Người lính trong
nhạc Nguyễn Văn Ðông
Anh
như ngàn gió
ham
ngược xuôi theo đường mây
(“Mấy
dặm sơn khê”, Nguyễn Văn Ðông)
Hôm ấy, tôi còn nhớ, một chiều hè năm 1969, chúng tôi ngồi ở
một quán nước quen dọc bờ biển Nha Trang. Bên cạnh tôi là H., người bạn học cũ.
Ðã lâu lắm chúng tôi mới gặp lại nhau kể từ ngày rời xa mái trường cũ ở một thị
trấn miền cao nguyên đất đỏ. H. cho biết anh sắp sửa nhập ngũ, thì giờ rảnh rỗi
như thế này sẽ chẳng còn được bao lâu nữa. Anh có người yêu ở thành phố biển
này. Tôi thì vẫn lang thang trên sân trường đại học, tấm giấy chứng chỉ hoãn dịch
trong tay vẫn còn hiệu lực.
Trên mặt bàn là những chai bia đã cạn và câu chuyện cũng đến
lúc cạn đề tài. Chúng tôi ngồi im lặng, cùng phóng tầm mắt nhìn ra vùng biển
bao la trước mặt, chờ mặt trời lặn để ngắm cảnh hoàng hôn trên bãi biển trong
lúc tiếng nhạc bập bùng vọng ra từ một góc quầy.
Người đi giúp núi sông
hàng hàng lớp lớp chưa về
hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương
“ ài gì vậy?” H. quay sang tôi, hỏi.
“‘Hàng hàng lớp lớp’,” tôi trả lời.
“Tên gì lạ vậy?”
“Gọi tắt là vậy,” tôi cười, “tên đầy đủ là ‘Khúc tình ca hàng
hàng lớp lớp’.”
H. lặng thinh, có vẻ chăm chú lắng nghe. Lời ca tiếng nhạc
khi r o rắt, khi trầm bổng...
Còn đây đêm cuối cùng
nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
“Giọng Hà Thanh phải không?” H. lại hỏi. “Còn giọng nam?”
“Hùng Cường.”
“Thiệt sao?” giọng hỏi thoáng chút ngờ vực.
Tôi hiểu, anh bạn tôi đâu biết rằng, ngoài những bài “tủ” như
“Vọng ngày xanh” (Khánh ăng), “Ông lái đò” (Hiếu Nghĩa), “Sơn nữ ca” (Trần
Hoàn)..., ca sĩ Hùng Cường–một nghệ sĩ cải lương khá nổi tiếng thời ấy–với chất
giọng ténor khoẻ khoắn, còn hát rất “tới” một ít bài tân nhạc khác nữa,
đặc biệt là những bài của Nguyễn Văn Ðông.
ài hát chúng tôi đang nghe là của Nguyễn Văn Ðông.
Anh bạn tôi đã nương theo câu hát ấy mà đi vào cuộc chiến.
Anh đã nhập vào hàng hàng lớp lớp những đoàn người nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương.
Mùa hè năm sau, tôi cũng “lên đường nhập ngũ tòng quân”,
nghĩa là chỉ sau anh bạn H. một năm. ạn bè tôi kẻ trước người sau lục tục vào
lính. Chiến cuộc ngày càng leo thang, ngày càng trở nên khốc liệt…
H., anh bạn cùng ngồi với tôi buổi chiều ấy, cùng nghe với
tôi bài nhạc ấy, cùng ngắm nhìn với tôi cảnh hoàng hôn trên bãi biển ấy, đã
không còn nữa. Anh đã nằm sâu dưới lòng đất. H. đã hy sinh trong chiến trận ít
năm sau đó, như biết bao người lính khác, như hơn một nửa bạn bè tôi đã nằm xuống
trên khắp các mặt trận trong cuộc chiến nghiệt ngã ấy. Chiến tranh như con quái
vật khổng lồ đã nuốt chửng bao nhiêu bè bạn tôi, anh em tôi.
Ðã nhiều năm, nhiều năm trôi qua, hình ảnh một chiều nào biển
xanh cát trắng và những câu hát của Nguyễn Văn Ðông giữa biển trời mênh mông vẫn
còn đậm nét trong ký ức tôi, mặc cho những lớp sóng của thời gian như từng đợt
sóng biển cứ hàng hàng lớp lớp xô nhau, xô nhau tràn mãi vào bờ, rồi lại
rút xuống trong con nước thủy triều của buổi hoàng hôn.
Người lính Nguyễn Văn Ðông
Anh bạn tôi khi còn sống đã thích bài nhạc ấy vì hai lẽ: thứ
nhất, đấy là một bài nhạc lính khá hay, gợi nhiều cảm xúc; thứ hai, nội dung
bài hát khá “hợp tình hợp cảnh” đối với anh ta vào lúc ấy.
Chỉ nghe cái tựa thôi, “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”, người
ta cũng biết được rằng đấy là bài tình ca viết về lính, viết cho lính.
Người đi giúp núi sông, hàng hàng lớp lớp chưa về... Không
chỉ là chưa về, trong số hàng hàng lớp lớp những người đi giúp
núi sông ấy, đã có biết bao người đi không về, không bao giờ về lại nữa.
Trong số những người đi mãi không về ấy có anh bạn của tôi, người “yêu” câu hát
ấy của Nguyễn Văn Ðông, trong lúc tôi và những người lính khác, những chiến hữu,
những bè bạn của anh, đã may mắn hơn anh, đã sống sót trở về sau cuộc chiến; và
hơn thế nữa, đã được định cư trên miền đất tự do này để nhớ về những đồng đội
cũ đã hy sinh hay còn ở lại trong nước, k o dài cuộc sống lây lất, âm thầm của
những người lính già trong buổi hoàng hôn của đời người.
Trong số những người lính vẫn còn ở lại trong nước ấy có người
lính Nguyễn Văn Ðông, tác giả “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”. Ông hiện sống ở
Saigon, và hầu như không còn viết nhạc nữa. Ðiều này không có gì lạ, đối với một
nhạc sĩ vốn sở trường và khá nổi tiếng về những bài “nhạc lính”. Không chỉ vì
chiến tranh đã đi qua, tình trạng đất nước hiện nay chắc không phải là môi trường
thuận lợi giúp ông tìm lại được nguồn cảm hứng để tiếp tục sáng tác.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông sinh trưởng tại Saigon (nguyên quán
thuộc tỉnh Tây Ninh). Ngay từ thời niên thiếu, năm 14 tuổi, ông đã có cơ hội học
hỏi về âm nhạc từ các giáo sư người Pháp trong thời gian theo học năm năm tại
trường Thiếu Sinh Quân Việt Nam. Ðây cũng là nơi ông sáng tác ca khúc đầu tay,
“Thiếu Sinh Quân hành khúc”, năm 16 tuổi, được trường chính thức công nhận và sử
dụng làm bài “đoàn ca” trong các sinh hoạt tập thể. Ông vừa là thành viên của
dàn quân nhạc gồm trên 40 “nhạc sĩ” thiếu niên, từng thi thố tài năng qua nhiều
buổi hòa nhạc do một nhạc trưởng người Pháp điều khiển trong các lễ duyệt binh
long trọng, vừa là thành viên ban nhạc nhẹ của trường, sử dụng thuần thục nhiều
nhạc cụ như kèn, trống, mandolin, guitare hawaïenne.
Ngoài sự nghiệp sáng tác, những nét chính về hoạt động âm nhạc
có thể kể ra được của chàng nghệ sĩ “tay súng, tay đàn” Nguyễn Văn Ðông:
Từ năm 1958, là Trưởng Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân (với sự
góp mặt của các nghệ sĩ và ca nhạc sĩ tên tuổi, như Kiều Hạnh, Kim Cương, Khánh
Ngọc, Minh Diệu, Vân Hùng, a Vân, ảy Xê, Trần Văn Trạch, Quách Đàm, Mạnh Phát,
Minh Kỳ, Thu Hồ, Hoài Linh, vũ sư Trịnh Toàn...).
Cũng từ năm 1958, là Trưởng an Nhạc Tiếng Thời Gian của
đài phát thanh Saigon, quy tụ các ca nhạc sĩ quen thuộc thuở ấy như Lệ Thanh,
Khánh Ngọc, Tâm Vấn, Minh Diệu, Hà Thanh, Anh Ngọc, Quách Đàm, Mạnh Phát, Thu Hồ,
Trần Văn Trạch… (Từ năm 1962, được tăng cường thêm các ca sĩ Thái Thanh, Thanh
Thúy, Minh Tuyết, Duy Khánh, Nhật Trường, Thanh Vũ, Hùng Cường... và an nhạc Y
Vân).
Từ năm 1960 đến 1975, cùng người bạn là Huỳnh Văn Tứ, một nhà
doanh nghiệp ở Saigon, đứng ra thành lập các hãng dĩa và băng nhạc Continental
và Sơn Ca (được sự cộng tác của các nhạc sĩ tân và cổ nhạc Nghiêm
Phú Phi, Văn Phụng, Lê Văn Thiện, Y Vân, Văn Vỹ, Năm Cơ, Hai Thơm...), gửi đến
giới yêu nhạc nhiều chương trình âm nhạc chọn lọc. Ðây cũng là trung tâm băng,
dĩa nhạc đầu tiên thực hiện một số album nhạc cho các ca sĩ. Một số ca
sĩ “thành danh” trong làng ca nhạc trước năm 1975 như Thanh Tuyền, Giao Linh,
Phương Dung, Hà Thanh... nhờ vào sự hướng dẫn và giới thiệu của nhạc sĩ Nguyễn
Văn Đông, Giám đốc Nghệ Thuật của các hãng dĩa này.
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông còn sử dụng các bút danh Vì Dân, Phượng
Linh, Phương Hà... cho các thể loại và chủ đề nhạc khác nhau. Ít người được biết,
với các bút danh trên, ngoài những sáng tác về tân nhạc, ông còn viết nhạc nền
cho trên 50 vở tuồng cải lương thuộc loại kinh điển ở miền Nam như “Mưa rừng”,
“San hậu”, “Nửa đời hương phấn”, “Sân
khấu về khuya”, “Tiếng hạc trong trăng”... và hàng trăm
chương trình “tân cổ giao duyên”, một hình thức “phối hợp nghệ thuật” giữa tân
và cổ nhạc khá phổ biến trong đại chúng vào thời ấy.
“Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân”
trong một chuyến lưu diễn tại Ðồng Th p ười
(dưới chân Tháp Mười Tầng, Gò Tháp,
một địa danh lịch sử) ngày 11 & 12/4/1959
- Hàng đầu, từ trái sang phải: Trần Ðô (chuyên viên sân khấu);
nghệ sĩ Kiều Hạnh (thân mẫu ca sĩ ai Hương); tam ca nhi đồng Phước Vân,
Bích Vân, Ngọc Vân (và một em bé tập sự); nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông, trưởng
đoàn (có dấu “X”); bà kịch sĩ a Vân; ca sĩ Khánh Ngọc; ca sĩ Minh Diệu;
nghệ sĩ Trần Văn Trạch; vũ sư Trịnh Toàn; ca sĩ Mai Ly; nhạc sĩ Mạnh Phát; diễn
viên điện ảnh Trang Thiên Kim; các ca sĩ Kim Lan, Kim Oanh.
- Hàng thứ nhì, từ trái sang phải: Anh Việt (chuyên viên
ánh sáng); Trần Quang, Trần Thịnh, Trọng Tuyến (các chuyên viên âm
thanh); nghệ sĩ a Vân; các ca sĩ Ngọc Quang, Thanh Nguyên; nghệ sĩ ảy Xê;
nhạc sĩ Minh Kỳ; nhạc sĩ Thu Hồ; nghệ sĩ Quách Ðàm; nhạc sĩ Hoài Linh. Các hàng
sau là tài xế, nhân viên an ninh...
“Là chàng trai trẻ độc thân,” ông nói, trả lời một câu phỏng
vấn, “với một mối tình nho nhỏ thời học sinh mang theo trong ba-lô, tôi bước nhẹ
tênh vào cuộc chiến ấy...” (1)
Sau những “bước nhẹ tênh” ấy là cánh cửa mở rộng cho “chàng
trai trẻ độc thân” Nguyễn Văn Ðông đặt những bước chân đầu tiên lên “đoạn đường
chiến binh”, để từ đó dấn thân vào cuộc sống mới đầy hứng thú, đầy sôi động và
cũng đầy ý nghĩa trong những năm dài quê hương chìm trong khói lửa chiến tranh.
Chàng lính trẻ ấy từng phục vụ tại các đơn vị tác chiến, từng đóng quân tại các
vị trí được xem là “điểm nóng” của các cuộc giao tranh như chiến khu Ðồng Tháp
Mười, vùng Tam Giác Sắt..., từng tham dự những trận chiến khốc liệt tại các địa
danh Ấp Bắc, Kinh 12 và tuyến lửa Thông Bình, Cái Cái (Tân Thành)..., từng được
ân thưởng nhiều huy chương về các chiến tích, trong đó có “bảo quốc huân
chương” là huân chương cao quý nhất của quân lực Việt Nam Cộng Hòa.
Hầu như khắp bốn vùng chiến thuật, nơi đâu cũng in hằn dấu
chân người lính Nguyễn Văn Ðông (đúng như “Mấy dặm sơn khê”, tên một bài nhạc
khá nổi tiếng của ông). Ông đã cầm súng chiến đấu vì yêu quê hương này, vì yêu
dân tộc này. Ông đã yêu đời lính như yêu mảnh đất này, như yêu những đồng đội,
như yêu người mình yêu... Hình ảnh người lính chiến thể hiện qua dòng nhạc của
ông xem ra cũng không khác gì lắm với hình ảnh “người lính Nguyễn Văn Ðông”,
cũng áo anh mùi thuốc súng, cũng ngược xuôi theo đường mây, cũng tóc
tơi bời lộng gió bốn phương. (Ông không phục vụ ở Cục Tâm Lý Chiến như nhiều
người vẫn lầm tưởng)... Mặc dầu không hề tơ vương khanh tướng vì người
đi giúp nước nào màng danh chi, nhưng do lòng “tận trung báo quốc” qua các
thành tích chiến đấu và phục vụ, ông cũng đã leo dần lên mãi những nấc thang
binh nghiệp với chức vụ sau cùng là sĩ quan tham mưu cao cấp Bộ Tổng Tham Mưu.
Có lẽ Ðại tá Trần Văn Trọng (nhạc sĩ Anh Việt, tác giả “ ến cũ”, “Thơ ngây”...)
và ông được kể là những người lính có cấp bậc cao nhất trong số các nhạc sĩ phục
vụ trong quân ngũ.
Sau “ngày tàn chiến cuộc” năm 1975, như số phận của hàng
hàng lớp lớp sĩ quan kẹt lại ở trong nước, ông đã phải lầm lũi đi vào những
trại tập trung, những lò cải tạo (SuốiMáu, Chí Hòa) để trả giá cho các thành
tích trong quân ngũ và trong hoạt động âm nhạc.
Không r ông đã “học tập” được những gì, có điều là cơ thể ông
đã “tiếp thu” đủ thứ mầm bệnh trong những năm “cải tạo” ấy khiến sức khỏe ông
có lúc suy kiệt đến trầm trọng. Chứng phong thấp, căn bệnh quái ác, đã khiến
các đốt xương ngón tay của ông sưng tấy lên, các ngón tay co quắp đến gần như
không còn cử động được nữa.
“Anh xem này,” ông nói với người bạn “tù cải tạo” ở cùng trại
Suối Máu, giọng bùi ngùi. “ àn tay tôi như thế này là coi như ‘phế bỏ v công’ rồi,
làm sao còn chơi đàn được nữa!”
Tay đã thế, chân lại càng tệ hơn, các khớp xương đầu gối biến
dạng và đau nhức đến mức ông phải nằm điều trị nhiều năm trong các bệnh viện ở
Saigon trước khi rời bỏ đôi nạng gỗ để được đi đứng bình thường trở lại.
Về đây ngơ ng c chim bay tìm đàn
Về đây hoang vắng lạnh buốt cung đàn
Như là câu hát trong bài “Về mái nhà xưa” của ông, sau đúng
mười năm “học tập cải tạo” (ông được thả về đầu năm
1985), tác giả bài nhạc ấy đã về lại sau cuộc chiến, về lại
sau
những năm đọa đầy, về lại với một thân xác đầy tật bệnh, với
một tâm hồn đầy thương tích. Xa lạ trước cuộc sống mới, trước một xã hội có lắm
đổi thay sau cuộc bể dâu, ông bày tỏ lòng hối tiếc về những năm dài lãng phí,
không tìm lại được nguồn cảm hứng nào cho hoạt động âm nhạc cũng như không đóng
góp được chút gì có ý nghĩa cho đời. Ðối với con người nghệ sĩ tài hoa, đầy sức
sáng tạo, và có thói quen làm việc không ngưng nghỉ, không mệt mỏi như ông thì,
nói như ông, đấy quả là một sự “hối tiếc vô bờ”.
“Tại sao ông không xin định cư ở nước ngoài trong lúc có đủ
điều kiện của người tù cải tạo?” Trả lời câu hỏi này, ông cho biết, “Do những
căn bệnh ngặt nghèo tưởng như ‘hết thuốc chữa’ và do tinh thần suy sụp đến tột
cùng, có lúc tôi đã nghĩ rằng mình không còn sống được bao lâu nữa. Vì thế, tôi
chẳng còn thiết tha bất cứ chuyện gì, chỉ muốn từ bỏ tất cả để được thảnh thơi
yên nghỉ ở cuối đời.”
Vậy mà, nhờ “thần dược” hay nhờ... ph p lạ, ông vẫn sống sót
được đến ngày hôm nay. Vợ chồng ông có một cửa hàng tạp hóa nhỏ (nơi gia đình
ông cư ngụ), là nguồn thu nhập chính cho “kinh tế gia đình”. Tuy sức khoẻ có sa
sút, tuy cuộc sống có chật vật, “người lính Nguyễn Văn Ðông” vẫn có lúc quên đi
nỗi đau của riêng mình, vẫn có lúc để lòng mình nghiêng xuống những số phận rủi
ro, những số kiếp hẩm hiu của bao người k m may mắn hơn mình. Những bản tin tôi
đọc được ở trong, ngoài nước nói về các công tác cứu trợ những mảnh đời rách
nát, những kiếp người lầm than, vẫn nhắc đến bàn tay nhân ái, trái tim nhân hậu
của người lính, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
“Ðoàn Văn Nghệ Vì Dân” &“Ðoàn Việt Nam”
1961, Sài Gòn (Trưởng Đoàn: NS Hoàng Thi Thơ)
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông (đứng ngoài cùng, bên phải) và
các ca nhạc sĩ, nghệ sĩ tên tuổi thời ấy: Hoàng Thi Thơ, Lê Thương, Lê Mộng Bảo,
Thu Hồ, Mạnh Phát, Minh Kỳ, Hoài Linh, Út Trà Ôn, Trần Văn Trạch, Trịnh Toàn,
Ngọc Phu, Bảy Xê, Ba Vân, Tùng Lâm, Phi Thoàn, Anh Sơn, Anh Lân, Quách Ðàm,
Thúy Nga, Bạch Yến, Tuý Hoa, Tuý Phượng, Minh Diệu, Thẩm Thúy Hằng...
(Nhạc sĩ Lê Thương, nhạc sĩ Lê ộng Bảo, Gi m đốc Nhà xuất bản
“Tinh hoa miền Nam”, và nghệ sĩ Út Trà Ôn là kh ch mời, không ở trong Ðoàn Vì
Dân hay Ðoàn Việt Nam)
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông
Nhạc lính, nói sao đi nữa cũng từng là “nhạc thời trang” ở miền
Nam Việt Nam một thời nào. Loại nhạc thời trang “đặc biệt” này khá phổ biến và
có tuổi thọ đo được bằng chiều dài của cuộc chiến tranh hai miền Nam- ắc, nghĩa
là k o dài hơn bất cứ loại nhạc thời trang nào khác. Còn chiến tranh là còn nhạc
lính, và nhạc này có lúc trở thành cực thịnh, là thời kỳ cường độ cuộc chiến
gia tăng đến mức khốc liệt nhất.
Trong những năm dài chinh chiến ấy, có rất nhiều ca khúc khá
hay viết về người lính và đời lính của một số tác giả ở trong và ngoài quân
ngũ, ngợi ca tinh thần chiến đấu anh dũng, sự hy sinh cao cả và thầm lặng của
người lính chiến. “Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông” là một trong số ấy. Hơn thế nữa,
nhạc lính của ông có những nét rất “riêng”, mang sắc thái đặc biệt, được rất
nhiều người yêu nhạc (lính hoặc không phải lính) yêu thích.
Trong phạm vi nói về “nhạc lính” của Nguyễn Văn Ðông, những
ca khúc quen thuộc của ông nhưng không kể là “nhạc lính” (đôi lúc được ông ký
dưới những tên khác) sẽ không đề cập trong bài này hoặc chỉ nói sơ qua.
Những năm trước ngày chiến tranh kết thúc, ngoài những bài
“chiến đấu ca” trong quân đội và những bài hát cộng đồng, có vẻ những bài nhạc
đề cao lý tưởng, chính nghĩa, tinh thần chiến đấu và hy sinh của người lính
ngày càng ít đi (trừ ít bài ngợi ca những tên tuổi cá biệt của người lính đã đền
nợ nước, như “Huyền sử ca một người mang tên Quốc” của Phạm Duy, “Anh không chết
đâu em”, “Người ở lại Charlie” của Trần Thiện Thanh...). Không còn nghe thấy nữa
những bài nhạc một thời làm nức lòng chiến đấu của người lính vì nước quên
mình:
Khi nước nhà phút ngả nghiêng
em mơ người trai anh dũng
mang thân thế hiến giang san
chí quật cường hiên ngang
(“Chiến sĩ của lòng em”, Trịnh Văn Ngân)
Em chúc cho chàng lập chiến công oai hùng
vang vang lời chiến thắng
muôn thu danh chàng lừng lẫy với núi sông
(“Chàng đi theo nước”, Hiếu Nghĩa)
Anh đi mai về chiến thắng
khi súng quân thù thôi vang trên non sông
tươi thắm màu cờ / vui reo trên kinh thành
(“Anh đi mai về”, Hoàng Nguyên)
Anh đi xây chiến thắng / dưới màu cờ quật cường
cho loài người hòa bình
(“Dặn dò”, Thanh Châu)
Anh sẽ là anh đàn em nhỏ / là con của mẹ giữ quê hương
(“Tình quê hương”, Ðan Thọ & Phan Lạc Tuyên)
Không quên lời xưa đã ước thề
dâng cả đời trai với sa trường
(“Anh đi chiến dịch”, Phạm Ðình Chương)
Và ít bài nhạc khác như “Lá thư người chiến sĩ” (Phạm Ðình
Chương), “Lá thư gửi mẹ” (Nguyễn Hiền & Thái Thủy), “ ức tâm thư” (Lam
Phương), “Anh về thủ đô” (Y Vân), “ iệt kinh kỳ” (Minh Kỳ & Hoài Linh),
“Chiều biên khu” (Tuấn Khanh & Châu Ngân), “Trên bốn vùng chiến thuật”
(Trúc Phương), “Mười sáu trăng tròn” (Trần Thiện Thanh)...
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, trong lúc ấy, trước sau vẫn dạt
dào tình yêu quê hương, đất nước, vẫn ngợi ca người lính chiến, vẫn đề cao lý
tưởng và chính nghĩa cuộc chiến đấu của quân dân miền Nam (mà không phải...
“tuyên truyền tâm lý chiến”).
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông không có những “tô son điểm phấn”
cho đời lính kiểu “anh tiền tuyến, em hậu phương”, “người yêu của lính”...
Trong những lời nhạc của ông không có những mộng mơ, lãng mạn kiểu Anh là
lính đa tình (“Tình lính”, Y Vân), hay Ba-lô thay người tình yêu dấu... (“Ai
nói với em”, Minh Kỳ & Huy Cường), hay Những đóm mắt hỏa châu là hoa
đăng ngày cưới... (“Những đóm mắt hỏa châu”, Hàn Châu), cũng không có những
lời thở than hoặc cay đắng như Nhiều đông lắm hạ nối tiếp đi qua / thiếu
bóng đàn bà... hay Đến với tôi / hãy đến với tôi / đừng yêu lính bằng lời...
(“Kẻ ở miền xa”, Trúc Phương) vân vân... (Người viết chỉ nêu những khác biệt,
không có ý bình phẩm).
Nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, như đời lính của ông, là cuộc chiến
đấu gian khổ, là những lần xông pha trận mạc, là những cuộc hành quân không giống
như là đi... picnic để đem c nh hoa rừng về tặng em (“Người yêu của
lính”, Anh Chương), mà luôn kề cận những bất trắc, những hiểm nguy...
Ở một đôi bài Nguyễn Văn Ðông, giai điệu có lúc gần gũi với
nét nhạc phóng khoáng, mênh mang của nhạc sĩ Lâm Tuyền, tác giả “Tiếng thời
gian”, “Khúc nhạc ly hương”, “Hình ảnh một buổi chiều”, “Nhớ người viễn xứ”
(Nguyễn Văn Đông & Lâm Tuyền)... Lời nhạc Nguyễn Văn Ðông như có “khẩu khí”
riêng, đôi lúc phảng phất cái khẩu khí đầy vẻ thi vị trong thơ Quang Dũng, Thâm
Tâm hoặc trong... “Chinh phụ ngâm khúc”, tạo nên sắc thái đặc biệt tiêu biểu
cho dòng nhạc lính của ông. Có thể nói, Nguyễn Văn Ðông là một trong những nhạc
sĩ sử dụng sớm nhất những từ ngữ “đường mây”, “sơn khê”, “giang đầu”, “khanh tướng”,
“sa trường”, “biên thùy”, “khu chiến”, “tang bồng”, “hội trùng dương”... Những
từ ngữ khá cổ điển nhưng qua nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ thích ứng, lại đặc biệt
có vẻ phù hợp với chất “lính tráng”, làm dậy lên những cảm xúc rất “lính”, khiến
nhạc lính Nguyễn Văn Ðông như có một “khí hậu” riêng, mang mang thi vị của hơi
thơ cổ, nhuốm vẻ hùng tráng và lãng mạn như bức họa đẹp và buồn của một “thuở
trời đất nổi cơn gió bụi”. (2)
Anh như ngàn gió / ham ngược xuôi theo đường
mây
(“Mấy dặm sơn khê”)
Ngoài mưa khuya lê thê / qua ngàn chốn sơn
khê
(“Mấy dặm sơn khê”)
Sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?
(“Chiều mưa biên giới”)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
(“Chiều mưa biên giới”)
Thương mầu áo gửi ra sa trường
(“Chiều mưa biên giới”)
Chốn biên thùy này xuân tới chi?
(“Phiên gác đêm xuân”)
Xưa từ khu chiến về thăm xóm
(“Sắc hoa màu nhớ”)
Lòng này thách với tang bồng
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Hội trùng dương hát câu sum vầy
(“Hải ngoại thương ca”)
“Đường mây” chẳng hạn (đường mây chân núi xa..., ngược
xuôi theo đường mây...) là từ ngữ rất cũ, từ thuở... “Chinh phụ ngâm khúc”
(“Sứ trời sớm giục đường mây”…), được đưa vào lời nhạc Nguyễn Văn Ðông,
lại như có vẻ “mới” và nghe rất “lính”.
Trong một lần trả lời phỏng vấn báo chí trước năm 1975, nhạc
sĩ Nguyễn Văn Ðông cho biết ông chịu ảnh hưởng ít nhiều nền văn hóa Pháp trong
các sáng tác âm nhạc và nhắc đến tên vài bài nhạc cũ của những thập niên
1940’s, 1950’s như “J’attendrai”, “Ma Normandie”, “La vie en
rose”...
“Lòng này thách với tang bồng…”
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông là lính trận, là lính
tác chiến, những người lính áo anh mùi thuốc súng, những người lính vừa
trở về từ chiến trường lửa đạn.
Hơn bất cứ một nhạc sĩ nào khác viết về lính, nhạc Nguyễn Văn
Ðông làm nổi bật lý tưởng của người quân nhân cầm súng chiến đấu. Mặc “ai công
hầu, ai khanh tướng”, người đi vì lý tưởng đã vẽ lên những hình tượng đẹp, lãng
mạn và đầy hào khí của những chàng Kinh Kha thời đại.
Người đi giúp núi sông
hàng hàng lớp lớp chưa về / hàng hàng nối tiếp câu thề
giành lấy quê hương
Người đi giúp nước nào màng danh chi
cầu cho đất nước vượt ngàn gian nguy
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Lòng trần còn tơ vương khanh tướng
thì đường trần mưa bay gió cuốn / còn nhiều anh ơi
(“Chiều mưa biên giới”)
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”, (3)
những chàng trai đất Việt nặng một lời thề, mang tổ quốc trên
vai, mang tình yêu nước trong tim, hàng hàng lớp lớp theo nhau lên đường. Từng
đoàn người tiếp bước những đoàn người đi viết tiếp những trang sử hào hùng của
dân tộc Việt.
Đời tôi quân nhân / chút tình gửi cho núi sông
(“Sắc hoa màu nhớ”)
Nước non còn đó một tấc lòng
không mờ xóa c ng năm th ng
(“Mấy dặm sơn khê”)
Đời dâng cho núi sông
Dù ngàn nắng lửa mưa dầu
lòng người nhất quyết không đầu / giành lấy mai sau
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Khi lòng đã nhất quyết không đầu, khi đời đã dâng
cho núi sông thì… “Mẹ thà coi như chiếc lá bay” (4)
Mẹ hiền ơi chớ buồn vì con / nước non chưa tròn
(“Lá thư người lính chiến”)
Chút tình riêng đành gác lại, vì tình nước sâu hơn tình lứa
đôi.
Đường đi biên giới xa / Lòng này thách với tang bồng
Đừng sầu má ấy phai hồng / buồn lắm em ơi ...
Hỡi người anh thương / chưa trọn thề ước
Nhưng tình đất nước / ôi, lớn lao không đành lòng
dệt mối thắm riêng tư
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Vầng trăng xẻ đôi / vẫn in hình bóng một người
(“Chiều mưa biên giới”)
“Chiều mưa biên giới” (1956, sáng tác tại Đồng Tháp Mười,
biên giới Việt-Miên), một trong những bài nhạc lính quen thuộc của Nguyễn Văn
Ðông, là trường hợp khá đặc biệt, nổi tiếng do hai sự kiện: thứ nhất, nhờ sự
trình diễn thành công của nghệ sĩ Trần Văn Trạch qua các làn sóng phát thanh và
truyền hình Paris, dẫn đến một hợp đồng thu thanh bài hát bằng hai thứ
tiếng Việt, Pháp với một hãng dĩa lớn của Pháp (việc chưa từng có trong lịch sử
tân nhạc Việt thời bấy giờ); thứ hai, nhờ quyết định... cấm phổ biến của Bộ
Thông Tin thời ấy, lý do là lời nhạc không thích hợp.
Tại sao cấm phổ biến? Tại sao “lời nhạc không thích hợp”?
Nghe lại “Chiều mưa biên giới”, tôi không thấy có “vấn đề” gì đáng gọi là cấm kỵ.
Có thể là những lời lẽ như thế này:
Chiều mưa biên giới anh đi về đâu
sao còn đứng ngóng nơi giang đầu?...
Về đâu anh hỡi mưa rơi chiều nay?...
Người lính chiến... mất phương hướng, không biết sẽ đi đâu, về
đâu! Hoặc những câu hát:
Kìa rừng chiều âm u rét mướt...
ột v ng mây nước cho lòng ai thương nhớ ai...
Cờ về chiều tung bay phất phới
gợi lòng này thương thương nhớ nhớ...
Người đi khu chiến thương người hậu phương...
Người lính chiến “nhìn trời hiu quạnh”, lòng còn vương vấn
chút tình... riêng.
Nếu không phải vì những lời nhạc kể trên, có thể là do giai
điệu u uẩn, man mác của bài nhạc làm... nản lòng binh sĩ, làm suy giảm tinh thần
chiến đấu của quân đội(!).
Dù với bất cứ lý do gì, những câu hát này thực sự chẳng thấm
tháp vào đâu so với những bài bản “phản chiến” ít năm sau đó, phổ biến tràn lan
một thời mà chẳng ai cấm nổi, chẳng hạn Tôi có người yêu chết trận Pleime...
(“Tình ca người mất trí”, Trịnh Công Sơn), Quyết chối từ chém giết anh
em... (“Chính chúng ta phải nói”, Trịnh Công Sơn), hoặc Anh trở về bại
tướng cụt chân... (“Kỷ vật cho em”, Phạm Duy & Linh Phương), Ngày
mai đi nhận x c chồng.../ Anh lên lon giữa hai hàng nến chong... (“Tưởng
như còn người yêu”, Phạm Duy & Lê Thị Ý)...
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông,
nghệ sĩ Trần Văn Trạch và nhạc sĩ Lê Thương
“Chiều mưa biên giới” bị cấm phổ biến chỉ vì ra đời... sớm
vài năm, trở thành một trong những bài nhạc đầu tiên được khoác cho cái tên gọi
là “phản chiến”.
“Chiều mưa biên giới” trở thành bài nhạc lính tiêu biểu của
Nguyễn Văn Ðông, gắn liền với tên tuổi của ông, gắn liền với giọng ca Trần Văn
Trạch, gắn liền với câu hát Lòng trần còn tơ vương khanh tướng / thì đường
trần mưa bay gió cuốn / còn nhiều anh ơi ... vừa mang tính “triết lý” về đời
lính, vừa đượm vẻ... “lãng mạn Nguyễn Văn Ðông”.
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông
“Chàng tuổi trẻ vốn giòng hào kiệt
xếp bút nghiên theo việc đao cung” (2)
Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc luôn có những năm
thái bình thịnh trị và những năm chinh chiến điêu linh. Khi vận nước ngả
nghiêng, những chàng trai thời loạn đã hiến dâng tuổi trẻ, lên đường theo tiếng
gọi của non sông, bỏ lại sau lưng những mộng ước chưa tròn... Hình tượng người
lính chiến qua dòng nhạc Nguyễn Văn Ðông, ngoài lý tưởng, lòng yêu nước thương
dân, tinh thần hy sinh và chiến đấu, vẫn không thiếu n t lãng mạn của “chí lớn
chưa về bàn tay không, thì không bao giờ nói trở lại...” (4)
Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
ngại khơi nước mắt nhạt nhòa môi em
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
ấy ai ra đi hẹn về dệt nốt tơ duyên
(“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa câu thơ cũ, “Chàng từ đi vào
nơi gió cát...”, (2) câu thơ về những chàng trai, những chàng lính chiến ôm mộng hải
hồ, bạn cùng sương gió. Trên khắp các nẻo đường đất nước, từ miền địa đầu giới
tuyến đến những nơi đầu sóng ngọn gió, từ những tuyến đầu lửa đạn đến những tiền
đồn heo hút xa xăm, nơi đâu cũng in hằn dấu chân người lính.
Anh như ngàn gió / ham ngược xuôi theo đường mây
Tóc tơi bời lộng gió bốn phương
(“Mấy dặm sơn khê”)
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông đẹp tựa huyền thoại “trăng treo đầu
súng” trong một “phiên gác đêm xuân” giữa vùng hành quân đồi núi chập chùng.
X c hoa tàn rơi trên b ng súng
ngỡ rằng pháo tung bay / ngờ đâu hoa l rơi
(“Phiên gác đêm xuân”)
Đêm nằm gối súng / chung nh trăng
cho người này gợi nhớ thương người kia
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Câu hát gợi nhớ câu lục bát Nguyễn Du, “Vầng trăng ai xẻ làm
đôi / Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường...”
Lãng mạn Nguyễn Văn Ðông không chỉ ở những bản tình ca gợi nhớ
những mùa xuân thanh bình một thuở, như là Chiều nay hoa xuân bay nhiều quá hay
là Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người (“Nhớ một chiều xuân”), mà
còn ở trong những câu hát của một mùa chinh chiến.
Trong khói lửa chiến tranh, bên cạnh những nỗi bất trắc, tình
yêu vẫn nở hoa, như những đóa hồng vẫn nở bên những hầm hố và hàng rào kẽm gai.
Vẫn có chút tình yêu làm quà tặng cho những người lính cầm súng chiến đấu, vẫn
có những ánh mắt, nụ cười xinh tươi trong câu chuyện tình thời chiến,
câu chuyện tình “người hùng và giai nhân”.
Còn đây giây phút này
còn nghe tiếng hát / nụ cười xinh tươi
còn trông ánh mắt / còn cầm tay nhau
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Tình yêu thường xen lẫn thân phận người lính xa nhà, xa người
mình thương yêu. “Chàng thì đi c i xa mưa gió / Thiếp lại về buồng cũ gối
chăn”. (2) Một người đi, một người ở lại và những năm chờ tháng đợi mỏi
mòn.
Một người gối chiếc cô phòng
còn người góc núi ven rừng / chân mây đầu gió
(“Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp”)
Con đường đấu tranh gian khổ còn dài, những chuyến về thăm,
những lần về ph p, người lính chiến dừng chân trong chốc lát, rồi lại lên đường,
lại miệt mài đi khi quê hương còn tiếng súng, khi máu xương còn rơi...
Anh đến thăm / o anh m i thuốc súng...
Anh đến đây / rồi anh như bóng mây...
Anh hỡi anh / đường xa vui đấu tranh
(“Mấy dặm sơn khê”)
Tôi lại đi giữa trời sương gió
Mầu hoa thắm vẫn sống trong tôi
(“Sắc hoa mầu nhớ”)
Người nghe đôi lúc bắt gặp đâu đó trong lời nhạc Nguyễn Văn
Ðông những câu hát thật là đẹp.
Cầm tay nhau đi anh
Tơ trời quá mong manh
(“Mấy dặm sơn khê”)
“Tơ trời”?... Là sợi nắng lung linh hay sợi mưa phùn giăng mắc?
Tơ trời mong manh hay những phút giây gần nhau cũng mong manh như những sợi...
tơ trời?
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông vẫn có những phút để hồn
mình lắng xuống, để lòng mình bâng khuâng vì một sắc hoa, một mầu áo...
Chiều hành quân nay qua lối xưa
giữa một chiều gió mưa / x c hoa hồng mênh mông...
Nhìn mầu hoa vừa tan t c rơi
nhớ muôn vàn nhớ ơi / h t trong mầu hoa nhớ
(“Sắc hoa mầu nhớ”)
Cuộc đời lính chiến, nhờ vậy, cũng sẽ đẹp thêm lên một chút.
Người lính trong nhạc Nguyễn Văn Ðông không phải là không
có tr i tim đắm say mộng mơ (“Ai nói với em”, Minh Kỳ & Huy Cường). Những
ước mơ của người lính thật đơn sơ và trắng như mây chiều.
Ước mong nhiều đời không (cho) bấy nhiêu
vì mơ ước trắng như mây chiều
(“Phiên gác đêm xuân”)
“Mơ ước” gì vậy? Nếu không phải là nỗi ước mơ của những người
đi đấu tranh để mang về mùa xuân mới cho quê hương.
ong sao nước Việt đời đời
anh dũng oai h ng chen chân thế giới...
Người về đây giữa non sông này
Hội tr ng dương h t câu sum vầy
Về cho thấy con thuyền nước Nam
đi vào mùa xuân mới sang
xa rồi ngày ấy ly tan
(“Hải ngoại thương ca”)
“Người lính già không bao giờ chết”
“Hải ngoại thương ca” cũng là trường hợp đặc biệt khác, sau
“Chiều mưa biên giới”. Không r động lực nào, hoàn cảnh nào đã khiến nhạc sĩ
Nguyễn Văn Ðông cho ra đời ca khúc ấy. Trước và sau ông hầu như chưa có nhạc sĩ
nào viết về đề tài tương tự. Ðiều thú vị, các “cán bộ” văn hóa văn nghệ ở trong
nước đã lầm tưởng “Hải ngoại thương ca” là “sáng tác mới” của Nguyễn Văn Ðông,
đến lúc hiểu ra rằng đấy là bài nhạc cũ (1963), đã phải thốt lên, “Làm sao mà ở
miền Nam ngày trước lại có bài nhạc hay đến như thế, lại phù hợp với hiện tình
đất nước đến như thế!”
Cái “hay” trong lời ngợi khen ấy có thể hiểu là cái hay của nội
dung bài nhạc được diễn dịch theo chiều hướng có lợi và phù hợp với chính sách
kiều vận, với chủ trương “hòa hợp và hòa giải dân tộc” của “nhà nước ta” đối với
“khúc ruột ngàn dặm” là cộng đồng người Việt ở nước ngoài, một “bộ phận không
thể tách rời” của dân tộc. Cái “hay” ấy là cái hay của những câu hát được xem
là thể hiện tâm tư tình cảm của “bà con Việt kiều yêu nước” trong những chuyến
về thăm quê nhà.
Một m a thương kết muôn hoa lòng
Người về đây nối câu tâm đồng...
Tôi đi giữa trời bồi hồi
Cờ bay phất phới quên chuyện ngày xưa...
Người về đây giữa non sông này
Hội tr ng dương h t câu sum vầy
Không có gì ngạc nhiên khi các báo trong nước đưa tin “Hải
ngoại thương ca” là một trong những bài đầu tiên được Cục Nghệ thuật Biểu diễn
thuộc Bộ Văn hóa Thông tin nhanh chóng duyệt qua, trong số 18 ca khúc của Nguyễn
Văn Ðông được ph p lưu hành trong nước kể từ năm 2003. (Trong số, có vài ca
khúc quen thuộc như “Nhớ một chiều xuân”, “Về mái nhà xưa”, “Thầm kín”, “Khúc
xuân ca”, “Núi và gió”, “Trái tim Việt Nam”... Tất nhiên là không có những
bài... nhạc lính).
Trong lúc “Hải ngoại thương ca” được viết với nhạc điệu Slow
Rock khá thịnh hành giữa thập niên 1960’s, thể hiện tình cảm phấn chấn như những
bước chân đi tới, như niềm tin phơi phới về một vận hội mới, “Mấy dặm sơn khê”
có tiết tấu chậm rãi hơn, tình cảm sâu lắng hơn, phác họa n t đẹp của người
lính ngược xuôi trên khắp các nẻo đường đất nước. Một bài nhạc lính khác, “Khúc
tình ca hàng hàng lớp lớp”, là bức tranh hoành tráng về đời lính được vẽ bằng
những giai điệu, những khúc hát dạt dào tình nước, khi réo rắt, khi trầm bổng,
khi lãng mạn như một khúc tình ca, khi hùng tráng như một khúc quân hành. Nhạc
lính Nguyễn Văn Ðông từng được thể hiện qua những giọng ca khác nhau, từ Thái
Thanh, Lệ Thanh, Hà Thanh, Khánh Ngọc, Lệ Thu... đến Trần Văn Trạch, Hùng Cường,
Thanh Hùng, Duy Trác, Elvis Phương, Anh Khoa... và cả những ca sĩ “học trò” của
ông. “Chiều mưa biên giới” phù hợp với chất giọng “nam bộ” và làn hơi ấm áp của
nghệ sĩ Trần Văn Trạch, trong lúc “Khúc tình ca hàng hàng lớp lớp” lại phù hợp
với chất giọng mềm mại, ngọt ngào của Hà Thanh quyện với giọng ténor vang
lộng của Hùng Cường. Người nghe “Mấy dặm sơn khê” qua giọng hát Thái Thanh và
Hà Thanh đều nhận ra mỗi giọng có cái hay riêng, có nét đẹp riêng trong cách thể
hiện.
Hình tượng người lính chiến, khắc họa qua dòng nhạc Nguyễn
Văn Ðông, như được “nâng” lên ở tầm mức cao hơn và đẹp hơn. Lý tưởng của những
người trai anh dũng hiến thân vì tổ quốc như được tô đậm hơn, chính nghĩa của
cuộc chiến đấu gian khổ của quân dân miền Nam như được soi sáng hơn. Người đời,
qua đó, thấy yêu mến và gần gũi hơn những người lính, thấy cảm kích và ngưỡng
phục những hy sinh cao cả và thầm lặng của người chiến binh vì nước quên mình.
Không thể nào không cám ơn ông, cám ơn người nhạc sĩ đã gieo vào lòng người những
mối cảm xúc sâu đậm, những ấn tượng đẹp và sắc nét về người lính và đời lính.
Chiến tranh đã đi qua, những bài nhạc lính như thế ngày nay
ít còn được nghe hát, thế nhưng dư âm lời ca tiếng nhạc của một mùa chinh chiến
ấy và hình tượng hào hùng của người lính chiến quân lực Việt Nam Cộng Hòa vẫn
còn đọng lại mãi trong tâm tưởng biết bao người, như câu nói bất hủ của một
danh tướng Hoa Kỳ, “Những người lính già không bao giờ chết; họ chỉ nhạt mờ đi
thôi.” (“Old soldiers never die; they just fade away.” - Douglas MacArthur).
Sau bao mùa tang thương dâu bể, sau bao nhiêu giông tố dập
vùi, “người lính già” Nguyễn Văn Ðông, ở độ tuổi 75, vẫn một niềm tin sắt son
vào hồn thiêng sông núi, vẫn chưa mất niềm tin vào vận mệnh đất nước, vẫn còn
nguyên vẹn trái tim chàng lính trẻ Nguyễn Văn Ðông–nặng trĩu tình quê, tình nước–của
những ngày đầu bước chân vào đời quân ngũ.
Non nước ơi
Hồn thiêng của núi sông / kết trong lòng thế hệ
nghìn sau nối nghìn xưa
(“Mấy dặm sơn khê”)
Nghìn sau nối nghìn xưa, những thế hệ
tiếp nối những thế hệ, những bàn chân tiếp nối những bàn chân, rộn ràng theo
nhau lên đường đi xây lại những ước mơ chưa thành tựu của những người đã nằm xuống
cho một vận hội mới về trên quê hương.
“Mai sau dù có bao giờ”, (5) nghe
lại những khúc hát về người lính và đời lính, những khúc hát của một mùa nào ly
loạn, hẳn người đời vẫn còn nhớ tới những người hùng tên tuổi hay những chiến
sĩ vô danh, những người con yêu của tổ quốc, những người “nhẹ xem tính mệnh như
mầu cỏ cây”, (2) những người đã hy sinh cả máu xương, đã hiến dâng cả tuổi trẻ,
cả những năm tháng tươi đẹp nhất của đời người cho tình yêu đất nước.
Chinh chiến đã qua một thì, (6)
thế nhưng những bài hát về người lính anh dũng cầm súng chiến
đấu để bảo vệ từng
tấc đất quê hương, như những bài nhạc lính Nguyễn Văn Ðông, mỗi
lần nghe lại là mỗi lần nghe dậy lên một niềm kiêu hãnh, một nỗi tự hào về một
thiên anh hùng ca của dân tộc.
Cám ơn anh, người lính già, người nhạc sĩ Nguyễn Văn Ðông.
_________________
(1) Trả lời phỏng vấn, Hoàng Lan Chi (đài phát
thanh “Việt Nam hải ngoại”, WA. DC, 19/5/07)
(2) Chinh phụ ngâm khúc, Ðặng Trần Côn/Ðoàn Thị
Ðiểm
(3) Tây tiến, thơ Quang Dũng
(4) Tống biệt hành, thơ Thâm Tâm
(5) Kiều, thơ Nguyễn Du
(6) Người về, nhạc
Phạm Duy
Xem Tiếp Phần 7 (click) ==> Âm Nhạc Của Một Thời Phần 7: Phạm Duy, tôi còn yêu, tôi cứ yêu
Mời đọc trọn bộ (Click) ==> Âm Nhạc của Một Thời-Lê Hữu - Phần 1: Hình tượng người lính qua dòng nhạc Việt
Xem Tiếp Phần 7 (click) ==> Âm Nhạc Của Một Thời Phần 7: Phạm Duy, tôi còn yêu, tôi cứ yêu
Mời đọc trọn bộ (Click) ==> Âm Nhạc của Một Thời-Lê Hữu - Phần 1: Hình tượng người lính qua dòng nhạc Việt
Âm Nhạc Của Môt Thời Phần 2: Đoàn Chuẩn–Từ Linh, Một Mùa Nào Lãng Mạn (Lê Hữu)
Âm Nhạc Của Một Thời Phần 3: Nguyễn Hiền, nhạc, thơ tràn muôn lối
Âm Nhạc Của Một Thời Phần 4: Y Vân và ảo ảnh cuộc đời
No comments:
Post a Comment