Wednesday, April 11, 2018

Dấu Chân Bãi Cát - Truyện ngắn Nguyễn Thị Hoàng



 Nguyễn Thị Hoàng
Cảm giác chìm nổi bồng bềnh trong dòng sông đen đặc quánh, Hiệp bàng hoàng đọc lại không biết lần thứ mấy khoản tin tức bất ngờ trên báo, trong khi buổi chiều đâu đó đã chập choạng buông màn xuống vùng không gian im vắng mê man. Niềm xót xa lâng lâng lúc đầu dần dần biến thành một đau đớn gậm nhấm nhức nhối trong tâm hồn, xô đẩy Hiệp vào giữa vùng bất định giằng co của ý muốn đi thăm Nga, xin cho Nga trở về với mình, hay mặc Nga với màng lưới đen tăm tối đã phủ xuống đời sống nàng đang bình yên, vĩnh viễn. Hiệp nghĩ mỗi người chỉ có thể tự cứu lấy mình, trong bất cứ trường hợp nào, nhất là khi rắc rối vì một lý do tinh thần hay tình cảm. Nhưng với người đàn bà thì không thể tự cứu lấy mình. Nhất là người đàn bà đã liên hệ sâu xa với mình, dù một năm một tháng một ngày nào đó gối chăn. Cho nên Hiệp phân vân. Phân vân và khổ sở giữa hai ý muốn đồng thời và đối lập là đi tìm Nga, đưa nàng về hay làm ngơ, bỏ mặc. Cho đáng kiếp. Có lẽ là Nga sẽ khóc. Nhưng nước mắt đàn bà chỉ là những hạt nước mưa trên ngọn lá môn. Rồi Nga sẽ tủi nhục một thời gian, và sau đó, quên hết để bắt đầu một trường hợp khác, tương tự, thản nhiên như ra chợ chọn một xấp hàng may áo. Một cái áo. Rồi những cái áo. Nhưng mà không thể như thế được. Vì Nga đã là của Hiệp. Của Hiệp trong đời sống, trong những ý nghĩ thiên thần trong sáng về một người con gái ngày xưa. Bây giờ Nga đến thế. Tại sao? Có phải vì chàng? Vì những nguyên nhân không ngăn ngừa đề phòng, và Nga bây giờ như thế. Với một người đàn ông nào Hiệp chưa từng biết, cùng bị bắt, ở một căn phòng trên cao thành phố, nhờ sự tố cáo của một người đàn bà khác. Hiệp chết điếng với bài báo đó. Phản bội có nghĩa là mất mát. Cho nên niềm tức giận cũng là nỗi xót xa. Và đến khi mất rồi, Hiệp mới khám phá ra giá trị của một báu vật. Nga và tình yêu cho chàng. Những ngày với nhau quên trời đất. Vùng không gian diễm ảo không bóng hình kẻ thứ ba. Bây giờ đã hết. Và có tìm đưa Nga về cũng chỉ như lần đầu tiên cuối cùng khâm liệm một phần đời sống mình thôi. Nhưng Hiệp không thể không đi. Bài báo mô tả đời sống bẩn thỉu nhục nhằn của nhà giam bọn đàn bà con gái nhơ nhuốc đó. Nga đã bị lầm tưởng, đã bị đưa vào đó, và bây giờ, cúi mặt xuống vùng bóng tối, Nga đang mong mỏi tuyệt vọng chàng tìm đến, như một biện minh với cuộc đời và tình yêu còn rơi rớt lại trong tận cùng đáy lòng đã héo hon tủi nhục buồn phiền.
Hiệp mặc áo và ra đường. Đêm đã xuống. Con đường lập loà ánh đèn và bóng lá trôi dần vào miền tối tăm vắng ngắt phía trước. Bóng Hiệp đổ dài trên mặt nhựa đen, chàng đã tan biến trong một cơn gió lạ lùng nào, chỉ còn chiếc bóng này lang thang trôi dạt về cuối đường thăm thẳm. Chàng chờ và gọi một chiếc xe hơi đến vùng trại giam bọn đàn bà bất hạnh. Không một xe nào bằng lòng đưa chàng đi. Chàng trả với bất cứ giá nào, tất cả đều từ chối. Ý muốn đi tìm Nga bây giờ mãnh liệt nung nấu trong lòng chàng, nhưng Hiệp không thể nào đi bộ trong đêm, hàng chục cây số. Đột nhiên, ở mỗi gốc cây bên đường, Hiệp choáng váng nhìn thấy một bóng đàn bà tha thướt, người đàn bà cười khanh khách với người đàn ông. Những cặp tình nhân đều giống nhau. Vì họ là Nga, với người đàn ông lạ. Hiệp sững sờ vùng chạy. Những cặp tình nhân dời gốc cây lên xe. Mũi xe hướng về phía chàng. Ánh đèn pha sáng rực gần mãi, gần mãi lại. Hiệp té sấp xuống đường. Chiếc xe lao lên mình Hiệp, nhưng chàng bỗng có cảm giác êm ái khối nặng của chiếc xe tưởng đã nghiền nát thân thể chàng thành một đống thịt bầy nhầy lao vút qua khỏi người chàng, và Hiệp vùng tỉnh dậy. Có tiếng la hoảng hốt của một thằng bé con. Hiệp quờ tay lên vớ được chân thằng bé. Nó vùng vằng cầu cứu một người nào ở đàng xa.
“Mày làm cái gì đấy?”
“Tôi… không có làm cái gì đâu”.
“Thế mày rình gì tao?” Hiệp vặn xoắn tay thằng bé.
“Tôi đổ nước”.
Hiệp sờ tay lên cổ rồi nhổm người lên tát cái bốp vào mặt thằng bé:
“Ơ, thế mày đổ nước lên đầu lên cổ tao đấy”.
Đứa bé ấp úng muốn khóc:
“Tôi có đổ nước lên ông đâu, vào bụi ấy mà, tại ông nằm trong bụi, không nhúc nhích, trời tối, tôi có nhìn thấy ông đâu”.
Hiệp buông thõng tay thằng bé. Có tiếng chân nhẹ nhàng rón rén đi đến sau Hiệp, rồi tiếng đàn bà trong vắt:
“Gì đó, con?”
“Ông này khi không tát tai con”.
Hiệp gắt; không nhìn người đàn bà vừa đi đến:
“Nó đổ nước lên người ta, còn bảo khi không sao được?”
Người đàn bà kéo tay thằng bé ra rồi cúi xuống phía Hiệp:
“Ấy chết, cháu nó lỡ ra, tôi xin lỗi ông”.
Giọng nói bây giờ bỗng trầm xuống, như lời dỗ dành dịu dàng, lôi cuốn Hiệp vào một hồi tưởng đột ngột, và chàng bỗng cảm thấy âm thanh quen thuộc này như tiếng gọi của một quãng đời chìm ngập đã xa mờ trong ký ức và thời gian. Ánh đèn đường bỗng dạt qua một tàn lá dừa xao động gió đêm và Hiệp nhận ra, trong vùng tranh tối tranh sáng của bờ biển, khuôn mặt mơ màng của Diễm Châu một ngày nồng nàn tháng hạ năm nào.
“Trời ơi, anh đấy ư?”
“Phải, anh chứ không một người nào khác, thằng con em nó đã chọn đúng chỗ để đổ nước”.
“Em đã xin lỗi anh. Và cũng tại anh nằm trong chỗ khuất thế này này”.
“Nhưng nếu bố nó nằm cũng chỗ này thì nó chắc chắn không làm vậy đâu”.
“Anh Hiệp, anh giận em điều gì sao?”
“Châu dẫn thằng bé ra với bố nó đi, để cho tôi yên”.
“Không có bố thằng bé ở đây. Mà sao phải ra với bố nó?”
Hiệp ngờ ngợ, Châu đã cười khúc khích:
“Nó không phải con em đâu, em chưa lấy chồng”.
“Thế người đàn ông trên máy bay hôm nọ với em?”
“Vâng, em đi với hắn, nhưng không phải là chồng. Mình vào trong kia nói chuyện dài hơn, nghe anh”.
“Vào đâu?”
“Trong khách sạn”.
“Em ở một mình trong khách sạn sao?”
“Vâng, còn biết thế nào hơn”.
Giọng Châu chán chường buông xuôi nhói lên trong lòng Hiệp chút bùi ngùi thương cảm.
Ngày mai hay ngày kia anh sẽ đến thăm Châu. Ngọn lửa đêm xưa đã tắt trong lòng người đàn ông, Châu nghĩ giọng nói ơ hờ và thái độ chừng mực của Hiệp, và mình níu kéo vô ích. Mỗi ngọn lửa chỉ cháy một lần. Và sau đó chỉ là những ánh hồng le lói gượng gạo không còn đủ sưởi ấm một đêm dài băng giá.
“Hình như anh cần một mình, hôm khác chúng mình lại gặp nhau, em không xin anh, nhưng tưởng tượng nếu chúng mình gặp lại nhau một lần, chỉ một lần thôi”.
Bước chân Châu đi im lìm không âm vang trên bãi cát. Trong bóng đêm, Hiệp nhìn thấy lờ mờ trên dải cát mênh mông từng dấu chân nhỏ của người đàn bà rẽ đường vào hiu quạnh.
Lên hết cầu thang xoắn ốc, Hiệp tần ngần dừng lại. Thật ra Hiệp không hề muốn đến. Không có một cảm giác hay ý nghĩ nào đủ lôi cuốn chàng tới vùng bóng tối đèn mờ trên kia. Nhưng Hiệp đã ra đường, đã đi đến, và phút này đến nơi, Hiệp bỗng muốn trở về tức khắc, để giữ lại kịp trước khi đánh vỡ thêm lần nữa cảm tưởng bình yên thanh thoát về những ngày hiện tại. Hiệp không muốn xao động, không muốn thay đổi, không muốn làm gì hơn hay kém cho cuộc đời mình đã như thế. Mấy hôm trước Hiệp nghĩ điều đó chỉ vì mình. Nhưng bây giờ đứng trên tận cùng thang lầu xoắn ốc của một khách sạn xa lạ, Hiệp chợt nghĩ đến Nga, nghĩ đến Nga và muốn trở về. Ích gì một phút giây lạc loài trên vùng đèn mờ ảo đó. Chàng sẽ không cảm thấy gì hết. Với Châu hay bất cứ một người nào khác. Tất cả thật đã nguội lạnh từ lúc có Nga, và với sự hiện diện thường trực của Nga trong đời. Hiệp chịu đựng thường xuyên một niềm ray rứt về thân phận và cuộc đời Nga. Hiệp đã cố gắng nghĩ là đời Nga kể như bắt đầu từ khi có Hiệp. Nhưng đời sống là một chuỗi dài quá khứ hiện tại tương lai, không thể tách rời, không thể cắt bỏ một phần thời gian đổ nát ném khỏi thực tại của đời sống. Những nỗi ray rứt lâu ngày dựng lên trong tình yêu cho Nga một vạn lý trường thành cách ngăn điệp điệp trùng trùng. Mà bây giờ, trong một lung linh nhớ nhung, tất cả bỗng sụp đổ xuống, và Hiệp hối hận đã rời bỏ vùng bóng đêm thanh bình dưới đó để lên đây với một người đã vô tri trong kỷ niệm và cuộc đời chàng vĩnh viễn.
Cửa phòng mở nhẹ nhàng và khuôn mặt Châu diễm ảo trong đèn hồng nồng nàn. Hiệp đi vào và Châu khép cửa lại. Hiệp ngồi xuống ghế trong lúc Châu đứng im bên khung cửa sổ mở lên vòm trời sao lờ mờ. Một lúc, Hiệp nghe có tiếng rào rào dưới vườn cây.
“Gì thế Châu?”
“Hình như trời sắp mưa lớn”.
“Anh phải về trước cơn mưa”.
Châu đóng chặt cửa kính:
“Anh ngồi lại cho qua cơn mưa, ít ra, anh hãy cứu vớt em một lần. Chỉ một lần này”.
“Có gì là cứu vớt?”
“Anh đến, và ngồi như thế. Cho em cảm tưởng mình hãy còn như xưa”.
“Đáng lẽ anh phải an ủi Châu. Nhưng anh chẳng còn lời lẽ để tự nói với mình. Đêm rồi qua đi, ích gì khi tìm kiếm chút ảo tưởng mong manh trong bóng tối này. Ngày sẽ soi rõ tất cả và sẽ xô đẩy mình vào nỗi đắng cay thường trực”.
Gió phả cơn mưa bất ngờ dữ dội xuống vườn cây. Châu kéo kín các màn cửa và đặt trước mặt Hiệp cốc rượu nồng. Hiệp nâng ly rượu lên rồi để xuống.
“Rồi một ngày, bỗng dưng anh không còn đến với em nữa”.
“Anh đã gặp lại Châu nhiều lần, nhưng lơ đi. Không làm gì được cho Châu, thà như vậy là hơn”.
“Em không đòi hỏi gì hơn là thỉnh thoảng được nhìn thấy anh một lần, để níu kéo chút liên hệ cuối cùng và độc nhất giữa em với cuộc đời. Nhưng rồi nỗi mong ước đó cũng tan hoang”.
“Em ở đây một mình?”
“Vâng, chỉ ghé qua đây vài hôm rồi đi”.
“Đi đâu?”
“Em không biết”.
Lòng Hiệp chùng xuống một thoáng xót xa lắt lay. Dù sao có một ngày nào xưa, với Châu chàng đã qua một lần đằm thắm nồng nàn. Bây giờ người con gái làm củi rêu lênh đênh trên nước lũ. Và Hiệp chỉ là người trên đường hờ hững đi qua, như Hiệp đã hờ hững đi qua trên cuộc đời và thân phận chính mình, không còn một nỗ lực nhỏ nhoi nào để níu lại sự thăng bằng cho tâm hồn, cho sự sống tàn héo dần dần trong công việc, hành vi ngôn ngữ ý nghĩ lặp lại hằng ngày một điệp khúc bình yên.
Hiệp nâng ly rượu lên môi uống cạn. Một lúc cảm giác cồn cào xoáy xuống ruột gan, mí mắt căng căng niềm mỏi mệt bơ phờ, hai tay buông xuôi trong tay Châu, chàng nằm xuống nệm giường như thả trôi xuống dòng nước chảy. Trong mắt Hiệp nóng bừng khép kín, ánh đèn hồng bỗng như lu mờ hẳn lại, và tiếng Châu lẫn vào trong tiếng mưa chìm chìm rơi.
Một lúc Hiệp tỉnh dậy và lạnh toát người với ý nghĩ đi đến chỉ là bước lên những dấu chân vừa để lại đàng sau, đi hết vòng tròn đời sống chỉ là trở về thời điểm và mỗi một người không thể thanh toán dứt khoát với quá khứ mình để thản nhiên buổi chiều lại cuộc đời nên thường xuyên nặng trĩu trên vai hành trang khô héo của những tháng năm nào không còn nữa. Ngày mai mỗi người vẫn ở nguyên vị trí mình hôm nay, không xê dịch khỏi vòng vây mệnh số, và mong chờ tuyệt vọng một đổi thay tốt đẹp không bao giờ tới. Cho nên đi xa hơn trong tình cảm và không gian chỉ để làm rõ cảm giác lạc loài. Như Châu rồi sẽ cô đơn bên cạnh những người xa lạ mới. Như Hiệp bây giờ phiêu du giờ phút với Châu, bỗng chênh vênh nỗi nhớ về nguồn là Nga chờ đợi ở nhà thầm lặng.
Hiệp đứng lên, không nhìn Nga, không nói một lời, cúi đầu đi xuống cầu thang trong cơn mưa vừa dứt dưới vườn cây ngủ. Bãi cát ướt dưới lưng, vòm trời đen như một cái nắp tròn trên mặt, Hiệp nằm nhìn mông lung ra khơi. Trên những hòn đảo xa, đèn của quân đội Mỹ chiếm đóng kết từng vành tròn thoai thoải cong xuống gần mặt biển đưa mơ mộng Hiệp đến những vành lược óng ả trên mái tóc đàn bà Nhật Bản. Tiếng sóng mỗi lúc một gần dưới chân, như tiếng rào rào mơ hồ của một bánh xe khổng lồ sắp nghiến lên thân thể Hiệp. Chàng có cảm tưởng sắp bị vùi chồng, và hoảng hốt muốn níu lấy bàn tay Nga đã buông rời theo năm tháng.
° ° °
Giấc ngủ như còn chập chờn trên rèm mi cong loáng thoáng chiêm bao, Nga thong thả đi ngang qua vùng nhà thờ, với ý nghĩ mơ hồ là mong mỏi một nhân chứng vô hình thiêng liêng nào đón tiếp những phút giây thênh thang của chuỗi ngày cô quạnh lại bắt đầu. Sáng Chủ nhật. Nắng hé dải một lụa vàng hanh phơn phớt trên hàng cây còn ngây ngất hương mưa đêm. Tiếng chuông lễ sớm trong giáo đường thánh thót. Những tà áo màu rực rỡ trong không khí phảng phất mùi thơm của gió sớm và lá cây. Tiếng guốc reo vui trên khoảng lề đường sạch bóng. Còi xe gởi tiếng cười gặp gỡ hồn nhiên xuống ngả tư đường nao nức. Và cuồn cuộn như nước chảy, những bánh xe lăn rào rào trên mặt nhựa ngọt ngào nhẵn bóng của buổi sáng cuối tuần rộn ràng thường lệ của Sài Gòn. Một bóng con gái áo trắng đi ngược chiều thoảng lại mùi thơm dìu dịu của những tràng hoa nhài vừa nở. Mùi hương và hình ảnh ứa trào trong lòng Nga kỷ niệm xót xa của một thời con gái bình minh. Bây giờ buổi chiều cuộc đời đã xuống trong buổi mai huy hoàng thành phố, và tôi không còn chút liên hệ nào, chút quyền hạn nào với sự sống vời vợi dâng như thủy triều xung quanh. Cho ốc đảo đìu hiu ngậm ngùi thân phận lạc loài. Tôi đã tự ý tách rời, từ khước đám đông cũng có nghĩa một phần nào là lảng tránh. Tôi không có quyền cũng vì thế đồng nghĩa với tôi không chấp nhận xung quanh, để không còn một tương quan nào nữa giữa tôi và ngày qua, giữa tôi và khung cảnh bao giờ cũng nhắc nhở cũng vang rền hình ảnh thanh âm tôi không còn muốn nhớ. Bởi như vậy là hết. Tôi từ bỏ tất cả chỉ được Hiệp. Và bây giờ Hiệp cũng không còn thuộc về tôi, hay, đúng hơn là Hiệp vẫn mãi mãi là của tôi nhưng trong sâu xa của tình yêu tôi linh cảm thấy điều gì không ổn, và bây giờ Hiệp cũng bỏ đi rồi, không nói rõ lý do hoặc không có một lý do xác đáng nào để nói. Cho nên tôi lơ lửng không trông cậy vào đâu và không thuộc về đâu cả. Buổi sáng Chủ nhật gọi Nga ra khỏi nhà bằng khung cửa sổ chắn một vuông trời trong vắt. Trong khung trời vuông xanh nhạt sợi mây dài như tóc thu đã bềnh bồng trôi qua khoé mắt Nga khép hờ thao thức. Một ngày nào đó những ấn tượng bồi hồi của mỗi người cưu mang nuôi nấng rồi cũng lê thê và đứt quãng như dải mây trôi. Và Nga đã mặc chiếc áo màu buồn buông xuôi thể xác tâm hồn xuống phố.
Nhìn và không thấy gì trên hè phố bây giờ bắt đầu tấp nập, Nga mê man đi hết quãng đường, đẩy cửa kính dày của một nhà hàng ăn uống giải khát, bước vào ngẩn ngơ, ngồi xuống một chiếc ghế gần cửa kính, e dè như sợ động vỡ. Thoáng hình ảnh xao xuyến bỗng nhói lên trong lòng khi đi qua khung cửa, Nga thoáng thấy bóng mình trong gương soi. Cái thoáng hình ảnh như cơn gió lạnh đầu mùa đánh thức trong lòng người con gái những cơn rùng mình ớn lạnh cho một quãng thời gian đánh mất suốt đời, cùng với những cơ hội nao nức, những ước hẹn mông lung, những đợi chờ vô vọng, những dang dở ngậm ngùi, và những lời thề nguyền trên trang thư xanh màu thương nhớ xa khơi.
Cô dùng gì, người bồi hỏi từ thế giới của người đời xa lạ. Cho một trà đường. Có bánh ngọt không. Có, cho hai cái, Nga nói lửng lơ với nhánh lá xanh vươn lên trên mặt cửa kính trong suốt. Người bồi mang bình nước đến, với một cái chén, một cái muỗng, rồi một cái đĩa, và khay bánh. Không, dọn hai phần kia mà, sao lại chỉ có một đĩa, Nga hỏi. À, hai người, người bồi ngạc nhiên trả lời và đi lấy thêm một phần chén đĩa.
Đối diện với tách trà vương khói của người vắng mặt bên kia, Nga nâng chén trà mình uống từng ngụm nhỏ tiếng nhạc trầm trầm xoáy lên từ góc phòng. Anh, Nga gọi thầm, cho tiếng nhạc bây giờ đắng chát. Đã mười năm rồi có phải không anh. Mười năm em đã quên, không nhớ lại, không nghĩ đến một lần nào. Mà bỗng trong chiêm bao anh về lãng đãng đêm qua. Khi tôi nhận ra mình đi lạc đường, bóng chiều đã xuống thấp. Con đường dài sâu trũng ngoằn ngoèo giữa hai bờ cây cỏ hoang vu dần dần sẫm màu, và bóng tối như một vầng khói đen khổng lồ từ trời cao xoáy lốc ào ạt đổ xuống, lượn vòng từ đàng xa, xô dạt mỗi lúc một nhiều và một nhanh về phía tôi. Bốn bề vắng ngắt, không một mái nhà, không một bóng người, không dấu vết nhỏ nhoi nào của đời sống. Khối bóng tối bây giờ đã sụp xuống trên đầu tôi, nhưng tôi không cảm thấy gì ngoài ý nghĩ tuyệt vọng là từ giây phút này, vĩnh viễn không bao giờ nhìn thấy vòm trời trong suốt bao la ngoài kia nữa. Một lúc, cái màn tối tăm đen đặc bỗng mỏng đi, và tôi nhìn thấy, như từ trời cao đổ xuống, dòng thác trắng cuồn cuộn đổ xuôi xuống một vườn núi tím. Loáng thoáng bên kia, xa tít tắp, hình ảnh nhạt mờ của một chòi lá chênh vênh bên chiếc cầu ván nhỏ. Rồi giữa những màu sắc âm u của buổi chiều xám ngắt đó, tôi tìm thấy vết áo trắng hiện hiện chìm chìm, bồng bềnh như một cánh chim trên sườn tôi, gần chiếc cầu nhỏ. Tôi đi vương mắc trong màn bóng tối đến bên kia bờ đất hoang, hai chân nâng bổng với cảm giác bàng hoàng nao nức. Cảnh vật bỗng quay tít một vòng, vòm trời chợt sáng lên một giây, và tôi bay ở bên một bờ suối, với tiếng cười đùa ríu rít của con gái con trai, tiếng đổ rào rào của thác nước, và giữa những âm thanh lạ hoắc nổi trôi, tôi bỗng nhận ra tiếng nói của Hoài. Tiếng nói quen thuộc của Hoài một ngày mùa hè ấu thơ xa lắc. Tôi đi vòng qua một vòm cây. Và Hoài đó. Hoài đứng với một người đàn bà. Tôi muốn kêu lên cho lời mình vọng vang qua suốt thời gian mười năm trôi mê mải. Nhưng Hoài nhìn tôi như nhìn một kẻ không quen, trong khi người đàn bà xa lạ mỉm cười giới thiệu người đàn ông là chồng. Hoài mỉm cười, nửa ngờ vực, nửa châm biếm xót xa. Tôi nói với người đàn bà chị làm ơn chỉ hộ tôi đường về miền biển. Người đàn bà nói chị cứ đi dọc theo bờ suối, qua bên kia cái thác, đến một vùng đất cao hoang vu, đi xuống một sườn đồi thoai thoải, qua chuyến đò, đi về miền nam là đến nơi. Tôi lạc đường xa quá rồi, tôi nói. Rất tiếc là chúng tôi đi ngược đường với chị, nếu không, chúng mình cùng đi, nàng tươi cười. Tôi bảo, cùng đi thế nào được, chị đi thì tôi không đi và chị không đi thì tôi đi, chúng mình không thể đi chung một con đường. Chị đi đúng đường, còn tôi thì sai lạc từ đầu nhưng không biết. Hay là nhà tôi đưa chị sang bên kia thác rồi trở về đây đón tôi, nàng hỏi. Không được đâu, tôi đi một mình còn hơn đi vì lòng tử tế, chị phải đứng một mình, tôi nói với chính mình và nhìn lên vùng bóng tối lan dài trên đỉnh núi. Ngọn thác trắng đã chìm trong bóng tối, chỉ còn nghe tiếng chảy rì rào triền miên, điệp khúc không nguôi ngoai của tháng ngày. Chị đi một mình qua núi nên mặc thêm áo ấm, tôi lấy áo tôi cho chị mượn, người đàn bà nói và đi thoăn thoắt qua bên kia bờ cây. Trên đầu hai người, vòm lá lao xao reo bay. Tôi nghe mơ hồ tiếng thở dài u uất của Hoài trong hơi gió núi chiều hôm.
“Mười năm nay, anh vẫn nghĩ đến em, em biết không Nga?” Tôi đứng cách xa Hoài thêm một bước.
“Vâng, nghĩ đến một người và sống với một người khác”.
“Ngày mai em về biển phải không?” Hoài hỏi bùi ngùi.
Tôi bỗng dưng muốn khóc cho những tờ thư xanh Hoài gửi đến không bao giờ được hồi âm một mùa hè mười năm trước:
“Vâng, em từ biển mà đi, giờ em lại trở về với biển”.
“Nếu ngày xưa Nga trả lời thư anh, cuộc đời mình bây giờ đã khác thế này”.
“Vâng, và em đêm nay sẽ không phải một mình băng vời qua bên kia núi”.
Hoài tiến lên một bước. Áo Hoài chạm vào vai tôi mơ hồ như chỉ là một ảo tưởng. Lòng tôi bỗng rưng rức đớn đau.
“Cho đến khi em bỗng muốn trả lời thư anh thì mọi chuyện đã lỡ làng rồi”.Tôi nói câu cuối cùng với Hoài và bỏ chạy trước khi người đàn bà mang áo đến.
Trong đáy nước lung linh, giọt nước mắt Nga âm thầm nhỏ xuống, nàng pha trà vào tách, một muỗng đường quậy nhẹ cho tan tành trong đáy nước những hình ảnh cuối cùng của giấc chiêm bao đêm qua. Vị trà bây giờ ngọt lịm trên môi, Nga đứng lên, tiến về phía máy điện thoại. Nàng quay số, thật chậm rãi, muộn màng…
“Tôi không ngờ, không bao giờ có thể ngờ người đến lại là Nga”.
“Cũng như tôi không ngờ người tôi tìm đến hôm nay lại là anh”.
“Nga đã nghĩ thế từ mười năm về trước”.
“Van anh, thôi đừng nhắc ngày xưa đó”.
“Nga chết vì ngày xưa nhưng tôi chỉ sống vì ngày xưa”.
“Lẽ ra tôi phải biết sống nhờ ngày xưa đó. Nhưng tôi dại khờ, lạc lối cho đến bây giờ, và đôi khi tự hỏi vì sao ngày đó không một lần trả lời thư anh”.
“Nga còn nhớ những bức thư tôi ngày cũ đó sao?”
“Trong mười năm, thật ra không bao giờ em nghĩ đến. Nhưng đêm qua…”
“Thế nào, việc gì đã đến trong đêm qua?”
“Giấc chiêm bao”.
“Giấc chiêm bao thì nhắc nhở được gì đến những ngày hoang đường xa lắc đó?”
“Vâng, có nghĩa lý gì giấc chiêm bao. Nhưng trong giấc chiêm bao, tôi bỗng thấy mình bé bỏng lại như mười năm về trước, như ngày đầu tiên anh đến thăm và lạ lùng là tôi bỗng cảm thấy yêu, yêu và tiếc xót xa… Thôi tôi đi về. Tôi đến đột ngột, liều lĩnh thế này chắc anh sẽ khinh, anh tha lỗi cho. Tôi chỉ cầu mong tìm thấy anh lại một lần; để biết anh là người thật hay chỉ là hình ảnh chiêm bao, và mười năm xưa đã đến, hay chỉ là ảo tưởng lu mờ”.
“Sao Nga biết số điện thoại tôi?”
“Biết chứ, như biết nơi anh làm việc, con đường anh ở và mỗi lần đi mỗi lần về của anh. Nhưng anh đừng lầm tưởng, những điều đẹp nhất chỉ là ảo tưởng và chiêm bao. Ngoài đời sống thật thì chẳng có gì. Tôi biết chỉ vì tò mò, không gì khác hơn. Tâm hồn tôi bây giờ nhẵn bóng, trơn tru một hòn cuội trắng. Nhưng đêm qua giấc chiêm bao đánh lừa tôi. Tôi đến anh vì muốn biết chiêm bao phỉnh phờ mình hay là…”
“Bây giờ xin em ngồi lại, giây lát thôi, uống với tôi tách trà buổi tối, và hãy kể cho tôi nghe giấc chiêm bao đêm qua”.
“Không được”.
“Vì sao vậy?”
“Anh có thấy, những đám bèo đang trôi?”
Hoài ra đứng bên cửa sổ nhìn xuống. Con nước lừ đừ loang loáng bóng chiều sẫm màu dâng đầy trên sông, cuốn theo những đám bèo bồng bềnh, và thỉnh thoảng giữa những đám lá đen bỗng vươn lên như một cánh tay giã từ nhỏ bé, bông hoa bèo tím nhạt lênh đênh. Mỗi ngày bèo vẫn trôi lênh đênh trên sông từ cửa sổ phòng chàng mà Hoài chưa một lần nhìn thấy, và bây giờ thì bông hoa tím nhạt đã khuất xa dưới kia chân cầu tràn ngập bóng đêm…
“Vâng, bèo trôi…”
“Thôi bây giờ Nga đi về”.
“Nga ở một mình?”
“Không, cũng như anh vậy, nhưng không bằng anh, hoặc là hơn anh. Không có đời sống nào bằng nhau và giống nhau”.
“Hãy ngồi lại uống tách trà với anh, từ lúc đến Nga chưa ngồi xuống, như kẻ đi đòi nợ”.
“Đúng là đòi nợ, hãy trả cho em tách trà mười năm về trước đã pha cho anh. Rồi giữa chúng mình như thế là nhẹ lòng”.
Nga chớp mau mắt nhìn ra khung cửa sổ tìm một cánh bèo nhưng bóng tối đã xoá nhoà con sông tội nghiệp. Rồi nàng ngồi xuống chiếc ghế da màu cặn rượu đối diện Hoài. Hai người yên lặng nhìn nhau một giây. Người làm bưng khay trà lên rón rén đặt trước mặt mỗi người một tách trà thơm ngát. Nâng chén lên môi, hai người bàng hoàng nhìn nhau nhấp một ngụm trà. Đột nhiên, Nga bỗng mong mỏi thiết tha, thành khẩn là Hoài sẽ nói một câu gì, phác một cử chỉ nào liều lĩnh với mình để chắp nối lại, dù giây phút, dù mong manh thời gian hiện tại với ngày nào mười năm về trước. Hiệp bỗng đứng lên. Chàng đi vòng sang chỗ Nga ngồi, và dừng lại, trầm ngâm với chén trà trên tay. Trong một thoáng, Ngà bỗng sợ hãi chính điều mong muốn vừa rồi, sợ hãi đến xót xa ngây ngất với niềm đau đớn lâng lâng.
Hoài đưa Nga ra khỏi phòng khách, xuống lầu, qua sân. Khi Hoài đưa tay mở cổng, Nga đứng lùi lại dưới cánh tay nhấc cao của Hoài. Nàng ngẩn ngơ không tìm thấy nổi xúc động dạt dào của đêm qua khi đứng bên Hoài trong giấc chiêm bao.
° ° °
Trời nóng bức khô khan nao nức đợi chờ cơn mưa cuối cùng của buổi chiều. Tiếng sấm động mơ hồ trong chân mây. Không gian thu nhỏ cho hai người gặp nhau trong gian phòng âm u kín cửa. Hiệp hỏi làm thế nào lúc nãy em vào đón anh tận trong phi trường. Nga cười cho hương hơi quen thuộc phả xuống tóc môi Hiệp cảm giác buồn buồn rưng rức, em mua hẳn một vé máy bay, và đi theo xe hành khách. Buổi chiều, căn phòng, khuôn mặt người đối diện, hơi thở nồng nàn và cánh tay ôm quanh lưng, tất cả bỗng mới mẻ, và dịu dàng như lần đầu tiên họ đến với nhau. Tiếng sấm càng lúc càng rõ và gần bên ngoài. Không gian bỗng lắng xuống mát dịu với hơi gió bắt đầu ẩm ướt. Em cảm tưởng không phải là anh mà chính em vừa đi đâu xa về, và từ đây không bao giờ đi nữa, Nga thoáng ăn năn. Hiệp dúi cái tàn thuốc đang cháy dở trên bàn, chúng mình đã trở về. Cơn mưa rào rào chạy nhanh trên những mái nhà cằn khô và cuối cùng dừng lại giăng màn mờ mờ trong mắt Nga hình ảnh căn phòng quay tít, dâng cao và cảm giác bay bổng nhẹ tênh xoá mờ trong tiềm thức tối tăm những mảnh vụn chiêm bao cuối cùng. Em nghĩ gì đó Nga. Không, không có gì cả. Trời đã mưa và chúng mình đã trở về.
Nguyễn Thị Hoàng
Tác giả:
Nguyễn Thị Hoàng sinh ngày 11-12-1939 tại Huế. Theo học trường Đồng Khánh, 1957 vào Nha Trang, 1960 vào Sài Gòn học Đại học Văn khoa và Luật; bỏ dở, đi làm, dạy học ở Đà Lạt (cuốn tiểu thuyết gây chấn động dư luận miền Nam Vòng Tay Học Trò được sáng tác trong khoảng thời gian này); bỏ Đà Lạt về Sài Gòn, cộng tác với các tạp chí Bách khoa, Văn… và một số báo khác. Sau Vòng Tay Học Trò còn xuất bản trên 30 tiểu thuyết trước 1975. 1990 xuất bản Nhật Ký Của Im Lặng. Cùng lúc Là người yêu của Đấng Trời (và nhiều cuốn khác) chưa xuất bản. Từ đó im lặng.


Một Chút Văn Khoa Sàigòn Năm 60-Nguyễn Văn Sâm


Một Chút Văn Khoa Sàigòn Năm 60


Sau một vòng dạo đường sách, con đường nay được coi như bộ mặt văn hóa của thủ đô Sàigon, với nam thanh nữ tú, với du khách thanh lịch, với người có nhiều ái lực với văn chương… chúng tôi vào quán cà phê ngồi vừa nói chuyện về những quyển sách xưa nay mà cả hai cùng thích vừa ngắm hoạt cảnh sau cửa kiếng. Người chơi sách trẻ đi cùng chợt hỏi giọng rụt rè  ‘Bác có quen với nữ văn sĩ Nguyễn thị Hoàng không, cháu nghĩ là cô Hoàng đồng thời với bác’.
Câu hỏi làm quá khứ hiện về trong trí với khu Đại Học Văn Khoa chật hẹp ở góc đường Nguyễn Trung Trực và Gia Long một thời tuổi trẻ chúng tôi. Thời chưa có xuống đường ồ ạt của tuổi trẻ tự dấn thân hay bị giật dây, chưa có những biến động chánh trị thay chúa đổi ngôi như chong chóng, người sinh viên chúng tôi chăm chú vào việc trau dồi kiến thức để tạo lập hành trang cho chính mình trước khi thiệt sự bước chưn vào đời. Thời của những vô tư với tiếng súng đì đùng thiệt xa ngoài kia, mơ hồ sương khói. Thời người sinh viên chưa lo lắng về tấm Giấy Gọi Nhập Ngũ của Chuẩn Tướng Bùi Đình Đạm sau nầy khi chiến tranh đã lên cao điểm. Tôi trả lời thiệt tình:
‘Đồng thời thì đúng nhưng quen biết thân tình thì chưa được cơ duyên.’
Ánh mắt ngạc nhiên dò hỏi của người bạn trẻ chiếu thẳng lên tôi rồi quay qua chỗ khác liền. Anh có vẽ ngạc nhiên về lời thú nhận của tôi. Trầm ngâm một lúc hèn lâu tôi mới nói như tâm sự:
‘Nữ sĩ cùng trạng tuổi, cùng một lớp ở trường năm ấy nhưng lúc đó như có một sự cách biệt lớn giửa nhóm nam sinh viên ‘nhà quê’ chúng tôi với nhóm các cô ‘rất sang trọng’ ấy.’
Nói tới đây tôi chợt nhớ đến ba nhóm nữ sinh viên chơi thân với nhau, mỗi nhóm chiếm lĩnh một vị trí trong giảng đường 1  ngoài sau cầu thang, ngó qua khu đất trống sau nầy biến thành Thư Viện Quốc Gia mà nay là Thư Viện Tổng Hợp của thành phố Sàigòn. Thuở ấy, không biết từ bao giờ, chúng tôi có qui ước bất thành văn là hể có quyển tập, túi xách nào đặt lên bàn có nghĩa là ghế đó đã có người. Và không ai tranh cải dầu cho nhiều khi ghế xí phần đó không ai vào ngồi. Thông lệ mỗi nhóm nữ thường cắt ra hai cô đi rất sớm xí chỗ trước. Với ba nhóm của các cô, bọn nam sinh viên chúng tôi dầu đi sớm cách mấy cũng thường đành chịu ngồi phía sau. Xa thầy, giảng đường bao la, nghe bài giảng tiếng được tiếng mất cũng đành chịu, chẳng lẽ xen vào giửa những tà áo dài đầy màu sắc ấy. ‘Coi sao được’. Chúng tôi bảo với nhau như vậy và chấp nhận ngồi phía sau, bất lợi về mặt thâu lượm kiến thức nhưng được cái là có dịp chiêm ngưỡng những cái ót trắng đẹp, những lọn tóc lòa xòa cố ý, những mái tóc thề cắt ngang rất thẳng hay những tà áo hở chút vai gần cổ…. để trí tưởng tượng có dịp vân du phiêu bồng…
Tôi nói hơi chi tiết để người bạn trẻ hiểu:
‘Năm 1954, đất nước bị chia hai. Nỗi đau buồn vì vận nước ai cũng có, nhưng rồi chánh quyền trách nhiệm phần đất của mình phải bắt tay thực hiện những gì cần thiết để tạo thành một quốc gia. Trường Đại Học Văn Khoa trước đó Miền Nam chưa có, được thiết lập từ một bộ phận giáo sư ít ỏi bỏ Miền Bắc vào Nam. Sau một thời gian chấn chỉnh, khai giảng năm đầu tiên 1955-1956, với một vị Hán học thâm niên làm Khoa Trưởng. Mấy năm sau đó, vào niên học 1960-1961 mà chúng tôi hân hạnh tham dự, trường tương đối đã đi vào nền nếp với vài ba vị tiền bối được cấp văn bằng cử nhân là văn bằng cao nhứt lúc đó như Lữ Hồ Nguyễn Minh Hiền, Phạm Thế Ngũ, Lê Hữu Mục, Trịnh Văn Thanh ….và một người là Thích Nhất Hạnh sau nầy.
Giáo Sư Khoa Trưởng thời 1960 là cụ Nguyễn Huy Bảo, một người theo Tây học. Cụ không đồng ý loại bỏ hẵn ảnh hưởng của Pháp nên tổ chức năm thứ nhứt Văn Khoa gồm hai hệ: Dự bị Việt dành cho sinh viên học chương trình Việt dưới Trung học và Dự bị Pháp, dành cho sinh viên trước đây theo chương trình Pháp, gọi là lớp Propédeutique francaise. Nói thì nói vậy, nhưng ai muốn ghi danh hệ nào cũng được, tùy theo ý thích của mình. Năm thứ nhứt chia như thế nhưng sinh viên sau khi học xong thì theo hệ thống chứng chỉ, chọn những chứng chỉ nào mình nghĩ là phù hợp để hoàn tất văn bằng cử nhân sau bốn chứng chỉ. Lúc nầy hai hệ đã hòa lẫn nhau vì nhiều chứng chỉ có cả giáo sư Việt và Pháp, nhứt là các chứng chỉ thuộc nhóm Địa lý, Lịch sử và Triết học.
‘Hình như là cô Ngô Đình Lệ Thủy học Dự Bị Pháp năm đó. Bác có nhớ gì về cô ấy không?’
Tôi mơ màng, trầm ngâm khi nhớ đến sự bất hạnh cuối đời của người thiếu nữ duyên dáng nầy:
‘Lệ Thủy học Dự Bị nhưng sau nầy kìa, hình như là niên khóa 62-63. Vì có hai lớp Dự Bị nên các sinh viên gọi là cùng học năm thứ nhứt nhưng cách biệt lắm.  Dân Dư Bị Pháp hào hoa sang trọng, nói chuyện với nhau bằng tiếng Pháp lưu loát, giọng Pháp chuẩn vì họ học ngôn ngữ nầy từ nhỏ, sử dụng tiếng Pháp hằng ngày với dàn giáo sư hầu hết từ Pháp qua.  Họ ghi tên nhưng với tâm trạng tạm thời để chờ ngày đi du học Pháp, Anh. Dân Dự bị Việt thì nhà quê hơn, ít thời thượng và nói tiếng Việt. Tương lai của họ là ở trên đất nước nầy nhưng vì trở ngại ngôn ngữ nên các trào lưu văn học và triết học Âu Châu chỉ biết sơ sài. Tôi thuộc lớp nhà quê nầy mà là nhà quê bực hai vì mình ngố giửa đám đông các bạn thuộc gia đình tương đối giàu, ăn mặc đúng kiểu: Giày da bóng, quần jean bằng vải nhung mới, lúc đó chưa có mode xé rách đầu gối  hay cắt cụt tối đa như bây giờ, áo montegu mỗi ngày một màu trang nhã, sơ mi dài tay, manchette double có gài nút đắt tiền… Họ nói chuyện văn chương triết lý cao xa từ những quyển sách mới xuất bản, ít người biết, được gởi thẳng từ Pháp về qua nhà sách Việt Bằng ở đường Lê Lợi… Họ ăn uống ở nhà hàng Thanh Bạch, La Cave hay ngồi ghế cao cẳng trong khu cinéma Lê Lợi thưởng thức cà phê phin, ăn bánh mì chiên xịt maggi nhập cảng, hoặc cầm tay đào dạo  passage Eden, khu phố Charner (sau nầy là passage Tax), ngồi nhà hàng La Pagode, Givral, Pole Nord tán gẫu trong những giờ không có lớp…’
‘Và cô Ngô Đình Lệ Thủy?’
‘Đó là một cô gái tương đối đẹp. Nhu mì, mềm mỏng. Lúc nào cô cũng có ba bốn người hộ vệ, họ không dữ dằn hay vô phép gì nhưng luôn luôn ngó chừng với cặp mắt nhà nghề lưu ý ai đến quá gần ái nữ của ông cố vấn họ Ngô Đình. Thường bọn nhà quê chúng tôi kháo nhau hôm nay có Lệ Thủy đi học và đến nhìn. Bao giờ cô ấy bị ai đó nhìn nhiều thì  đềumỉm cười gật đầu chào thân thiện rất Tây phương để người đó biết ý mà tiến tới làm quen hay lãng xa.’
Người bạn trẻ ranh mãnh với nụ cười nửa miệng:
‘Bác có được chào thân thiện?’
‘Dĩ nhiên là có, vài ba lần vì tò mò, nhưng đến gần để làm quen thì không. Mình vốn nhát làm quen với bất kỳ ai, vả lại cũng sợ cô ấy xổ tiếng Tây mình ú ớ mặc dầu các bạn đều quả quyết rằng với người không quen cô ta đều nói tiếng Việt.’
‘Hai hệ thống giáo dục làm phân cách một thế hệ thanh niên cùng thời đại… !’ Người bạn trẻ của tôi trầm ngâm một lúc rồi đưa ra nhận xét.
‘Không ai muốn có hai hệ thống giáo dục trong một nước. Ngày đó có hiện tượng tréo ngoe nầy vì hệ thống giáo dục thời Pháp thuộc đương hiện diện cần thời gian để được thay thế sau khi nước nhà độc lập, thời gian đó chưa thực sự dứt điểm.’
‘Vậy mà bây giờ chúng ta đương có hai hệ thống!’ Tiếng người trẻ tuổi thoát ra mau như tên bắn nhưng với giọng buồn như tiếng than.
Tôi trầm ngâm một lúc lâu, uống nhiều hớp nước mới nhỏ nhẹ:
‘Do sự phân cách quá xa giửa các đại gia giàu xụ dính dáng đến chế độ và lớp dân đen cùng đinh nghèo khổ kiến từ ngàn, nuôi con  được đi học là may!’ Tôi lơ đảng ngó ra ngoài rồi chuyển hướng câu chuyện: ‘Hình như chúng ta đi lệch đề tài lúc ban đầu. Em hỏi về nữ văn sĩ Nguyễn Thị Hoàng?’
Người thanh nên gật đầu bẽn lẽn.
Tôi tiếp moi từ ký ức xa xôi của hơn nửa thế kỷ lâu ngày nằm yên trong não bộ.
‘Nếu Văn Khoa được nhắc đến nhiều vì có Ngô Đình Lệ Thủy sau nầy thì trước đó hai niên khóa đã có Nguyễn Thị Hoàng. Dĩ nhiên là trong cái nhìn chủ quan của tôi và vài ba người bạn tôi lúc đó. Chị ấy có cái đẹp mặn mà, sang trọng. Chúng tôi thấy nét quí phái của chị trong từng cử chỉ nghiêm trang hay trong nụ cười thân thiện. Cùng học một lớp nhưng hầu hết bọn tôi đều coi chị như một người đàn chị trong dáng đi điệu đứng hay cách nói chuyện với bạn bè nam cũng như nữ. Tất niên năm đó, nhớ không lầm, thì chị đứng lên ứng khẩu bài nói chuyện bằng tiếng Anh rất lưu loát. Giáo sư  Mc Kenzy, người Tân Tây Lan dạy môn Anh Văn cho năm Dự Bị Việt chúng tôi đã đeo theo nói chuyện với chị hàng giờ liền. Trong nhóm bạn của chị Hoàng có vài chị cũng đẹp và giỏi Anh ngữ, họ đối đáp với thầy mà tôi tưởng là họ thuộc nhóm theo hệ Dự Bị Anh. Các chị ấy hầu hết sau nầy đều tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm ban Anh văn hay cử nhân Anh văn dễ dàng. Có một chị rất thành đạt tôi gặp ở Houston, Texas. Mấy chị khác hầu hết lập gia đình với những người có chức phận nên ít xuất hiện, họ không trở thành người của đám đông.’
‘Thầy giáo nói chuyện quá lâu với sinh viên có bị tai tiếng cho hai phía như thời nay?’
‘Có bạn thời đó như anh Nguyễn Tăng  Uyên sau nầy dạy ở trường Sư Phạm Cộng Đồng Long An, quả quyết với tôi là GS. Mc Kenzy say mê một bóng hồng trong nhóm, tôi xin không nói ra là ai. Chuyện xa xưa rồi, xác nhận rõ ràng chẳng ích lợi gì.  Khoảng cách thầy trò chưa đầy 10 tuổi là yếu tố để gánh những tiếng xì xầm. Một người bạn khá thân của tôi lúc ấy là anh Trương Kim Chung (đã mất) lại quả quyết có chị Bích T. thích ông Mc Kenzy. Hai năm sau gặp lại, anh vẫn xác nhận điều đó, tuy rằng hai người trong cuộc chẳng tiến xa gì hơn, ông thầy Anh văn của chúng tôi về nước liền sau niên học ấy…’
Tôi thấy mình không nên đi quá chi tiết cá nhân:
‘Tại sao em hỏi về nhà văn Nguyễn Thị Hoàng?’
‘Em muốn xin vài chữ ký cho bộ sưu tập tác phẩm có chữ ký của những nhà văn tên tuổi Sàigòn độ trước. Chữ ký của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng rất khó tìm, kể cả sách từ trong tủ của cụ Vương Hồng Sển hay của GS Nguyễn văn Trung.’
‘Chị Hoàng rời trường sớm để trở thành một hiện tượng văn nghệ thời đó…’
‘Vòng Tay Học Trò đăng trong tạp chí Bách Khoa xôn xao một thời…’
‘Tôi nghĩ rằng nhà văn Nguyễn Thị Hoàng đã phát pháo cho phong trào các nhà văn nữ viết mạnh, dám nói những điều thầm kín mà các cây bút trẻ trước đây khi muốn viết cũng phải ngập ngừng. Những Trùng Dương, Nhã Ca, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Túy Hồng, Trần Thị NH., Âu thị Phục An và cả Lệ Hằng có thể nói là đã tin tưởng hơn những gì mình sắp viết sau khi Vòng Tay Học Trò ra đời.’
‘Ngay cả Chu Tử với những đề tài liên quan nhiều đến phụ nữ trẻ cũng là chịu ảnh hưởng xa gần của nhà văn Nguyễn thị Hoàng.’
‘Bác nghĩ sao về trường hợp Lê Xuyên với những nhân vật nhí nhảnh và nói năng liều mạng như Phấn và mấy cô gái khác trong những tác phẩm của ông (?)’
‘Nhà văn nam chịu ảnh hưởng cách khác, nhà văn nữ chịu ảnh hưởng cách khác. Nam chú trọng đến ‘hành vi buông thả’,  tới ‘lời nói bán trời’của các cô gái, nữ chú trọng đến ‘nội tâm’ của người hành động và ‘những biện minh cho hành động của mình’. Dầu thế nào đi nữa họ cũng cảm thấy sao sao ấy khi cho nhân vật mình có những hành vi đi quá hơn cái bình thường của thời đại.  Sao sao ấy là sự trói buộc, là những cấm kỵ theo quan niệm đạo đức của xã hội đương thời. Nhìn chung người phụ nữ trong văn chương thời thập niên 60 đã được cởi trói về mặt tính dục qua sự phát pháo của nữ sĩ họ Hoàng, dầu là còn giới hạn, chưa tung hê tất tật như Hồ Xuân Hương ngày trước hay như hai ba nhà văn nữ nổi tiếng viết bạo dơ dáy quá đáng ở hải ngoại hay trong nước gần đây.’
‘Chắc là những người nầy muốn đi đường tắt vào văn học.’
Tôi cười nói rằng em phê như vậy là quá đáng, khi phê bình không được hạ nhục người ta.
Người đối thoại trầm ngâm trong bối rối. Tôi hớp  từng ngụm nhỏ ly cà phê đen trước mặt, nhớ đến những vị thầy của thời xưa đã góp phần đào tạo trí thức cho chúng tôi. Cụ Sa Minh Tạ Thúc Khải  dạy Hán văn quá cao vì chú trọng đến nguyên nguyên cả bài thơ. Cha Larre, dạy Hán Văn quá thấp vì muốn cho học trò có căn bản ngay từ bước đầu, cụ Vương Hồng Sển suốt năm dạy không thấy có một chương trình cụ thể nhưng đã đem cho họ trò những kiến thức đặc biệt không dễ gì có. Tôi nghĩ đến cụ Sển mà ngờ ngợ, không nhớ rõ cụ dạy chúng tôi năm Dự Bị hay năm chứng chỉ Văn Chương Quốc Âm. Tôi cũng nhớ đến bà GS. Quách Thanh Tâm và phụ khảo Nguyễn Thị Bình Minh kẻ tung người hứng môn địa lý nhân văn rất khác lạ đem lại thích thú cho người học. Cụ Nguyễn Đăng Thục, thầy Nguyễn Khắc Hoạch đã giảng với sự sâu xa và đầy hứng thú đã mê hoặc một số sinh viên sau nầy đi vào con đường nghiên cứu của các thầy… Tất cả đều có thể đã quá vãng, sáu mươi năm học trò còn chịu không nổi cái búa của thời gian huống chi là thầy lớn hơn trò tròm trèm ba chục tuổi. ’
‘Bác có không vừa lòng ai trong số các Giáo Sư thời đó?’
‘Chúng tôi thời đó rất trọng thầy. Ai mình cũng thấy xứng đáng là nhà mô phạm, xứng đáng là người hướng dẫn tâm hồn. Cho tới bây giờ sự kính trọng đó vẫn còn, mặc dầu có trường hợp sau nầy chánh kiến khác nhau như vị thầy đã thoát ly theo MTGPMN hay vị thầy quá ủng hộ chế độ mới và nhận được nhiều ân sủng.  Chỉ có điều là sinh viên Văn Khoa là những người thích đọc sách. Trong hai năm chót của Trung học họ đã thủ đắc một số lớn kiến thức sách vỡ, trong năm Dự Bị họ lại có thời giờ nghiền ngẫm một số lớn tác phẩm danh tiếng đương thời nên nếu vị giáo sư nào ít chuẩn bị bài dạy hay chỉ lập lại theo sách xưa mà không có ý kiến  gì đặc biệt hoặc vô lớp chỉ đọc bài, không giảng thêm, thường bị sinh viên có cái nhìn hơi khang khác, khang khác nhưng không có nghĩa là không kính trọng.
Lớp tôi thời đó, sau nầy vài ba năm nổi về mặt truyện ngắn truyện dài thì có Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Xuân Hoàng, Huỳnh Phan Anh.. là những người tôi biết, về mặt thi ca thì là các nhà thơ Tạ Ký, Hữu Phương, Hải Phương, Trần Văn Nam…. Những người thành danh trên đường nghiên cứu nhận định thì có Đặng Tiến, Bửu Ý bên Dự Bị Pháp, Nguyễn Thiên Thụ, Trần Nhựt Tân bên Dự Bị Việt. Đó là chưa kể hơn 80% sinh viên năm đó sau nầy trở thành những nhà giáo, có người rất nổi tiếng dạy hay dạy giỏi kể không thể hết. Điều đó cho em thấy nền giáo dục trưóc đây đã đào tạo ra rất nhiều những con người có năng lực đích thực.
Người trẻ trước mặt lại hỏi bằng mắt kèm theo nụ cười hóm hỉnh. Tôi làm như không biết, chuyển đề tài:
‘ Tôi muốn hỏi em: Với kinh nghiệm của  người sưu tầm sách, em thấy sách của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng có giá trị không và tại sao?’
‘Sách của cô ấy được giới sưu tập ưa chuộng vì trình bày đẹp, văn vừa quá mượt mà lãng mạn vừa mang khí vị trí thức, hai điều dường như khó tương hợp.’
Tôi trầm ngâm. Tài là ở chỗ đó. Mượt mà đến mê hoặc. Trí thức tới đáng ngưỡng mộ. Khi tác phẩm của chị tràn ngập thị trường, mặc dầu đã tốt nghiệp cử nhân, tôi đọc vẫn thích thú vì mình học hỏi được nhiều điều về nội tâm bí ẩn và phức tạp của người phụ nữ. Đọc văn chị tôi thấy tâm hồn mình mới ra. Những truyện ngắn viết nhân chuyến đi Nhật Bản của chị có thể coi như những tùy bút tuyệt vời. Tôi thật sự bị cuốn hút trong vòng tay ma mị đó, theo tôi Nguyễn thị Hoàng là một hiện tượng độc đáo của văn học Miền Nam thập niên 60.’
Tôi gật đầu xác định khi thấy người bạn trẻ thích thú về nhận định của chính mình:
‘Nhà văn không phải  muốn tạo nên dấu ấn của thời đại mà được. Dấu ấn đó được tạo thành bằng bản sắc cộng với những suy nghĩ đi trước thời đại và được thực hiện bằng quyết tâm chắc nịch.’
Bên ngoài nhà hàng, Đường Sách càng lúc càng vui. Nhiều người xoãi chưn, dang tay chụp ảnh. Nhiều phụ nữ áo quần thời thượng đang tạo dáng đứng ngồi, tạo nụ cười tươi mát huyền hoặc trước máy ảnh. Quày sách bên kia đường hình như có chuyện xin chữ ký khi vài ba khách bước ra tươi cười coi tới coi lui trang đầu một quyển sách cầm tay.
Tôi bỗng có ý ước ao được nói chuyện mặt đối mặt với người học cùng thời với mình cách nay hơn nửa thế kỷ khi thấy rằng lớp trẻ bây giờ dầu hoàn cảnh xã hội đã khác xa với sáu mươi năm trước vẫn có  cái nhìn công bằng về toàn bộ tác phẩm của chị. Móc điện thoại ra gọi con số mà một người quen đã trao cho, tôi chờ nghe tiếng chuông reo trong hồi hộp. Thời gian và không gian tạo sự phân cách chăng? Con số lạ sẽ làm chị e dè không bắt máy?
Và tôi rất vui mừng khi nghe giọng nói thân thiện của chị, cái giọng Huế pha Nha Trang dịu dàng như hồi nào dầu tôi chưa sử dụng tới lá bùa là người bạn học cùng thời, nhưng câu chuyện về một thời Văn Khoa xưa cũ từ mấy mươi năm trước thì cứ như mạch trào giữa hai người bạn đã từng tắm chung một dòng sông tuổi trẻ, từng loanh quanh giữa sân trường Đại học hồi nửa thế kỷ qua mà họ chưa bao giờ được dịp đối thoại nhau, dù chỉ một lần.
Gát máy lâu rồi tôi vẫn còn thấy ấm bàn tay, lại thêm một yếu tố đáng cho ta mến mộ, nhà văn nữ có chơn tài nầy qua bao nhiêu bầm dập do bất công của đời và dư luận rỗi hơi vẫn không đánh ngã được chị, ít ra khi nhắc đến Nguyễn Thị Hoàng trong dòng văn học thời đó, người ta vẫn còn nhớ đến người phụ nữ mảnh mai như liễu rũ mà không yếu đuối ngã rạp trong sóng gió cuộc đời.  


Nguyễn Văn Sâm
(Sàigòn 03, 2018)


Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...(MX Tô Văn Cấp)

Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ... Muộn Vẫn Phải Nói...

MX Tô Văn Cấp

Tô Văn Cấp ĐĐ1/TĐ2.
Lời nói đầu: Nếu các binh chủng bạn có những tiểu đoàn nổi tiếng như Sấu Thần, Cọp Ba Đầu Rằn, Song Kiếm Trấn Ải v.v.. thì Binh Chủng Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) chúng tôi cũng có những tiểu đoàn nổi tiếng, một trong những đơn vị đó là Trâu Điên, tức Tiểu Đoàn 2/TQLC. Trong bài viết này tôi xin dùng danh xưng “Trâu Điên”, và các Tiểu Đoàn Trưởng là “Trâu Điên Trưởng”.
Xin chân thành cám ơn Trâu Điên Trưởng Đồ Sơn và cố vấn trưởng Trâu Điên John Sheehan đã cung cấp thêm tài liệu để tôi viết bài này.
***
Tháng 8/2012 tôi được đi du lịch 7 ngày đến miền Đông-Bắc Mỹ như Philadelphia, NewYork, Washington D.C và Canada, tôi thấy vui khi được chạm tay vào quả chuông Độc Lập, thăm tượng Nữ Thần Tự Do, thác Niagara, Ground Zero, đài tưởng niệm các Tổng Thống Hoa Kỳ v.v...nhưng khi đứng trước bức tường đá đen, nhìn thấy hình mình in trên vách đá, “nằm” chung với tên của 58,772 quân nhân Hoa Kỳ đã hy sinh và mất tích (MIA) trên chiến trường Việt Nam, lòng tôi bâng khuâng và tự hỏi tại sao mình còn sống và đứng đây, nhận Hoa Kỳ là quê hương thứ hai trong khi 1,200 MIA còn ở lại VN, thân xác họ bị chôn vùi ở những nơi xưa kia là chiến trường khốc liệt như Cồn Tiên, Ia Drang, Cầu Khởi, Bời Lời hay trong ngục tù CS.
Nhìn lên bức tường đá đen, bất ngờ tôi thấy tên White, tôi tự hỏi đây có phải là cố vấn (CV) White đi với tôi trong trận Bời Lời (Tây Ninh) ngày 16/9/1968 hay không? Trận đó tôi chỉ biết là khi vừa đụng địch, White ngã xuống, bất tỉnh và được trực thăng tản thương ngay.
Tôi thấy tên Joe, có phải đây là CV Joe bị thả lầm vào tuyến VC, bị bắn vào nách xuyên qua vai trong trận Bời Lời 16/9 mà đã được đại đội tôi cứu về và tải thương hay không?
Tôi đọc được tên Jack, có thể là CV mà Trâu Điên Trưởng Nguyễn Xuân Phúc cho đi với tôi trong trận kinh Cán Gáo tỉnh Chương Thiện ngày 19/6/69, ngày đó, Jack và tôi cùng bị thương nặng, tôi gẫy chân tay, “trào máu họng”, còn Jack bị bay mất một cánh tay.
Những cố vấn đi với tôi chỉ trong một thời gian rất ngắn, có khi vài giờ rồi bị thương, được tải thương nên tôi không nhớ chính xác tên và cũng không rõ tình trạng của họ sau đó ra sao, lành dữ thế nào. Dù Mr White, Mr Joe, Mr Jack có là cố vấn hay không thì những cái danh ấy trên bức tường đá đen này vẫn là những người bạn đồng minh anh hùng đã chiến đấu để bảo vệ VN Tự Do, họ đã “nằm” xuống, còn tôi, người Việt Nam tỵ nạn thì lại được đứng đây, ngay Thủ Đô Hoa Kỳ. Nghĩ đến White, đến Joe, Jack, tôi đưa tay quẹt ngang mắt, đứng nghiêm đưa tay chào các ông và các anh hùng trên bức tường đá đen.
Hướng dẫn viên du lịch đưa chúng tôi đến đây để thăm một di tích lịch sử Hoa Kỳ gắn liền với chiến tranh VN, với người Mỹ gốc Việt Nam, không phải viếng một nghĩa trang nên tôi không có nhang để thắp, không có hoa để tặng các ông.
Trong các buổi lễ quan trọng của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, sau nghi thức chào Quốc Kỳ VN và Hoa Kỳ là “Một Phút Mặc Niệm” để tưởng nhớ đến quân dân cán chính VNCH đã hy sinh... để tưởng nhớ đến hơn 58 ngàn quân nhân Hoa Kỳ đã chiến đấu và hy sinh để bảo vệ miền Nam VN Tự Do v.v..., đó là một phút để tưởng nhớ và vinh danh chung, nhưng sau khi viếng bức tường đá đen, chào từ giã White, Joe, Jack, tôi nghĩ mình sẽ phải viết về những vị cố vấn đã đi hành quân với “Trâu Điên”, nhất là những CV đã đi với ĐĐ1/TĐ2, họ đã bị thương, đã hy sinh cách nay mấy chục năm, phải viết như nói lời cám ơn, dù muộn vẫn phải nói.
Sau khi thăm bức tường đá đen, vì trình độ computer và tiếng Mỹ của tôi ở dạng ABC nên tôi đã nhờ Quốc Việt, chuyên viên điện toán, vào các Web của USMC, Web đài tưởng niệm ở Washington DC, Web nghĩa trang Arlington và Web của các cựu QN/TQLC Mỹ đã tham chiến tại VN để tìm tên các CV cũ, và tình trạng “sức khỏe” của họ, nhưng chỉ tìm được tên 5 cố vấn Mỹ bị tử thương khi đi hành quân với TQLC/VN, không thấy tên các cố vấn mà tôi muốn biết, như vậy có lẽ họ đều bình an nên tôi ngưng tìm.
Năm 2014, Tổng Hội Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (TQLC/VN) thực hiện cuốn Quân Sử (QS), cần tài liệu chính xác cho các bài viết nên tôi đã liên lạc được với cấp chỉ huy cũ của tôi là Trâu Điên Trưởng Trung Tá Ngô Văn Định (Đồ Sơn), và Cố Vấn, Đại Úy John Sheehan, là hai người biết rõ những gì đã xảy ra với đại đội của tôi trong các cuộc hành quân.
Trước khi nói về những việc mà Đồ Sơn và John Sheehan giúp tôi tìm được tin tức các cựu CV đã cùng tôi chiến đấu bên nhau, tôi xin nói qua về nhiệm vụ của CV và mối thân tình của các CV với Trâu Điên nói chung, của John Sheehan với Đồ Sơn nói riêng.
Tôi không rõ hệ thống cố vấn (CV) và nhiệm vụ của họ ở các đơn vị bạn, nhưng với Binh Chủng TQLC/VN thì mỗi khi một tiểu đoàn đi hành quân thì sẽ được tăng phái 2 CV Mỹ, một CV đi với tiểu đoàn trưởng (cánh A), một CV đi với tiểu đoàn phó (cánh B). Cấp đại đội thì không có CV đi theo, trừ khi đại đội đó đi riêng với nhiệm vụ đặc biệt.
Nhiệm vụ của CV Mỹ khi đi hành quân với tiểu đoàn TQLC/VN là liên lạc với các trực thăng Mỹ để xin tản thương, tiếp tế, quan trọng nhất là khi tiểu đoàn đụng trận thì liên lạc và phối hợp với hệ thống CV Mỹ để xin yểm trợ hỏa lực Pháo Binh, Không Quân Mỹ. CV chỉ có nhiệm vụ theo dõi diễn tiến hành quân, báo cáo và xin yểm trợ hỏa lực, đôi khi góp ý, nhưng không đi vào chi tiết kế hoạch hành quân của đơn vị trưởng. Các CV luôn có sổ tay ghi chép mọi diễn biến trong ngày, như một cuốn nhật ký hành quân để xác định trách nhiệm rõ ràng và đó chính là những tài liệu quý giá chính xác về sau này.
Cũng xin nói thêm là khi đi hành quân, CV tự túc mang theo lương thực và vật dụng cá nhân, tiểu đoàn chỉ cung cấp người mang máy truyền tin cho họ mà thôi. Khi chấm dứt hành quân thì nhiệm vụ của CV cũng hết và họ trở về nơi cư trú riêng. Nhưng vì TQLCVN là đơn vị tổng trừ bị, đi hành quân liên tục, dài ngày khắp 4 vùng chiến thuật nên các CV Mỹ gần như là quân số cơ hữu của tiểu đoàn, Việt-Mỹ thân thiện và sống chết bên nhau. Mặc dầu được luân phiên thay đổi về nghỉ nhưng có nhiều CV vẫn muốn đi với TQLC. Có CV đã trở về Mỹ sau khi hết nhiệm kỳ, nhưng rồi “nhớ rừng” họ lại xin quay trở lại với TQLC/VN. Đại Úy CV Campbell là một trong những người đó.
Thomas Campbell là CV cho Trâu Điên Trưởng Lê Hằng Minh, trong trận Phong Điền, Huế, ngày 29/6/1966, Trung Tá Lê Hằng Minh tử trận thì CV Campbell cũng bị thương, người mang máy cho ông tử trận nhưng ông ta không xin tải thương mà ở lại tiếp tục chiến đấu.
Sau khi Tr/Tá Lê Hằng Minh tử trận, Thomas Campbell xin tiếp tục ở lại và làm cố vấn cho Trâu Điên Trưởng Ngô Văn Định (Đồ Sơn) thêm 3 nhiệm kỳ nữa cho tới Mậu Thân 1968 thì Campbell về Mỹ dạy môn lãnh đạo và chỉ huy tại Đại Học Austin Texas và viết sách. Trong tựa đề một cuốn sách, Đại Tá hồi hưu Thomas Campbell đã viết như sau:
***
Preface
_ Long ago, I was young and full of passion for adventure, glory, excitement and faraway places. I satisfied those powerful yearnings tenfold over in the U.S Marines.
The greatest of all those adventures began in November 1965 when I was assigned as an advisor to the Vietnamese Marines. I thought that I would make them better Marines, but in the final analysis they made me a better Marine. I learned things from them that are not taught in American military schools. My best teachers were Major Le Hang Minh, Major Nguyen The Luong, Major Dinh Van Ngo, Captain Nguyen Xuan Phuc and Minh’s ever faithful bodyguard.
This is the story and the lessons.
Co van My
Tom Campbell
Austin, Texas.
***.
Năm 1968, sau khi Thomas Campbell rời Trâu Điên về Mỹ thì Đại Úy John Sheehan đến thay thế Thomas làm cố vấn trưởng, và cố vấn phó là Trung Úy Carl White. CV John Sheehan làm việc với Trâu Điên Trưởng Ngô Văn Định suốt thời gian Tết Mậu Thân tới trận Cầu Khởi và Bời Lời cho tới ngày 6 tháng 1/1969 thì Trung Tá Ngô Văn Định vả Đại Úy Sheehan cùng bị thương trong trận U Minh. Sau đó thì cả hai ông cùng rời Trâu Điên, Trung Tá Định lên làm Đại Tá Lữ Đoàn Trưởng TQLC, còn Đại Úy Sheehan thì về Mỹ, tiếp tục trong quân đội, chức vụ sau cùng của John Sheehan là Đại Tướng 4 sao, Tư Lệnh NATO, rồi hồi hưu năm 1997.
(“General Sheehan retired from the Marine Corps on September 24, 1997 and, a year later, joined Bechtel International, the 5th-largest privately owned company in the U.S., as a Senior Vice President.”).
                          

                           (Hình)    Đại Tá Ngô Văn Định                       (Hình)      Đại Tướng John Sheehan

Ngày 6/1/1969, Đồ Sơn bị thương khá nặng vì đạn B40 nên Sheehan cấp tốc tải thương Trâu Điên ra tàu bệnh viện HQ Mỹ, ở đó Đồ Sơn được cứu sống, nếu như...! Còn CV Sheehan bị nhẹ nên ông ta không tản thương. Khi về Mỹ, Sheehan đã mang cái đuôi đạn B40 (RPG) về để làm kỷ niệm. Sau 30/4/75, khi liên lạc được với Trâu Điên Ngô Văn Định thì Gen Sheehan đã gửi trả lại cái đuôi đạn B40 ấy cho Đồ Sơn để làm kỷ niệm. Ông Sheehan viết:

(RPG.Đuôi đạn B40, kỷ vật của Gen USMC Sheehan )
Col Dinh,
This RPG belong to you. You fought well and were good leader.
I could not have a better friend to fight alongside.
The RPG is a little dirty but it looks better than it did at 01:30 on January 6th, 1969.
God Bless and Semper Fi!
Jack Sheehan
Gen USMC
Đi Tìm Cố Vấn Cố Nhân.
Như tôi đã viết ở trên, cấp đại đội không có CV đi theo, trừ khi đi riêng một mình với nhiệm vụ đặc biệt, tôi là đại đội trưởng thường được Đồ Sơn cho cố vấn đi theo, rồi các CV này ra đi hoặc bị thương, thời gian chưa đủ để “tôi nhớ tên anh, tôi viết tên anh trên đá trên hoa..”. Nay, sau khi thấy những tên tương tự trên Bức Tường Đá Đen, tôi nhờ Đồ Sơn và ông John Sheehan tìm họ và chuyển dùm tới họ lời hỏi thăm cám ơn của chúng tôi.
1. Người đầu tiên tôi muốn hỏi thăm là Thomas Campbell.
Tom (Thomas) là CV trưởng của Trâu Điên Lê Hằng Minh (1966), còn tôi chỉ là trung đội trưởng nên không có gì liên quan đến công việc, còn giao tiếp thì lại càng không, dù họ rất lịch sự, vì vốn liếng tiếng Anh của tôi không đủ để tâm tình mà chỉ có danh từ Việt-Mỹ pha lẫn nhau trong lúc cần thiết khi đụng trận, thí dụ như nói CV gọi “phở bắc”, “gà cồ”, tức là xin pháo binh CV hiểu liền, báo có “ký-lô” (killed: chết), whiskey (wounded: bị thương) để CV gọi trực thăng tải thương. CV xin trực thăng Mỹ tải thương và yểm trợ thì lúc nào được đáp ứng nhanh chóng. Chiến trường, mỗi khắc giá đáng ngàn vàng đó quý vị ơi.
Nói đến ngôn ngữ Việt-Mỹ khi đụng trận thì tôi nhớ đến Trâu Điên Nguyễn Xuân Phúc, trong lúc khẩn cấp tại trận Hạ Lào, TQLC và VC trộn với nhau, vì an ninh quân bạn, phi công Mỹ chưa thả bom nên Robert Lửa Phúc yêu cầu:
- I'm Crazy Buffalo Battalion commander! Please give me all you have at xxx (tọa độ).
Phi công còn chần chừ thì anh Phúc hét vào máy:
-Oh my God! Trời ơi! I'm ground commander. Go ahead, do it, please!
Tôi nhờ Đồ Sơn và Sheehan hỏi thăm Thomas là vì trong trận Trâu Điên bị phục kích tại cây số 17 QL1 (Phong Điền), Trâu Điên Lê Hằng Minh tử trận, Thomas bị thương, anh Phúc, Hợp và tôi bị thương, nhưng Thomas, Hợp và tôi không xin tải thương mà tiếp tục ở lại chiến đấu, nhìn nhau với vết thương thấm máu, mỉm cười rồi mời nhau điếu thuốc, chỉ có thế thôi.
Sau vài ngày hỏi thăm vể Thomas Campbell thì tôi nhận được email của Đồ Sơn báo cho biết đã có thư của Gen Sheehan, ông ấy viết như sau:
***
Col. Dinh; as you know Tom Campbell was one of my closest friends. I was in Houston when he was undergoing cancer treatment at MD Anderson Hospital. He always spoke with tremendous pride about his time with you and the Trau Dien Bn. I think he was responsible for convincing me to request an assignment with the VNMC when I returned to Vietnam.
I will always treasure our relationship and as well as my relationship with Carl. Difficult times make friendship stronger and special.
As a matter of historical correctness, I appreciate the promotion to Major; but I was a Captain my entire tour with the VNMC. The USMC was slow on promotions--probably about the same as the VNMC.
Thank you for your kind words and dedication to those Marines both US and Vietnamese you are remembering.
Trau Dien.
LN 2
***
Ông Gen Sheehan đã ký tên là ...Trau Dien LN2 mà không là Gen USMC như trước nữa, LN2 tức là Leatherneck 2, là ám danh truyền tin của Cố Vấn Tiểu Đoàn 2 Trâu Điên.
Thật là vui với kỷ niệm “đơn vị cũ, chiến trường xưa”, ý của một Gen USMC muốn nhận ông là Trau Dien, muốn trở lại với Trâu Điên để cùng chiến đấu bên nhau, bảo vệ VN Tự Do, nên tôi sẽ tôn trọng nguyện vọng của Gen John Sheehan, từ đây, mỗi khi nhắc tới Gen Sheehan thì tôi sẽ chỉ viết ngắn gọn là LN2.
Không chỉ Gen Sheehan, mà còn một Gen USMC khác nữa, cũng là cố vấn Trâu Điên, năm 2008 ông đã đến thăm Tiểu Đoàn Trưởng và các Đại Đội Trưởng Trâu Điên tại Little Saigon, đó là Gen Hoar. Năm 1966, Trung úy Joseph Hoar là CV Trâu Điên ở Cồn Tiên và sau đó là các tiểu đoàn TQLC khác nữa.
                      
        (Hình)    Trâu Điên Cương, Phán, Cấp, Hoar, Đồ Sơn, Dzoan, Cự         (Hình) Gen Joseph Hoar   

Chẳng phải vì “thấy sang bắt quàng làm họ” mà tôi đưa hình hai vị tướng 4 sao vào bài viết này, mà chính quý vị ấy đã nhận mình là “Trau Dien” và đến với chúng tôi như những “đồng đội” gần nửa thế kỷ về trước, dù ngày nay chúng tôi là những quân nhân bị “gẫy súng”. Quý vị ấy đã đến với chúng tôi như nước Mỹ đã mở rộng vòng tay đón chúng tôi. Đó cũng là lý do tôi chọn tựa đề cho bài viết này là “Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ, dù muộn nhưng vẫn phải nói”, nói để cám ơn quý vị đã anh dũng chiến đấu và hy sinh bên cạnh Trâu Điên nói riêng và Binh Chủng TQLCVN nói chung. Đã có tới 5 vị Cố Vấn hy sinh bên cạnh các tử sĩ TQLC/VN và hầu như CV nào cũng bị thương. Bây giờ tôi xin tiếp tục hỏi thăm tin tức về các CV khác:
2. Các cố vấn tử thương và bị thương trong trận Cầu Khởi là ai?
Sau gần 9 tháng hành quân Mậu Thân ở Saigòn, khi tình hình ở Thủ Đô đã trở lại thanh bình thì tháng 9/68, Chiến Đoàn B/TQLC, trong đó có Trâu Điên, được tăng phái cho Nhẩy Dù, dưới quyền chỉ huy tổng quát của Tướng Dư Quốc Đống, để lùng và diệt địch vùng Khiêm Hanh và Bời Lời, Tây Ninh, nơi Tiểu Đoàn 14D Chủ Lực và Trung Đoàn 33 VC đang lẩn trốn.
Sáng 14/9/68, từ quận Khiêm Hanh, Đồ Sơn cho lệnh đại đội tôi nhẩy trực thăng “diều hâu” vào mục tiêu Cầu Khởi, để tìm TĐ14D, nếu đụng địch thì Tiểu Đoàn sẽ vào tiếp viện và tiêu diệt địch. Vì đại đội tôi đi riêng nên có một cố vấn đi theo.
Khi đại đội tôi vừa nhẩy trực thăng xuống mục tiêu Cầu Khởi thì bị địch bao vây và tấn công ngay, nhờ kế hoạch hành quân đúng và có CV đi theo nên đã kịp thời liên lạc với hệ thống CV Mỹ xin yểm trợ Pháo Binh, máy bay B57 và trực thăng võ trang Cobras can thiệp kịp thời. Chúng tôi đứng vững để tiểu đoàn nhẩy vào diệt và mọi diễn biến đã đúng như tiên liệu, Trâu Điên hoàn thành nhiệm vụ.
Điều không may là đang lúc sôi động thì CV bị trúng đạn, ông ta được tải thương và 1 đại úy cố vấn khác xuống thay thế, nhưng đến 11 giờ đêm, khi đang điều động trực thăng tải thương các thương binh TQLC thì đại úy CV này lại bị thương nữa nên đã được phi hành đoàn trực thăng mang đi luôn. Cả 2 CV đến với tôi quá nhanh và đi cũng nhanh nên tôi không nhớ rõ tên, hơn 40 năm sau, nay tôi nhờ Đồ Sơn và LN2 tìm tung tích của họ để gửi lời cám ơn. Vài ngày sau tôi nhận được email của Đồ Sơn với nội dung đại ý như sau:
***
_ “ Hi Cấp. Theo tài liệu của Gen Sheehan tìm được thì cố vấn đi với ĐĐ1 của Cấp nhẩy vào Cầu Khởi ngày 14/9/68 là SFC Charles James Moore thuộc Airborne Ranger, Ông Moore tình nguyện nên Đại Úy John Sheehan cố vấn trưởng TĐ2 đồng ý cho đi. Sau đó thì Moore bị pháo kích rồi tải thương, nhưng Moore đã chết trên đường tải thương lúc 4 giờ chiều. Còn Đại Uý thuộc Airborne Ranger đến thay Moore rồi cũng bị thương lúc 11 giờ đêm, được phi hành đoàn trực thăng tải thương luôn với thương binh TQLC thì chưa tìm ra danh tánh, sẽ trả lời sau”.
***
Như vậy là tôi đã rõ số phận của 2 vị CV đánh trận Cầu Khởi ngày 14/9 với chúng tôi. Đại đội tôi chỉ chọn có 90 người cho nhiệm vụ này và đã bị TĐ14D VC bao vây, trận chiến kéo dài một ngày một đêm, nhưng chúng tôi vẫn đứng vững, vì nhờ có các CV đã hết lòng kêu gọi hỏa lực PB và KQ yểm trợ. Dù Trâu Điên đã diệt được TĐ14D, nhưng chúng tôi rất buồn khi một CV tử thương, một bị thương chưa tìm ra danh tánh. Chúng tôi xin chân thành chia buồn cùng gia đình các vị CV này. CV đã giúp chúng tôi chiến thắng trong tình thế “chỉ mành treo chuông” rồi các CV ra đi, còn chúng tôi thì đến, đến định cư ngay trên quê hương của các ông.
3. Những Cố Vấn Trận Bời Lời?
Ngày 14/9/68 tôi đụng trận Cầu Khởi thì ngày 16/9/68, Đại Đội 1 của tôi và ĐĐ3 của Đ/Úy Trần Văn Thương lại nhẩy trực thăng vào mục tiêu mật khu Bời Lời, để chụp 50 VC mà máy bay quan sát L19 phát giác ra chúng đang dừng quân tại đây.
Vì 2 đại đội đi riêng, coi như cánh B, Tiểu Đoàn Phó là Đại Úy Nguyễn Kim Đễ đi học, nên cố vấn phó là Đại Úy Carl White đi với tôi. Khi 2 đại đội vừa nhẩy khỏi trực thăng xuống mục tiêu là đụng liền (máy bay quan sát L19 cho tin rất đúng, nhưng chưa chính xác, vì không phải chỉ có 50 VC, mà là 3 tiểu đoàn VC thuộc Trung Đoàn 33 đang ém quân tại đây, vì có nhiều súng phòng không, tài liệu và vũ khí tịch thu được, cùng lời khai của tù binh).
Sau khi xung phong vào mục tiêu thì cố vấn Carl White ngã xuống, nhắm mắt, mặt trắng bệch, tôi không rõ ông bị thương ở đâu, nhưng thấy tình trạng nguy hiểm nên xin tải thương cho ông ta ngay và một cố vấn khác được thả xuống thay thế.
Trước khi nói tiếp diễn tiến cuộc đụng độ thì tôi xin mở ngoặc ở đây để nói về cố vấn phó TĐ2/TQLC là Carl White.
Trong trận Mậu Thân ở Saigòn trước đó, khi đại đội tôi tiến quân trên đường Hậu Giang, để đến giải tỏa khu vực cư xá Phú Lâm thì Carl White bị “sniper” VC cho một viên vào trán, viên đạn xuyên qua nón sắt, vì đã chui qua cuộn băng cứu thương cá nhân gài trên nón sắt nên yếu đà và bị nón nhựa giữ lại, chỉ đủ sức chạm vào và để lại cục u tụ máu trên trán White. Sau trận này thì Carl White được thăng đại úy.
(hình chụp Carl White ngay tại Chợ Lớn, trên trán còn cục u, cạnh đó là “nhà bán”).
LN2 trả lời cho Đồ Sơn về Carl White, theo tài liệu mật vừa được giải mà thì nguyên văn như sau:
_ “at 1555H Capt White was Medivac for Heat Prostration by the 2nd Bn C and C heliopter.”
Như vậy Capt White đã được trực thăng C&C của Đồ Sơn và Sheehan bốc đi bình an, không phải là White mà tôi đọc được trên bức tường đá đen, xin chúc mừng ông. Tôi còn được biết thêm, với kỷ niệm hòn bi ở trán, sau này Carl White đã viết cuốn hồi ký về Trâu Điên và Mậu Thân, xin trích:
***
TRÂU ĐIÊN!
Crazy Buffaloes In Cholon Gap.
(by Major Carl White, United States Marine Corps (Retired).
After massive Viet Cong and North Vietnam¬ese Army forces launched their Tet Offensive against South Vietnam in the last hours of January 1968, the South Vietnamese Marine Brigade’s 2nd Rifle Battalion was among the units distinguising themselves in the successful defense of Saigon.
One of six battalions in the brigade, the 2nd Battalion was commanded by a battle-hardened veteran of nearly 13 years of combat, Major Ngô Văn Định. A national hero, he had been decorated for gallantry many times, wounded seriously four times, and regarded among the military leadership of South Vietnam and the U.S. Marine advisors who had served with him as a courageous and exceptionally skilled battlefield commander.
His battalion was one of the most highly acclaimed military units in the country from any nation well known throughout South Vietnam. In 1966, U.S. President Lyndon B. Johnson had awarded it the Presidential Unit Citation for heroism in the Battle of Phung Du. The battalion was the first in the Vietnamese Marine Brigade to receive that highest of U.S. unit awards.
***
Cố vấn phó Carl White được bốc đi thì có CV khác đến thay thế. Sau khi nhận lệnh Đồ Sơn, tôi thả trái khói màu vàng đánh dấu bãi đáp cho trực thăng thả CV xuống, nhưng đến khi nghe Đồ Sơn nói CV đã xuống rồi, Cần Thơ (danh hiệu của tôi) đã gặp CV chưa?
_Chưa thấy! Lạ quá!
Tôi cho lùng sục xung quanh thì phát giác cách chỗ tôi chừng 100m, khu vực tuyến VC, cũng có khói màu vàng đang bốc lên. Tôi “tá hỏa tam tinh” vội báo cho Đồ Sơn biết và xin ông xác nhận điểm thả CV. Ngay lúc đó, đang bay C&C, Đồ Sơn cũng nhận ra dưới đất có 2 vị trí khói vàng và ông cho biết CV đã bị thả xuống vị trí trước tuyến VC rồi!
Khi phát giác sự nhầm lẫn tai hại này thì Đồ Sơn cùng Chiến Đoàn Trưởng Tôn Thất Soạn và cả hệ thống cố vấn yêu cầu (ra lệnh) tôi cho người đi cứu cố vấn ngay!
Thật là rắc rối, chúng tôi đang đụng, VC đang bao vây, giằng co nhau chiếm từng gốc cây, bụi tre gai, súng phòng không rất mạnh khiến trực thăng khó khăn vào vùng yểm trợ, làm cách nào tiến gần 100m đến trái khói vàng kia? Hơn nữa, chưa biết CV ở vị trí nào, sống chết ra sao, một nhiệm vụ “vô kế khả thi”.
Tôi đã nhận lệnh của cấp trên đi tìm và cứu CV ngay, nhưng tôi cũng nhận ra hàm ý của lời căn dặn thêm là phải hết sức cẩn thận kẻo ...“Bắc-Bình, Gay-Go”.
“Bắc-Bình Gay-Go” có nghĩa là “B.G”, là Bình Giả, những gì xẩy ra tại trận Bình Giả, Phước Tuy, ngày 31/12/1964 chúng tôi hiểu cả rồi, chỉ vì thượng cấp QĐ “ở trên trời” ra lệnh “bằng mọi giá” cho TĐ4/TQLC đi tìm xác phi cơ, phi công! Rồi cái giá phải trả là TĐ4 hy sinh thêm hằng trăm sinh mạng khác. Nay tôi phục cấp chỉ huy của tôi đã sáng suốt, dày đạn kinh nghiệm chiến trường, ông hiểu khả năng của thuộc cấp nên ra lệnh cho tôi cẩn thận, tùy cơ ứng biến, nhưng tôi chưa biết “biến” bằng cách nào, trong khi mỗi giây phút chậm trễ là rất nguy hiểm cho cố vấn và chính chúng tôi. Thiếu CV và CV đang trong tình trạng sinh tử này thì chúng tôi sẽ khó mà có yểm trợ hỏa lực từ phía HK.
Tôi nhớ mãi trong cuộc hành quân giải tỏa đồn Đức Cơ năm 1965, các phi cơ đang quần thảo trút bom đạn xuống mục tiêu thì một “thần sấm” trúng phòng không, phi cơ chúi xuống rồi nổ còn phi công bay ra, cánh dù lơ lửng bay theo chiều gió đưa phi công về phía địch, biên giới Việt Miên, lập tức các phi cơ bỏ mục tiêu mà bay vòng tròn quanh cánh dù, các trực thăng cũng bay theo và bắn xuống đất nơi mà dù lơ lửng bay ở trên cao... tôi không rõ số phận phi công đó.
Một điều đáng quan tâm nữa liên quan tới vụ trực thăng thả lầm CV vào tuyến VC là Đại Úy Thương ĐĐ3 đã báo cho tôi biết anh đã trông thấy một trực thăng bị “xịt khói” rồi bay đi cùng thời điểm CV được thả xuống. Tôi không có thì giờ nghĩ về trực thăng bị bắn ra sao mà tìm cách cứu CV. Chợt Hạ Sĩ 1 Nguyễn Văn Thà, người mang máy cho tôi, hốt hoảng la:
_ Ông thầy coi kìa.
Theo hứơng tay chỉ của Thà, qua ống nhòm, tôi đã nhận ra một cánh tay từ bụi rậm đưa lên rồi mất hút. Quả quyết đây là cố vấn bị thả nhầm vị trí, đã sẵn kế hoạch trong đầu, tôi ra lệnh ngay cho trung đội trưởng là Thiếu Úy Huỳnh Vinh Quang, tập trung tất cả đại liên M60 và M79 của đại đội tác xạ tối đa và liên tục vào tuyến VC mà phía ngoài bãi đáp là nơi CV núp. Có lẽ VC chưa phát giác ra vị trí CV núp, mà nếu có thấy thì chúng quyết bắt sống chứ không bắn chết, giá trị sống chết khác nhau.
Trong khi các súng M60 và M79 bắn tối đa vào tuyến VC thì Trung Sĩ 1 Trần Tráng dẫn tiểu đội bò dưới hỏa lực của mình để yềm trợ cho HS1 Bùi Ngọc Đường và HS Nguyễn Văn Hợi chạy thật nhanh đến nơi có CV núp. Đường và Hợi là hai cận vệ đã cứu tôi thoát chềt nhiều lần nên tôi tin tưởng và hy vọng Đường và Hợi sẽ hoàn thành nhiệm vụ.
Khi viết lại việc này, tôi xin phép không đi vào chi tiết diễn tiến cuộc cứu CV, nhưng thật căng thẳng và lo âu, hồi hộp từng giây, tay tôi liên tục đốt thuốc, vừa kéo xong một hơi thì vất đi, đốt điếu khác, tôi đã phải làm một việc lần đầu tiên quá khả năng của tôi.
Tôi thở phào khoan khoái khi thấy Đường cõng một người trên lưng, lom khom lúp súp chạy về, Hợi thì vừa phụ đẩy vừa canh chừng phía sau, tiểu đội của Trần Tráng cũng đang rút lui theo. Cái hình ảnh không bao giờ tôi có thể quên được là khi vừa chạy về tới chỗ tôi đứng thì Đường ngã vật ra, CV Mỹ ngã theo, cả hai thân hình nhuộm máu.
CV đã được cứu, vui hơn nữa là tất cả toán cấp cứu đi và về đầy đủ, trừ 4 người trong tiểu đội của Trần Tráng bị thương nhẹ. Tr/Úy CV bị bắn vào nách, trực thăng đã xuống bốc người bị thương đi ngay và thả một thiếu tá CV khác xuống thay thế, tôi không kịp nhìn bảng tên của họ. Sau đó tôi không biết tin tức của trung úy CV này sống chết ra sao.
Sau cuộc hành quân, CV Mỹ ở trên Sư Đoàn đã gửi xuống cho đại đội tôi một số huy chương, trong đó có 1 Bronze Star là cao hơn cả, tôi biết phần thưởng danh dự này sẽ thuộc về ai. Nếu CV hỏi ý kiến tôi thì tôi sẽ đề nghị cho Đường, Hợi và tiểu đội Trần Tráng mỗi người 1 Silver Star hay cao hơn.
Hạ Sĩ 1 Bùi Ngọc Đường, ngừơi cận vệ, người bạn thân tín của tôi mang Bronze Star, anh còn được Thiếu Tá Lê Đình Bảo, Trưởng Phòng Chính Huấn Sư Đoàn TQLC thưởng cho 1 xe Honda 50. Đường không nghĩ đến những gì sẽ được hoặc sẽ mất khi lao vào lửa đạn, anh xứng đáng được nhận các phần thưởng này, nhưng rất tiếc “TQLC sống hùng sống mạnh nhưng không sống lâu”, Đường chưa kịp chở người yêu dạo phố Sài Gòn bằng Honda thì anh tử trận sau đó trong một cuộc hành quân sang Miên.
Người cõng CV về là Bùi Ngọc Đường đã tử trận, thế còn các cố vấn thì sao? Tôi đã nhờ Đồ Sơn hỏi LN2 thì nhận được 2 email nguyên văn như sau:
***
On Tue, Aug 26, 2014 at 7:57 PM, John Sheehan wrote:
Col, Dinh; we think the Marine in question is I/Lt Joe Bargerstock. He was shot in the chest and upper body, more serious than originally thought --spent a long time in the hospital. He ultimately retired after 20 years in the Marine Corps. Carl White talks to him and Carl will give you the detail info.
Hope this helps.
Your friend and fellow Marine
Jack

-------------------
Col. Dinh. As I was going through my records in search of the information you requested I came across a picture of the team of VN Marines who rescued Lt Bargerstock. The squad leader was awarded a Bronze Star and the others were awarded achievement medals. The picture was taken a month or so after the fight.
I will send you a copy of the picture in the morning. ( I need to go buy a new memory card)
S/F
Jack.

***
Theo email thứ nhất của LN2 trên đây thì Tr/Úy CV được cứu về từ tay Việt Cộng là I/Lt Joe Bargerstock chỉ bị thương nặng và đã giải ngũ, giả sử ngày đó vì xuống giúp tôi mà ông có mệnh hệ nào thì tôi buồn lắm. Tin ông bình an và giải ngũ, ông và tôi cùng mừng và xin chúc ông khỏe trẻ mãi.
Tuy nhiên, niềm vui không trọn vẹn, theo tài liệu mật vừa được giải mã, cuộc hành quân Bời Lời này có 2 CV bị thương, 3 người Mỹ thuộc phi hành đoàn trực thăng chết.
Ngày đó, khi Đại Úy Trần Văn Thương báo cho tôi biết có 1 trực thăng bay lên bị bắn xịt khói, tôi đã nghĩ đây là trực thăng chở CV Joe đến thay cho Carl White bị bắn nên họ đã vội vàng thả Joe xuống rồi bay đi, nay thì đúng như tôi đoán, nhưng rất buồn là cả phi hành đoàn 3 người đã “nổ” theo trực thăng!
Còn email thứ hai thì LN2 nói về huy chương tặng cho toán “rescued LT Joe”, trong đó có 1 Bronze Star. Dầu sao thì cũng cám ơn quý vị, nhưng khi xông vào chỗ chết để tìm sự sống cho Lt Joe Bargerstok thì đó cũng như nhiệm vụ Trâu Điên cứu đồng đội mà không bao giờ nghĩ đến việc sẽ mất gì (mạng), sẽ được gì (huy chương, thăng cấp). Vả lại Trâu Điên mà LN2 gắn Bronze Star lên ngực thì trong trận kế tiếp anh đã hy sinh, đã được “hòm gỗ cài hoa”, Quốc Kỳ phủ quan tài, đó niềm vinh dự tối cao của một quân nhân VNCH nói chung, TQLC và Trâu Điên nói riêng, vì vấn đề tế nhị đối với gia đình người đã tử trận, tôi không thể đưa tấm hình đó vào bài viết này được.
4. Major Ward, Người Hùng...
Theo tin LN2 cung cấp thì CV xuống thay cho Trung Úy Joe Bargerstock là Thiếu Tá H.T.Ward, CV của Chiến Đoàn. Major Ward đã cùng tôi trải qua một đêm vô cùng hồi hộp.
Vì phòng không của VC khá mạnh, nên cho đến chiều tối cánh A của Trâu Điên Trưởng Đồ Sơn vẫn không xuống được nên Đồ Sơn cho lệnh tôi và Đ/Úy Thương phối hợp phòng thủ đêm tại chỗ còn Đồ Sơn, Ban 3 Lâm Đồng và Chiến Đoàn Trưởng Saigòn thì bay C&C suốt đêm để theo dõi địch di chuyển và yểm trợ tinh thần cho chúng tôi.
Dựa vào địa thế một mặt là rừng tre gai rậm rạp, mặt kia là bãi đáp trực thăng (LZ) trống trải, chúng tôi biết địch, nếu tấn công đêm thì chúng chỉ có thể tấn đêm từ phía LZ, nên tôi đã bàn với CV Ward thiết lập sẵn kế hoạch hỏa lực, nhất là hỏa lực của trực thăng võ trang cobras.
Gần về sáng, đúng như dự đoán, VC tấn công mãnh liệt từ hướng LZ, chúng đã vào sát tuyến phòng thủ của chúng tôi, muốn dùng biển người, nhưng đây là lúc CV Ward ra tay. Theo như kế hoạch đã tính trước, các trực thăng cobras theo hướng dẫn của CV cứ phóng hỏa tiễn và bắn đại liên sát tuyến phòng thủ của chúng tôi, buộc địch tan tác và rút lui.
Chúng tôi không đi vào chi tiết diễn tiến trận tấn công đêm của VC, nhưng quả thật là gay cấn và hồi hộp, nếu không có Major Ward với tài điều khiển cobras thì 2 đại đội 1&3 Trâu Điên đã bị biển người của 3 tiểu đoàn Trung Đoàn 33 tràn ngập, dĩ nhiên yếu tố con người, tinh thần chiến đấu của các Trâu Điên mới là yếu tố quyết định thắng thua.
Ngày 17/9, trời vừa sáng, cánh A của Đồ Sơn đã xuống mà còn thấy VC chạy tán loạn từ LZ trốn vào rừng. Nhưng rất tiếc 2 Trâu Điên lại bị hy sinh vào giờ thứ 25, Hạ Sĩ 1 Thà, người mang máy cho tôi, và cũng là người đã phát giác ra vị trí CV Joe núp, Thà thấy cây B40 nẳm cách tuyến chừng 20m, anh vội bỏ máy, chạy ra lựơm B40, nhưng một tiếng nổ kinh hồn, tên VC đã tự sát bằng chất nổ gài đầy người khiến nó và Thà biến mất trong đám cây cỏ sình lầy, còn Hạ Sĩ Tha đi với Đại Đội Phó Lâm Tài Thạnh cũng bị tử thương khi đi thu lượm chiến lợi phẩm.
Một điều khá bất ngờ với tôi là vị Tư Lệnh chỉ huy chiến dịch lùng và diệt địch này là Tướng Nhảy Dù Dư Quốc Đống cũng xuống ngay vị trí phòng thủ của 1 Đại Đội Trâu Điên khi khói súng chưa tan, ông hài lòng với kết quả mà chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Theo tài liệu mật của Mỹ vừa đựơc giải mã thì kết quả trong trận Cầu Khởi và Bời Lời như sau:
Trong cuộc Hành Quân Cầu Khởi ngày 14/9/68 có một CV chết là Charles James Moore và 1 đại úy CV Mỹ bị thương. Trâu điên 3 tử trận, 10 bị thương.
Hành quân Bời Lời ngày 16/9/68 có 3 người Mỹ thuộc phi hành đoàn chết và 2 CV bị thương. Trâu Điên 6 bị thương và 2 tử thương ( đó là HS1 Thà và HS Tha)
Vũ khí của VC thu được:
1 SC 61ly, 
11 AK, 2 Đại liên, 1 B40, 2 súng trường SKS, 3 VC bị bắt và 53 xác VC nằm trước truyến phòng thủ của Trâu Điên.
Cuộc hành quân lùng diệt địch Cầu Khởi Bời Lời của Trâu Điên kết thúc bằng một màn cười ra nước mắt, chết tới nơi cũng cười.
Khi vừa đóng quân đêm xong thì lệnh thượng cấp bắt Trâu Điên phải di chuyển gấp đi nơi khác để B52 trải thảm vùng này, nhưng khốn khổ thay khi ra khỏi tuyến chừng 500m là đụng nặng, tiến không được mà đứng yên thì B52 đến! Đây là lúc Đồ Sơn và LN2 phải làm việc với thượng cấp vô cùng cấp bách và dĩ nhiên với bao mạng người, thượng cấp buộc phải chấp thuận lời yêu cầu của Đồ Sơn và LN2 mà điều B52 đi chỗ khác.
5. Cố Vấn Bị Mất Cánh Tay, Nay Ra Sao?
Sau trận Cầu Khởi và Bời Lời thì Trâu Điên đi U Minh, ngày 6 tháng 1/69, Đồ Sơn và LN2 cùng bị thương vì B40 thì Th/Tá Nguyễn Xuân Phúc về làm Trâu Điên Trưởng. Ngày 16/9/69, trong cuộc hành quân tại kinh Cán Gáo tỉnh Chương Thiện, anh Phúc giao cho tôi chỉ huy cánh B và có CV đi theo. Khi từ ruộng nước tiến vào bìa làng thì cánh B bị đụng nặng, tôi bị gẫy chân tay, “trào máu họng”, CV bị bay một cánh tay, cận vệ của tôi tử trận, các hiệu thính viên bị thương. Cố vấn được tải thương đi đâu, tình trạng thế nào thì cho đến nay tôi cũng không biết, đó là một trong những lý do tôi viết bài này để hy vọng biết được tin ông ta vẫn bình an mạnh khỏe, dù là một thương phế binh.
Còn tôi được đưa bệnh viện Phan Thanh Giản Cần Thơ cấp cứu rồi chuyển tiếp về bệnh viện Lê Hữu Sanh Thị Nghè SG. Khi tỉnh dậy thì tôi thấy “Bà Mẹ Quê” của tôi đang lấy tay cạy những vết máu và bùn đã khô trên mặt tôi, nước mắt mẹ già chảy xuống mặt con làm tôi mở mắt ra, thấy con tỉnh lại, mẹ già đưa tay quẹt nước mắt, run run nói:
_“Con bị thế thế này nhưng còn sống là mẹ mừng rồi”.

hình L-R: Cấp bị thương, Hợp, Dzoan K19, Tiền K20
Bà mẹ Việt Nam cũng như tất cả bà mẹ các dân tộc khác, thương con vô cùng, nhất là các con vì nhiệm vụ mà lao vào lửa đạn.
Quý độc giả đã coi cuốn phim “We Are The Soldiers”, đã nhìn thấy cảnh các bà mẹ, người vợ lo âu sợ sệt khi thấy người bưu tín viên đi vào cư xá, họ sẽ thở phào nếu người mailman đi qua, nhưng họ sẽ hốt hoảng, ngã xuống rồi ngất đi khi người mailman dừng trước cửa. Mẹ tôi đã xỉu, đã chết giấc như thế khi xe jeep của hậu cứ TĐ2/TQLC đến nhà đưa thư báo tin tôi bị ... thương. Đối với gia đình các cố vấn Mỹ cũng thế, khi các CV đi với tôi rồi bị thương, tử thương thì mẹ, vợ con họ cũng sẽ chết giấc như mẹ tôi, nếu các bà nhận được thư báo tin dữ của con, của chồng từ chiến trường Việt Nam
Đã gần nửa thế kỷ qua, nay, 2014, tôi mới có dịp ôn lại những kỷ niệm xưa, đã quá muộn, nhưng muộn còn hơn không, muộn vẫn phải nói lời cám ơn đến các vị cố vấn, đến các bà mẹ, các người vợ của các quân nhân Mỹ nói chung, và các cố vấn Mỹ nói riêng đã bị thương và hy sinh trên chiến trường Việt Nam.
Nếu tôi chỉ nói lời cám ơn “xuông” thì chưa đủ, mà còn phải khuyến khích các con cháu phục vụ nước Mỹ, quê hương thứ hai của chúng tôi. Con của các TQLCVN như Lương Xuân Đương, Đoàn Trọng Cảo, của Cần Thơ, Hà Nội v.v.. đã là cấp chỉ huy, là USMC và các quân binh chủng khác nữa trong quân đội Hoa Kỳ. Trước kia chúng ta là đồng minh, nay chúng ta là “đồng bào”.
Trâu Điên và Cố Vấn Mỹ đã sát cánh cùng nhau trong cuộc chiến, là đồng minh, là đồng đội, chúng tôi cùng giúp nhau sao cho nhiệm vụ được hoàn thành tốt đẹp, đúng như Cố Vấn Thomas Campbell đã viết trong tựa đề cuốn sách:
“ I thought that I would make them better Marines, but in the final analysis they made me a better Marine.”
6. Trâu Điên Và Cố Vấn Mỹ Hội Ngộ... 46 Năm Sau (1968-2015)
Ngày 18/1/2015, cựu Đại Úy cố vấn Trâu Điên là Đại Tướng John Sheehan gửi email báo cho Trâu Điên Trưởng (Đồ Sơn) rằng ông ta (John Sheehan) từ DC sẽ đến San Diego CA để họp với Navy về việc hạ thủy chiếc tàu đổ bộ mới của Hải Quân, nhân dịp này ông John muốn gặp Đồ Sơn. Tuy nhiên Tướng John Sheehan sợ đường xa (San Jose – San Diego) nếu có trở ngại gì thì Đồ Sơn báo cho ông ta biết để ông ta sẽ tính cách khác cho thuận tiện đối với Đồ Sơn hơn. Trâu Điên Trưởng trả lời cho cựu cố vấn như sau:
_ “Năm nay tôi 80 tuổi nhưng có dịp gặp gỡ như vậy thì rất qúy và tôi sẽ đi San Diego gặp ông. Ngoài tình bằng hữu, tình đồng đội, ông còn là ân nhân của tôi, đã cứu mạng sống cho tôi khi tôi bị thương nặng ở U Minh ngày 6/1/69. Xin ông cho biết ngày giờ nào thuận tiện cho ông. Tôi đề nghị thay vì đến Hotel nơi ông cư ngụ thì chúng ta sẽ gặp nhau tại nhà con gái tôi, cháu Phương Mai, cũng ở gần khu ông cư ngụ khoảng 15 phú lái xe”.
Cả Đồ Sơn và Đại Tướng John Sheehan đồng ý thăm nhau vào Thứ Bẩy ngày 7/2/2015 tại nhà con gái của Đồ Sơn thay vì Ông Bà John Sheehan mời Đồ Sơn đi ăn nhà hàng Việt Nam.
Trước khi đi San Diego, Trâu Điên Trưởng Đồ Sơn ngỏ ý muốn người viết, là đại đội trưởng, cùng đi với ông cho vui, đây là dịp hiếm hoi sau 46 năm để cùng hội ngộ, ôn chuyện sống chết cũ giữa Cố Vấn Trưởng, Tiểu Đoàn Trưởng và Đại Đội Trưởng Trâu Điên, nhưng rất tiếc vì lý do riêng nên tôi đã lỡ mất một dịp không có lần thứ hai.
Cựu cố vấn John Sheehan đến thăm Trâu Điên Trưởng trong quân phục TQLC Mỹ, còn Trâu Điên Trưởng đón cố vấn John Sheehan trong quân phục TQLC/VN. Đồng đội, đồng minh sống chết bên nhau, nay gặp lại sau 46 năm thì nói sao cho hết những chuyện buồn vui. Trước khi chụp hình để làm kỷ niệm, Đ/Úy cựu Cố Vấn John Sheehan đã làm một cử chỉ khiến Trâu Điên Trưởng vô cùng ngạc nhiên và cảm động. Đồ Sơn kể:

_“Trước khi dùng cơm chiều, tôi mời ông bà Sheehan chụp với tôi và các cháu vài tấm hình kỷ niệm, Ông John Sheehan lấy ra một nón Beret Xanh TQLCVN từ hồi còn là cố vấn Trâu Điên (1968-69) đội lên để chụp hình thay cho mũ Cap TQLC MỸ 4 sao. Tình bạn hữu, tình đồng đội với nét vui mừng hiện rõ lên sắc diện của vị tướng TQLC Mỹ”.

Thời gian đã qua đi gần nửa thế kỷ, hoàn cảnh “đồng đội” xưa đã thay đổi theo hai chiều lên xuống, vậy mà một vị tướng cao cấp của quân đội HK đã làm điều ít ai làm được, ông đã lấy mũ xanh TQLCVN đội lên để chụp hình thay vì mũ Cap TQLC Mỹ . Đây thật là một cử chỉ đẹp, thân tình và kính trọng đối với Trâu Điên, nếu không muốn nói là đẹp chung cho Binh Chủng Mũ Xanh.
Tuy nhiên còn một cử chỉ khác nữa cũng đáng chú ý, ông John Sheehan rút ra từ trong bao thơ 2 tấm bản đồ, một tấm bản đồ hành quân của Trâu Điên trong vùng Cầu Khởi, Bời Lời, Tây Ninh, nơi mà ĐĐ1/TĐ2 của Đại Úy Tô Văn Cấp đã cứu được Trung Úy Cố Vấn Mỹ Joe Bagerstock khi Tr/Úy Joe bị trực thăng thả lầm vào tuyến VC. Cựu Trâu Điên Trưởng cùng cựu cố vấn chỉ vào từng tọa độ như hai ông đang thảo luận, chỉ huy cuộc hành quân ngày xưa, tháng 9/1968. Tấm bản đồ chỉ là một tờ giấy cũ cách nay gần nửa thế kỷ, nhưng cả hai ông cùng trân quý, vì trên đó ghi chứng tích, địa danh mà Trâu Điên lẫn Cố Vấn Mỹ cùng đổ máu và hy sinh. Ngoài ra, ông Sheehan còn đưa ra một bản đồ nữa là vùng Saigon, Gia Định, Thủ Đức trong trận Mậu Thân, (trên đó VC vẽ ra những mục tiêu tấn công) mà TĐ2 thu được, nay ông John Sheehan tặng lại cho Đồ Sơn. cả hai bản đồ này là những kỷ vật vô giá. Một cuộc hội ngộ rất vui, bỏ qua chắc sẽ không còn dịp nào vì tuổi tác và mỗi người một nơi cách xa nhau DC - San Jose.
Buổi gặp gỡ ngày 7/2/2015 giữa Trâu Điên Trưởng và Đại Tướng Sheehan, Cố Vấn Trâu Điên năm 1968-69, là kỷ niệm có nhiều ý nghĩa giữa những chiến hữu, người bạn đồng minh. Ông John Sheehan không quên đơn vị cũ và người bạn già đã cùng chung vai sát cánh trong những giai đoạn chiến tranh khốc liệt nhất. Một kỷ niệm đẹp, dù muộn vẫn phải nói./.

      
Hình: Trâu Điên Trưởng và Cố Vấn đang xem lại hai tấm bản đồ Cầu khời Bời Lời và bản đồ Saigòn Chợ Lớn


Đồ Sơn, John Sheehan và phu nhân