Hải Phòng của Nhật.
Đây là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng mà các chiến lược gia của Hoa Kỳ cố gắng đánh lờ đi.
Đây là một sự kiện lịch sử vô cùng quan trọng mà các chiến lược gia của Hoa Kỳ cố gắng đánh lờ đi.
Việt Nam lao vào lốc
xóay của Đệ Nhị Thế Chiến bởi những tranh chấp dầu hỏa giữa các siêu cường
trong vùng.
Quyết định của chính phủ
Hoa Kỳ cấm vận Nhật Bản dẫn đến chiến tranh đương nhiên là có sự hậu thuẫn của
“BẢY CHỊ EM” vì các đại công ty dầu hỏa lúc bấy giờ không muốn bị Nhật
Bản khống chế khi chuyên chở dầu hỏa trong vùng cũng như cắt đứt một
khách hàng tiêu thụ xăng dầu khổng lồ của “BẢY CHỊ EM” là Trung Hoa Quốc Dân.
Khi Đệ II thế chiến chấm
dứt năm 1945 , trợ tá đắc lực của tướng Douglas MacArthur, Thống Đốc Toàn
Quyền Nhật Bản là phó thống đốc toàn quyền Laurence Rockefeller, cháu ruột của
ông tổ ngành dầu hỏa Hoa Kỳ , John D. Rockefeller, tìm đủ cách tăng viện
cho Hồ Chí MInh , mượn tên này gây rối Đông Dương để Hoa Kỳ CÓ CƠ HỘI CAN
THIỆP CHÍNH TRỊ VÀO ĐÔNG DƯƠNG mai sau, nhằm có điều kiện kiểm soát dò tìm trữ
lượng dầu hỏa và khí đốt tại miền nam duyên hải Việt Nam và lập ra kế hoạch
khai thác lâu dài trên biển Đông sau này.
Chín năm sau đó , tức là
năm 1954-1955 , cũng Laurence Rockefeller , lúc bây giờ là trợ tá đắc lực cho
tổng thống Eisenhower, đã cố vấn cho chính phủ Hoa Kỳ, vận động hậu
trường chính trị ở Washington DC ủng hộ Diệm truất phế Quốc Trưởng
Bảo Đại nhằm chấm dứt vĩnh viễn ảnh huởng của người Pháp lên Đông Dương , mở
rộng cửa cho Hoa Kỳ can dự vào chính trị tại Việt Nam , mở ra cơ hội cho Hoa Kỳ
chuẩn bị thăm dò khẳng định trử lượng dầu hỏa của Việt Nam, ngoài khơi Cửu Long
Basin và quần đảo Trường Sa.
Vào thập niên 1950 , kỹ
thuật thăm dò dầu hỏa ngoài khơi của Hoa Kỳ đã rất tiến bộ và chính xác ,
chỉ cần cho nổ bom hoặc mìn dười lòng biển sâu , rồi đo sự dội lại của âm thanh
sẽ biết được chính xác vị trí của salt dome , tức là những bọng muối chứa dầu
bên dưới.
Từ năm 1964 trở đi, “BẢY
CHỊ EM” ta , nhờ các kế họach quân sự của Hoa Kỳ khi tham chiến tại Việt Nam
làm bình phong che đậy, đã có thể âm thầm thực hiện kế hoạch thăm dò mười năm
của mình trên toàn bộ vùng biển Đông , biết rõ chính xác và chi tiết trữ
lượng cũng như vị trí sự phân bố dầu hỏa trên vùng biển Đông này.
(Nếu không có sự thăm dò
này , EIA của Hoa Kỳ làm sao có dữ liệu , data mà thông báo?)
Hiện tại, chưa có một sử
gia nào bỏ công nghiên cứu ảnh huởng sâu rộng của “BẢY CHỊ EM ” lên lịch sử của
Việt Nam.
Đơn giản là vì, giới
“BẢY CHỊ EM ” ta không bao giờ lộ diện mà đứng đàng sau các nhân vật chính trị
, hoặc vây cánh với các nhân vật chính trị của Hoa Kỳ để ảnh huởng đến
các quyết định chính trị sao cho có lợi cho mình và phù hợp với tình thế chính
trị toàn cầu
Hoa Kỳ ảnh huởng sâu
rộng đến lịch sử của Việt Nam từ năm 1945 đến nay từ việc đưa Hồ Chí Minh về
đảo chánh chính phủ Trần Trọng Kim gây rối Đông Dương, cắt viện trợ chiến tranh
cho nước Pháp tại Đông Dương khiến Pháp khốn đốn mà bỏ Đông Dương, rồi
đến tham chiến suốt 18 năm , sau lại cấm vận Việt Nam 18 năm và giờ quay
trở lại bảo vệ Việt Nam toàn diện từ kinh tế , quốc phòng đến môi trường thì rõ
ràng , sự ảnh huởng của “BẢY CHỊ EM”, một thế lực mại bản hàng đầu của nước
Mỹ, lên các quyết định của chính phủ Hoa Kỳ đối với Việt Nam , là
điều tất nhiên xảy ra.
Chối bỏ vai trò &
ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên lịch sử của Việt Nam sẽ khiến cho mọi sự nghiên
cứu sử học cận và hiện đại của Việt Nam bị khiếm khuyết và lệch lạc đi
IV.
Ảnh hưởng của “BẢY CHỊ EM” lên kinh tế Việt Nam
Sự hiện diện đầy đủ
của “BẢY CHỊ EM” ta tại Việt Nam về lâu về dài đương nhiên tạo ra
sức mạnh tăng trưởng kinh tế cho Việt Nam.
Căn cứ vào dữ
kiện của World Bank , thì thu nhập về dầu hỏa của Việt Nam đang từ con số
không vào năm 1986 đã lên đến gần 7 % tổng giá trị sản lượng quốc dân GDP vào
năm 2012.
Ghi
chú: Gạch đỏ ở trên là chỉ dấu mốc năm Hoa Kỳ bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam
Trong điều kiện kinh tế
lạm phát và tăng trưởng ở mọi quốc gia trên toàn cầu , nhu cầu về năng lượng
chỉ gia tăng chứ không có giảm và dù nhiều kỹ thuật tân tiến được áp dung để
tránh lệ thuộc vào dầu hỏa, thì dầu hỏa vẫn là nguồn năng lượng chủ yếu của mọi
nền kinh tế. Do đó , về lâu về dài, giá dầu chỉ có xu huớng gia tăng chứ
không có giảm.
Biểu đồ lên xuống giá cả
của dầu hỏa trong suốt 40 năm tính từ năm 1973 đã cho thấy giá dầu đã tăng từ
16 Mỹ kim một thùng vào năm 1973 lên đến gần 50 Mỹ kim một thùng vào năm
2013. Còn nếu lấy cột mốc là năm 1994 tức là năm khi Hoa Kỳ bãi bỏ cấm
vận cho Việt Nam thì giá dầu đã tăng gần 20 Mỹ kim một thùng khiến lợi nhận dầu
hỏa của Việt Nam chiếm từ 3% tổng giá trị sản lương quốc dân GDP vào năm 1994
lên gấp đôi trên 6% vào năm 2013
Ghi chú : Gạch đỏ ở trên
là chỉ dấu mốc năm Hoa Kỳ bải bỏ cấm vận đối với Việt Nam
Tuy nhiên , nếu chỉ nhìn
về trị giá dầu hỏa mà coi đây là nguồn lợi duy nhất mà “BẢY CHỊ EM” có thể đem
lại cho nền kinh tế Việt Nam là hoàn toàn sai lầm.
Sự hiện diện của “BẢY
CHỊ EM ” là cơ hội rất tốt để Việt Nam canh tân cơ sở hạ tầng kinh tế từ kho
bãi , cảng , kỹ thuật , nhà máy lọc dầu , các nhà máy sản xuất các hóa
chất trọng yếu cho kinh tế quốc gia, kiến thức quản lý. Đó là chưa kể “BẢY CHỊ
EM” là nguốn tài trợ vô cùng lớn cho Việt Nam gia tăng khả năng sản xuất điện
với kỹ thuật tân tiến, một nhu cầu vô cùng quan trọng cho một xã hội đang phát
triển.
Chỉ tính riêng công ty
ExxonMobil mà thôi, một khối lượng vốn lên đến 20 tỷ Mỹ kim đã được công ty này
loan báo đầu tư vào Việt Nam vào ngày 19 tháng Ba năm 2014 tại Hà Nội không
phải để mua dầu mà là để xây nhà máy nhiệt điện sử dung khí đốt khái thác tại
biển Đông. Chỉ với 20 tỷ Mỹ kim mà ExonMobil đã là công ty đứng hàng thứ bảy về
số vốn đầu tư tại Việt Nam thì rõ ràng , nếu tính sự hiện diện đầy đủ của “BẢY
CHỊ EM “,tức là sự hiện diện của mọi tập đoàn dầu hỏa được chính phủ Hoa
Kỳ hậu thuẫn thì con số vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng cho Việt Nam từ các
công ty này sẽ vượt qua xa tất cả các công ty không thuộc giới ….”BẢY CHỊ EM “!
Ước
đoán số vốn đầu tư của “BẢY CHỊ EM ” tại Việt Nam như sau:
1. Chevron: 7 tỷ Mỹ kim
cho hai nhà máy điện chạy bằng khí đốt khai thác từ BLOCK B từ Cửu Long Basin ,
trong đó có tính luôn cả chi phí các ông dẫn khí từ khơi vào đất liền có chiều
dài lên đến 400 km. Chevron cũng được cho là sở hữu 42 % số dầu khai thác từ
Cửu Long Basin theo các hợp đồng đã ký với Cộng Sản Hà Nội.
2. ExxonMobil : 20 tỷ Mỹ
kim cho hai nhà máy nhiệt điện lớn từ khí đốt tại tỉnh Quãng Ngãi. Hợp đồng này
khiến Việt Nam có cơ sở hạ tầng tân tiến , cải thiện sức mạnh kinh tế quốc dân.
3. British Petroleum(BP)
” được cho là bỏ ra 2 tỷ Mỹ kim để thăm dò Block 05-2 tai Nam Côn Sơn , có tin
đồn là bỏ của tháo chạy vì bị Trung Quốc đe dọa và lấy cớ là cần tiền để bồi
thuờng vụ rò rỉ ( leak) dầu tại Gulf of Mexico nên bán mọi
asset tại Việt Nam nhưng nay rõ ràng BP có cổ phần gần như mọi dự án lớn
nhỏ về năng lượng của Việt Nam. Hệ thống ống dẫn khí đốt đang hoạt động
tại Việt Nam hầu hết là do BP thi công , trừ hệ thống ống dẫn của Chevron .
4. Shell : Được cho là
bỏ ra gần 300 triệu để đầu tư sản xuất dầu cơ khí , hay còn gọi là dầu máy hoặc
là nhớt máy. Tuy con số tiền đầu tư có vẻ ít nhưng Việt Nam chưa hề tự lực nổi
về sản xuất dầu nhớt cơ khí và cần Shell hiện diện để canh tân kỹ thuật và cung
ứng cho nhu cầu quan trọng này của xã hội
5. ConocoPhilipe : công
ty dầu hỏa mới thành lập của Hoa Kỳ , được cho là lớn đứng hàng thứ ba trên thế
giới trong giới “BẢY CHỊ EM ” ngày nay , nắm 23.25% cổ phần block 15-1 ,
36% cổ phần block 15-2; và 16.3 % hệ thống Nam Côn Sơn ống dẫn dầu và khí
đốt ( Nam Con Son pipeline) .
ConocoPhilipecũng loan
báo bán tháo bỏ chạy ra khỏi Việt Nam vì Trung Quốc đe dọa năm 2012 , nhưng nay
cũng quay trở lại khi biết chính sách “nhìn về châu Á “ của Obama được thi
hành. Tổng trị giá tài sản mà ConocoPhillipe có ở Việt Nam có thể lên đến
5 tỷ Mỹ kim là ít nhất
6. Korea National Oil
Corporation (KNOC) : dù mang tiếng là của Nam Hàn nhưng thực chất Chevron đứng
đàng sau, theo chân Hoa Kỳ vào Việt Nam , nhận điều hành Block 11-2, tin
rằng số vốn cơ sở hạ tầng tại Việt Nam lên đến khoảng 2 tỷ Mỹ kim
7. Nippon Oil
Exploration Limited and Teikoku Oil : xuất thân tự Nhật có 35% cổ phần
cho block 05-1 b và 05-1c. Số vốn hạ tầng tại Việt Nam khoảng 4 tỷ Mỹ kim
Thu nhập ngoại tệ từ dầu
hỏa , canh tân cơ sở hạ tầng năng lượng cho nền kinh tế quốc dân như hệ
thống ống dẫn dầu hay khí đốt , hệ thống nhà máy nhiệt điện , hệ thống
nhà máy chưng cất dầu ( oil refinery ), nhà máy sản xuất ống dẫn dầu và các
thiết bị liên quan , dàn khoan dầu , tàu chở dầu , phi trường , công ăn
việc làm , kỹ thuật , vân vân là những quyền lợi kinh tế rất lớn mà
giới “BẢY CHỊ EM “sẽ mang đến cho Việt Nam về lâu về dài, chưa kể hậu thuẫn về
an ninh quốc phòng cho Việt Nam trước tham vọng bành trướng của Trung Quốc.
V.
Kết Luận:
“BẢY CHỊ EM ” hay còn
gọi là Seven Sisters là tiếng lóng để chỉ các tập đoàn dầu hỏa hàng đầu thế
giới, hầu hết là được chính phủ Hoa hậu thuẫn đằng sau.
Các công ty dầu hỏa này
đang ngày càng có một ảnh hưởng chính trị sâu rộng trong thuợng tầng , lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản Việt Nam và sẽ còn tiếp tục ảnh huởng đến nền chính trị của
quốc gia chúng ta trong tương lai sau khi cộng sản xụp đổ
Việt Nam bị lôi cuốn vào
đệ nhị thế chiến cũng vì những căng thẳng về dầu hỏa xãy ra giữa Nhật Bản và
Hoa Kỳ do sự cấm vận từ Hoa Kỳ sao khi Nhật Bản tấn công cảng Hải Phòng
của Việt Nam thời Đông Dương thuộc Pháp . Hai cuộc chiến tại Việt Nam sau
1945 điều có sự can dự âm thầm của giới “BẢY CHỊ EM ” và là cơ hội tốt để giới
BẢY CHỊ EM tiến hành thăm dò trử lượng dầu hỏa và khí đốt tại biển Đông . Cho
nên, lịch sử của Việt Nam thật sự đã bị ảnh hưởng bởi giới ” BẢY CHỊ EM” mà các
sử gia cần thừa nhận và đào sâu thêm
Ảnh hưởng về kinh tế đối
với Việt Nam từ giới “BẢY CHỊ EM ” rất lớn . Sự hiện diện của “BẢY CHỊ
EM” tại Việt Nam sẽ thúc đẩy Việt Nam canh tân cơ sở hạ tầng và đem đến một
tương lai thịnh vượng hơn cho đất nước về đường dài.