Đoàn Dự
Nguyễn Tất Nhiên tên thật là
Nguyễn Hoàng Hải, là một nhà thơ được nhiều người Việt Nam yêu thích. Đối
với các nhà thơ khác thì người ta hâm mộ, còn đối với Nguyễn Tất Nhiên,
người ta yêu thích do thơ của Nhiên rất hay, phóng khoáng, có những nét gần
như kỳ lạ nhưng lại rất trẻ, rất hồn nhiên, cứ viết là viết, hễ thích là
viết và viết rất gần gũi với cuộc sống con người. Ví dụ: “Người từ trăm
năm/ Về ngang sông rộng/ Ta ngoắc mòn tay/ Trùng trùng gió lộng/ Thà như
giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn
không…” (Trích: Khúc tình buồn. Phạm Duy phổ nhạc và đổi tên thành ‘Thà
như giọt mưa’ nhưng xem ra cái tên Khúc tình buồn hay hơn). Ôi, tình yêu mà
chỉ có “một khúc” thôi – một khúc ngắn ngủi, nhỏ bé, giống như những giọt
mưa rơi trên tượng đá, sau đó khô đi và tác giả tự an ủi: “Có còn hơn
không”. Thật dễ hiểu, dễ gần gũi, vì ai cũng đã từng trải qua thứ tình cảm
ấy nên thấy yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên.
Thời
trẻ tuổi
Nguyễn
Tất Nhiên sinh ngày 30 tháng 5 năm 1952 tại quận Đức Tu, tỉnh Biên Hòa, mất
ngày 3 tháng 8 năm 1992 tại California, Mỹ, hưởng dương 40 tuổi. Lúc còn là
một học sinh với cái tên khai sinh Nguyễn Hoàng Hải, Nhiên theo học tại
trường Trung học Công lập Ngô Quyền Biên Hòa từ năm lớp 6 (1963) cho tới
năm lớp 12 (1970). Biên Hòa trước 1975 có hai trường trung học lớn, là
trường Ngô Quyền (công lập) và trường Khiết Tâm (tư thục, công giáo).
Trường Ngô Quyền nay vẫn còn nhưng trường Khiết Tâm đã bị tịch thu ngay sau
30-4 và trở thành trường bán công.
Khi
còn là một học sinh trung học đệ nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9), cậu học sinh
Nguyễn Hoàng Hải đã làm thơ và thơ rất hay, rất tình cảm, với những ý tưởng
đặc biệt nên được bạn bè hâm mộ. Mới học lớp 7 nhưng cậu rủ cậu bạn cùng
lớp cũng yêu thơ như mình tên là Đinh Thiên Thọ thành lập thi văn đoàn
Tiếng Tâm Tình và khuyến khích bạn bè hợp tác. Các “tác phẩm” cả thơ lẫn
văn trong thi văn đoàn đem quay ronéo rồi chuyền tay nhau đọc. Năm sau, lên
lớp 8, mới 14 tuổi (năm 1966), hai “nhà thơ học trò” này chung tiền nhau
xuất bản tập thơ đầu tay Nàng thơ trong mắt. Gia đình Nguyễn Hoàng Hải có
tiệm may âu phục lớn ngay trong trung tâm thành phố, còn gia đình Đinh
Thiên Thọ có tiệm tạp hóa cũng rất khá giả, nên tiền in thơ cũng “lo được”.
Đinh Thiên Thọ lấy bút hiệu là Đinh Thiên Phương còn Nguyễn Hoàng Hải lấy
bút hiệu Hoài Thi Yên Thi. Như vậy, Đinh Thiên Phương và Hoài Thi Yên Thi
là hai nhà thơ “nhí” có tác phẩm xuất bản rất sớm, vào năm 14 tuổi (Đinh
Thiên Thọ và Nguyễn Hoàng Hải bằng tuổi nhau).
Trong
thời gian này, Hoài Thi Yên Thi (Nguyễn Tất Nhiên) thầm yêu một cô bạn cùng
lớp gốc “Bắc kỳ di cư 54” tên là Duyên (Hoài Thi Yên Thi người miền Nam)
với những tình cảm nhẹ nhàng, trong sáng, nhưng không đi đến đâu vì tình yêu
thuở học trò thời đó là như vậy, “yêu rất nhiều mà chẳng được bao nhiêu”
chứ không như bây giờ. Tuy nhiên, dù sao thì cô bạn gái cùng lớp tên Duyên
cũng là niềm cảm hứng cho nhà thơ Hoài Thi Yên Thi và sau này “chàng” đổi
bút hiệu thành Nguyễn Tất Nhiên, sáng tác khá nhiều bài thơ rất có giá trị:
“Khúc tình buồn” (Phạm Duy phổ nhạc thành “Thà như giọt mưa”), “Linh mục”
(Nguyễn Đức Quang phổ nhạc thành “Vì tôi là linh mục”), “Ma sơ” (Pha5m Duy
phổ nhạc thành “Em hiền như ma sơ”), “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”,v.v… Người ta tìm
được 71 bài đã đăng báo và 3 tập thơ đã xuất bản, trong đó có một tập in ở
Mỹ khi Nhiên còn sống.
Tâm
hồn nghệ sĩ của Nguyễn Tất Nhiên đã bộc lộ từ lúc còn rất ít tuổi. Đầu óc
Nhiên được mô tả là lúc nào cũng như mơ mộng, suy nghĩ đâu đâu, không tập
trung ngay cả trong khi còn đang đi học. Bạn bè thời đó gọi đùa Nhiên là
“Hải-ngố” hay “Hải-khùng”. Có câu chuyện do bạn bè kể lại là một buổi sáng,
Nguyễn Tất Nhiên đứng giữa ngã tư trong thành phố Biên Hòa, hai tay đút túi
quần, cặp mắt mơ mộng nhìn lên trời như không biết đó là ngay giữa ngã tư.
Theo
lời kể của nhà thơ Thái Thụy Vy, hồi chưa nổi tiếng, trời nắng chang chang
mà “Hải-khùng” vẫn mặc chiếc áo măng-tô mua ở khu Dân sinh dưới Sài Gòn, mồ
hôi mồ kê nhễ nhại, đạp xe đạp đi theo “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” tên Duyên.
Giai
đoạn từ 1971 trở về sau
Sự
nghiệp của Nguyễn Tất Nhiên thời gian đầu không mấy thành công, thơ in
ronéo tặng cho các nữ sinh chẳng ai buồn đọc. Hai tập thơ xuất bản, gửi bán
trong tiệm sách ở đầu chợ Biên Hòa, để lâu giấy vàng cả ra cũng chẳng ai
mua.
Cho
đến khi thơ của Nhiên được một giáo sư trong trường Ngô Quyền (trước năm 75
các thầy cô giáo dạy trung học gọi là giáo sư, dạy tiểu học gọi là giáo
viên; sau 75 tất cả đều là giáo viên giống như ngoài Bắc), vốn yêu thơ và
biết thơ của Nhiên có giá trị nên gửi tới tạp chí Sáng Tạo ở Sài Gòn do nhà
văn Mai Thảo chủ trương. Lúc ấy, hễ có bài đăng trên tạp chí Văn của Trần
Phong Giao, tạp chí Sáng Tạo của Mai Thảo hay Bán nguyệt san Thời Nay của
Nguyễn Văn Thái v.v… là rất dễ được mọi người chú ý. Các nhạc sĩ Phạm Duy,
Nguyễn Đức Quang thấy thơ của tác giả Nguyễn Tất Nhiên nào đó đăng trên
Sáng Tạo rất hay và có ý lạ nên phổ nhạc, từ đó Nguyễn Tất Nhiên bắt đầu
nổi tiếng.
Bị…
lính chê!
Đầu
năm 1972, Nguyễn Tất Nhiên nhận được giấy gọi nhập ngũ Trường Sĩ quan Thủ
Đức, nhưng mới đi trình diện, khám sức khỏe tại Trung tâm Nhập ngũ số 3
đường Tô Hiến Thành thì bị các bác sĩ trong Hội đồng Giám định Y khoa… chê
và cho về với lý do “tâm thần không ổn định”.
Đối
với anh chàng lãng tử đầu óc luôn luôn để đâu đâu này thì đi lính cũng
được, không đi lính cũng được, chẳng sao cả. Nhưng đã đi rồi lại bị cho về
vì… đầu óc không bình thường thì cũng hơi mắc cỡ với bạn bè. Do đó, chàng
bèn nói dóc rằng chính chàng giả bộ tâm thần, đánh lừa được Hội đồng Giám
định nên họ cho về. Giải thích riết rồi… chính chàng cũng tưởng rằng mình
có tài “giả điên” thật, nên bèn lấy làm khoái chí lắm, hễ gặp bạn bè là
khoe tới khoe lui hoài.
Thế
rồi, sau 1975, ai cũng nghèo, Nguyễn Tất Nhiên may mắn xin được một chân làm
nhân viên điều hành trong Hợp tác xã xe lam ở bến xe Tam Hiệp, Biên Hòa,
đồng lương tuy chẳng bao nhiêu nhưng cũng đỡ phải chơi không. Ngoài ra,
Nhiên cũng có một người anh và một người chị ở bên Pháp làm ăn từ trước rất
khá giả, luôn luôn gửi quà (tức các thùng hàng, lúc đó chưa được gửi tiền
như bây giờ) về giúp đỡ nên gia đình không đến nỗi nào. Không phải lo cho
chuyện gia đình, buổi tối buồn tình chàng đi học đàn ghi-ta và học sáng tác
âm nhạc với nhạc sĩ Nguyễn Hữu Nghĩa nhưng không thành công. Chàng chẳng
sáng tác được bản nhạc nào. Cuối năm 1980, gia đình được bảo lãnh sang
Pháp, trong đó có Nhiên. Lúc ấy chàng 28 tuổi.
Ba
năm sau, có một cô gái tên Lê Minh Thủy từ bên Mỹ đi du lịch Âu châu, sang
Pháp. Cô này vẫn hâm mộ thơ của Nguyễn Tất Nhiên, nhất là qua các bài đã
được nhạc sĩ Phạm Duy và nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang phổ nhạc, bèn tìm đến
thăm. Họ gặp nhau, yêu nhau rồi ít lâu sau chàng sang Mỹ làm đám cưới với
nàng và ở lại với vợ tại Mỹ, sống ở Quận Cam, California. Năm 1987, theo
gợi ý của vợ, chàng gia nhập Hội Nhà Văn Việt Nam tại hải ngoại. Đó là một
mối tình đẹp, họ rất yêu nhau và có với nhau hai con trai.
Ngày
3 tháng 8 năm 1992, người ta thấy nhà thơ lãng tử Nguyễn Tất Nhiên chết
trong chiếc xe hơi của mình đậu dưới bóng cây trong một sân chùa thuộc
California, có lẽ do bị trụy tim bất ngờ.
Ta
phải khổ cho đời ta chết trẻ
Phải
ê chề cho tóc bạc với thời gian
Phải
đau theo từng hớp rượu tàn
Phải
khép mắt sớm hơn giờ thiên định
Đây
là những câu thơ được coi là “tiền định” trích trong bài “Giữa trần gian
tuyệt vọng” làm năm 1972, lúc Nguyễn Tất Nhiên mới 20 tuổi. Những câu thơ
này được khắc trên mộ bia của chàng. Mộ Nguyễn Tất Nhiên nằm tại Vườn vĩnh
cửu trong nghĩa trang Westminster, phía tây Little Saigon, California. Rất
thường xuyên, các du khách Việt đến thăm khu phố Bolsa – Little Saigon có
ghé ngang qua thăm mộ thi sĩ.
Theo
lời nhà báo Đoàn Thạch Hãn thì bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do nhà thơ Du
Tử Lê đặt. Ông Hãn kể rằng theo nhà thơ Phạm Chu Sa, “có lần Nhiên bộc bạch
rằng bút hiệu Nguyễn Tất Nhiên là do Du Tử Lê đặt. Nhiên bảo, ngay lần đầu
mới gặp, Du Tử Lê đã chê cái bút hiệu Hoài Thi Yên Thi. Nhiên hỏi Du Tử Lê:
‘Bạn bè em ai cũng chê. Cái bút hiệu này hơi sến phải không?’. Lê đáp: ‘Tất
nhiên’. Du Tử Lê nói thêm: ‘Họ Nguyễn hả? Ừ thì lấy luôn là NguyễnTất Nhiên
đi’”. Thế là cái tên định mệnh đó ra đời, gắn chặt với thi nghiệp của một
con người tài hoa bạc mệnh.
Bài
thơ dưới đây được xem là cuối cùng của Nguyễn Tất Nhiên:
Tình
ơi hỡi tình
Lâu
rồi…, không nhớ bao lâu
Tìm
nhau trong cõi bạc đầu nhân gian.
Em
về, dưới gót trăng tan
Có
nghe thiên cổ tiếng ngàn thông đau?
*
* *
Lâu
rồi…, lâu lắm xa nhau
Còn
chăng hư ảnh trong màu thời gian.
Em
đi, tóc lộng mây ngàn
Ngàn
mây lộng khổ mây bàng bạc theo.
*
* *
Lâu
rồi…, không biết bao nhiêu
Nắng
mưa trên những tàn xiêu đổ đời.
Hôm
em êm ả điệu ngồi,
Sau
lưng là những tình ơi hỡi tình.
“Người
xưa” lên tiếng
Trong
số những bài thơ Nguyễn Tất Nhiên để lại, người con gái tên Duyên có một vị
trí đặc biệt. Trong “Khúc tình buồn”, Nguyễn Tất Nhiên đã thấy “Người từ
trăm năm về qua sông rộng. Ta ngoắc mòn tay (nhưng chỉ thấy) trùng trùng
gió lộng”. Anh yêu người con gái ấy song không thể đến gần, bởi vì người đó
cứ xa cách muôn trùng. Anh yêu, cuồng nhiệt, bỏng cháy mà không được đáp
lại nên điều ước thật… điên: “Thà như giọt mưa/ Vỡ trên tượng đá/ Thà như
giọt mưa/ Khô trên tượng đá/ Có còn hơn không”. Sau này, một người bạn của
Nguyễn Tất Nhiên kể lại là đã hỏi tại sao lại “thà như giọt mưa” thì anh
trả lời hết sức cắc cớ: “Ai biểu Duyên không yêu tôi thì tôi làm giọt mưa…
vỡ trên vai nàng”.
Người
con gái xứ Bắc tên Duyên đã đi vào thơ Nguyễn Tất Nhiên là ai? Bóng hồng ấy
có sức hút mãnh liệt thế nào khiến nhà thơ đắm say, si tình, điều đó gợi ra
trí tò mò của người yêu thơ Nguyễn Tất Nhiên… Chính từ thắc mắc ấy, nhà báo
Hà Đình Nguyên đã bỏ công ra truy tìm nguyên mẫu trong hàng chục năm ròng
rã từ nhiều nguồn tin, bằng các mối quan hệ và bằng cả cơ duyên.
Trong
một lần tâm sự với nhà thơ Lê Minh Quốc, anh thành thật nói rằng mấy chục
năm nay đã cố tìm tòi về người đẹp tên Duyên trong các bài thơ nhưng “bó
tay”. Lê Minh Quốc lục trong trí nhớ và giới thiệu Hà Đình Nguyên tìm gặp
nhà báo Lưu Đình Triều, người học cùng trường Ngô Quyền thuở trung học với
người đẹp tên Duyên và cả nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên ở Biên Hòa, Đồng Nai.
Qua
trí nhớ của người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô gái tên Duyên cũng hé mở.
Theo Lưu Đình Triều, nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên tên thật là Nguyễn Hoàng Hải
sinh năm 1952, sau mới lấy bút danh Nguyễn Tất Nhiên. Còn cô Duyên, tên đầy
đủ là Bùi Thị Duyên dân “Bắc Kỳ”, gia đình di cư vào Nam năm 54. Tình yêu
của Hải dành cho Duyên cả trường Ngô Quyền ai cũng biết. Ngoải ra, Duyên
còn là nguồn cảm hứng, là nguyên mẫu cho nhiều bài thơ của Nguyễn Tất Nhiên
khi anh ở độ tuổi đôi mươi.
Những
tưởng Nguyễn Tất Nhiên sẽ chiếm được trái tim “người đẹp” khi tên cô ngân
vang cùng nhạc Phạm Duy trong lòng bao nhiêu người yêu mến. Thế nhưng,
người đẹp tên Duyên và nhà thơ Nguyễn Tất Nhiên vẫn đường hai lối rẽ. Sau
này, họ cùng sống ở Mỹ nhưng không biết có cơ hội nào gặp lại nhau không,
vì một người ở Michigan, một người ở California.
Cô
gái xứ Bắc mang tên Bùi Thị Duyên ngày nào hiện nay vẫn sống tại Michigan,
Hoa Kỳ. Sau này, qua những người bạn của Nguyễn Tất Nhiên, cô đã nhớ lại
những kỷ niệm thật đẹp của tuổi học trò: “Tụi này học chung cùng lớp với
nhau từ năm đệ tứ. Nhưng lúc đó tôi ngây thơ, chưa nghĩ gì hết, còn Nguyễn
Tất Nhiên nghĩ gì hay không thì tôi không biết. Gặp nhau, biết nhau từ lúc
14, 15 tuổi. Tôi được tặng một quyển thơ mà Nguyễn Tất Nhiên nói là có ba
bản đặc biệt. Một bản của Nhiên, một bản tặng tôi và một bản cho ai tôi
quên mất rồi. In ra khoảng chừng 100 quyển thôi. Tôi biết sự hình thành tập
thơ của Nguyễn Tất Nhiên chứ không phải không. Tất cả bạn bè trong lớp ai
cũng biết, nhưng đó là chuyện hồi nhỏ”.
Trong
tập thơ Thiên Thai, Nguyễn Tất Nhiên có rất nhiều bài nói về người thiếu nữ
tên Duyên và tập thơ này viết bởi nguồn cảm hứng duy nhất đó. “Dĩ nhiên là
phải xúc động bởi nguyên một tập thơ viết cho tôi. Nhưng tôi đã nói với
Nguyễn Tất Nhiên ngay từ đầu rằng mình là bạn thôi. Nếu có ý gì đó thì tôi
không gặp nữa. Về sau anh ấy phải công nhận là muốn làm bạn, để còn được
tiếp tục gặp một người bạn như tôi. Chắc anh ấy cũng quý tôi lắm” – người
con gái tên Duyên chia sẻ.
Mới
hay, tình yêu đơn phương, hay tình dang dở khiến người ta nghĩ đến nhau
nhiều. Những vần thơ đã sống cùng thời gian, và người con gái tên Duyên
thành biểu tượng thơ của Nguyễn Tất Nhiên. Những bài thơ đã làm cho cái tên
Duyên trở nên nổi tiếng và ý nghĩa. Cái ý nghĩa gắn với một tình yêu cuồng
si của một tài thơ điên, phận mỏng.
Nguyễn
Tất Nhiên yêu và chẳng ngại ngùng khi gọi tên người mình yêu trong thi ca.
Trong bài “Duyên của tình ta con gái Bắc”, anh viết: “Em nhớ giữ tính tình
con gái Bắc/ Nhớ điêu ngoa nhưng giả bộ ngoan hiền/ Nhớ dịu dàng nhưng thâm
ý khoe khoang/ Nhớ duyên dáng, ngây thơ mà xảo quyệt/ Nếu vì em mà ta phải
điên tình/ Cơn giận giữ đã tận cùng mê muội/ Thì đừng sợ, Duyên ơi, thiên
tài luôn yếu đuối…”
Đoàn
Dự ghi chép
***
Đọc
thơ Nguyễn Tất Nhiên
Vĩnh Hảo
Anh
nổi tiếng rất sớm. Vì thơ anh đi sớm hơn bước chân còn ngại ngùng bỡ ngỡ
của thế hệ trẻ thời ấy trước sự tràn ngập của văn hóa phương Tây, qua hình
ảnh người lính viễn chinh Mỹ, và qua phong trào hiện sinh mô phỏng trễ tràng
trên đất nước đói nghèo, chiến tranh. Anh mạnh dạn nói được tiếng nói của
tình yêu tuổi trẻ với sân trường, kỳ thi, chiến tranh, mất mát, hoài vọng,
tuyệt vọng... Chẳng phải sớm gì trong thể loại thơ, mà sớm trong phong cách
biểu hiện. Anh dùng thứ ngôn ngữ của thời đại, rất hiện thực, không đẽo
gọt; vậy mà thứ ngôn ngữ ấy bỗng nhiên mới, lạ, và được đón nhận nồng
nhiệt. Bắt được giọng thơ tươi rói và đầy sức thu hút của anh, một nhạc sĩ
tài danh phổ ngay thơ của anh thành nhạc, làm rung động bao trái tim cuồng
nhiệt yêu đương thời chiến loạn. Vậy rồi thơ anh cất lên thành cơn sóng
lớn, vượt bờ. Không ai mà chẳng biết thơ anh, không ai mà không hát nhạc
phổ thơ của anh.
Hãy
đọc một số bài thơ nổi tiếng được phổ nhạc mà ai cũng biết; và nên nhớ rằng
lúc ấy, Nguyễn Tất Nhiên chỉ mới xấp xỉ ở tuổi hai mươi, để thấy cái tài
hoa dị thường của anh:
Khúc
Buồn Tình
Người
từ trăm năm
về
ngang sông rộng
ta
ngoắc mòn tay
...trùng
trùng gió lộng
(thà
như giọt mưa
vỡ
trên tượng đá
thà
như giọt mưa
khô
trên tượng đá
có
còn hơn không
mưa
ôm tượng đá)……
người
từ trăm năm
về
như dao nhọn
ngọt
ngào vết đâm
ta
chết âm thầm
máu
chưa kịp đổ
(thà
như giọt mưa
vỡ
trên tượng đá
thà
như giọt mưa
khô
trên tượng đá
có
còn hơn không
mưa
ôm tượng đá)
(1970)
Trong
tình yêu, thơ anh táo bạo vay mượn những hình ảnh thánh thiện để ví von
mình, ví von người tình. Có thể nói lối vay mượn này là bước khai phá có
một không hai của anh vào thời ấy, khiến thơ anh càng thêm phần đặc dị,
ngời sáng, mà lại gần gũi biết bao với tâm tình giới trẻ.
Ma
Soeur
đưa
em về dưới mưa
nói
năng chi cũng thừa
phất
phơ đời sương gió
hồn
mình gần nhau chưa?
tay
ta từng ngón tay
vuốt
lưng em tóc dài
những
trưa ngồi quán vắng
chia
nhau tình-phôi-thai
xa
nhau mà không hay
(hỡi
em cười vô tội
đeo
thánh giá huy hoàng
hỡi
ta nhiều sám hối
tính
nết vẫn hoang đàng!)
em
hiền như "ma sœur"
vết
thương ta bốn mùa
trái
tim ta làm mủ
"ma
soeur" này "ma soeur"!
(1971)
Linh
Mục
vì
tôi là linh mục
không
mặc áo nhà giòng
nên
suốt đời hiu quạnh
nên
suốt đời lang thang!
tín
đồ là người tình
người
tình là ác quỷ
ác
quỷ là quyền năng
quyền
năng là tín đồ
tín
đồ là người tình
thiêu
hủy lầu chuông tôi
(vì
tôi là linh mục
giảng
lời tình nhân gian!)
(1970)
Đụng
chạm, lôi kéo những biểu tượng linh thiêng, đưa vào thơ và đưa vào tình yêu
đời thường. Vậy mà anh chẳng làm mất lòng ai. Người ta vẫn cứ thích thú ca
hát lời thơ của anh:
Hai
năm tình lận đận
hai
năm tình lận đận
hai
đứa cùng xanh xao
mùa
đông, hai đứa lạnh
hơi
thở dài như nhau (?)
hai
năm tình lận đận
hai
đứa cùng hư hao
(em
không còn thắt bính
nuôi
dưỡng thời ngây thơ
anh
không còn luýnh quýnh
giữa
sân trường trao thư!)
hai
năm tình lận đận
hai
đứa đành xa nhau
(1972)
Anh
thoát ra khỏi những hình ảnh và ngôn ngữ thơ chắt lọc, sang cả quí phái của
nền thơ truyền thống. Thơ anh, không cứ là trăng là gió, là bến nước, bờ
mây, tóc thề và áo dài bay tha thướt, mái tranh, cây đa hay gốc chuối...
(như thể là người thơ cứ suốt đời ở nhà quê, cảnh cũ!) mà thay vào đó là
những hình ảnh rất thực của thị thành với "tóc demi garçon", tóc
bính, cột điện, với xe đạp, cà phê, cà phê đá, rạp cải lương, nhà ga và toa
tàu, mùa thi với văn bằng... Tự ví mình như là một gã ngông cuồng, là người
phá phách, là người vô đạo, là sa-tăng ác quỷ... nhưng trên thực tế thì anh
rất hiền, và trong tình yêu, thường là người thua cuộc, hoặc tự nguyện chịu
thua cuộc. Trách người chỉ là trách nhẹ nhàng. Còn lại là trách mình.
Thơ
tình của anh vì vậy mà phổ cập, mà thành của chung. Ai đọc cũng thấy, cũng
nghe được nhân dáng và kinh nghiệm của chính mình trong ấy. Từ thứ tình yêu
reo vui, nhảy múa theo nhịp chân của "cô Bắc-kỳ nho nhỏ" cho đến
tình yêu của người tuyệt vọng... anh nói thay mọi người bằng thánh ca của
tình yêu.
Nhưng
đặc biệt là lúc khổ đau vì tình, thơ anh chùng xuống, gãy đổ, nát tan... và
quả là anh đã đi thật sớm, trước thế hệ của anh, trong sự cảm nhận cũng như
lối biểu đạt về tình yêu:
Thiên
thu
sao
thiên thu không là xa nhau?
nên
mưa xưa còn giăng ngang hồn sầu
tôi
đứng như cây cột đèn gẫy gập
và
một con đường cúp điện rất lâu!
(.)
sao
thiên thu không là lãng quên?
nên
tình xưa còn cháy âm thầm
tôi
đứng như căn nhà nám lửa
và
những người thân trốn chạy vội vàng!
(1970)
Trong
thơ lục bát, anh vẫn theo vần nhịp cũ nhưng lối diễn đạt rất là thảnh thơi,
thoải mái, tự nhiên như nói chuyện. Đây, vần lục bát của hơn 30 năm trước:
Nên
thời gian ấy ngùi trông
giọt
mưa xanh mấy tuổi nàng
tôi
nghe lá rụng như vàng áo xưa
hơi
tàn tro ấm lần đưa
ba
năm khơi lại cũng vừa đủ đau!
sớm,
trưa, chiều, tối, ra, vào
người
chưa yên nỗi thầm xao xác lòng
nên
thời gian ấy ngùi trông
khô
như hạt bụi trưa ngừng ngập bay...
(1970)
Hôm
nay
khi
không tình não nùng buồn
gót
chân ai bỏ con đường nhớ nhung
gót
chân ai nhẹ vô cùng
dẫm
lên xác-lá-tôi từng tiếng kêu
gót
chân ai bước, nhẹ hều
bước
qua tôi, bước, hư nhiều thói quen!
(1974)
Đó
là Nguyễn Tất Nhiên của tuổi hai mươi, với TÌNH qua tập Thơ Nguyễn Tất
Nhiên; và bây giờ hãy đọc Nguyễn Tất Nhiên với TÂM qua Tâm Dung. Tập trước
được xuất bản năm 1980 (gom lại những bài thơ cũ trước năm 1975 và một số
ít cuối thập niên 70) khi anh mới vượt biên ra hải ngoại; tập sau được xuất
bản 9 năm sau đó. Tựa tập thơ là Tâm Dung, bao gồm nhiều bài thơ bắt đầu
bằng chữ TÂM (như Tâm khai, Tâm sân, Tâm hoa, Tâm xuân, Tâm hồng, Tâm
hương, Tâm mưa, Tâm sương, Tâm ca, Tâm cảm...) được chính tác giả mở đầu
bằng một đoạn rất thâm trầm về tư tưởng Phật giáo, khiến người đọc có cảm
tưởng là sẽ được đọc một tác phẩm về Thiền vậy.
Nhưng
không. Dù mào đầu như thế, dù chọn lựa chủ đề và tựa đề như thế, thơ anh
vẫn cứ là thơ, không phải là tập giáo nghĩa khô khan, cứng nhắc. Chỉ khác
là anh đã chững chạc hơn (dĩ nhiên!), bớt bông đùa hơn, và trải đều lên
những trang thơ là cõi lòng bát ngát của anh.
Tâm
nguyệt
từ
gót sen hài em hút dấu
sầu
tôi như lá thẫn thờ bay
ví
dù lá ngập đường em bước
lá
cũng xin đừng bận gót ai...
từ
mắt chia lòng sông cách núi
sầu
tôi như bụi khắp không gian
ví
dù bụi ố hoen màu trắng
bụi
cũng xin đừng vương mắt xanh...
(06/01/1989)
Tâm
duyên
mùa
hạ anh ra đường
thấy
mới tinh tất cả
thấy
nắng nôi dịu dàng
đang
vuốt ve cây cỏ
thấy
cây cỏ dễ thương
đang
làm duyên, tóc xõa
thấy
lửa trời nung ngon
chín
bòn bon sự sống
thấy
sự sống nhịp nhàng
theo
đỏ, vàng, xanh, đỏ...
thấy
phố xá từ tâm
đèn
cười hoa ba đóa...
(17/01/89)
Rõ
ràng là anh đã học ở đâu, từ những vật vô tri, từ người tình, từ cuộc đời,
từ nỗi buồn đau, từ cơn thất chí, từ niềm tuyệt vọng, từ cơn bệnh tưởng, từ
một nền đạo lý hun đúc tâm anh, hay từ tất cả những thứ trên: đức khiêm
nhẫn và lòng tha thứ, chịu đựng vô cùng:
Tịnh
khúc
buồn
ơi...
tôi
bỏ tôi rời rã
bất
lực làm sao trước cuộc đời
ừ
nhỉ, trước giờ tôi chiến đấu
cho
niềm bất lực buổi hôm nay!
ừ
nhỉ, bây giờ tôi mới biết
ghế
bàn nên kính trọng như thầy
bàn
ghế dạy tôi điều nhẫn nhục
dạy
tôi bình thản thứ tha đời
(13/01/89)
Điều
anh học được, làm được, cũng cho ta học được. Một tấm lòng khiêm cung,
khiêm nhẫn. Một tấm lòng bao dung, tha thứ, và trên hết, vẫn tiếp tục yêu
thương con người, yêu thương cuộc đời.
Sau
đây là bài Tâm Dung, bài thơ được lấy đặt tên chung cho tập thơ. Bài thơ
được đặt ở cuối tập. Không rõ sau bài này, Nguyễn Tất Nhiên còn những bài
khác chăng. Nhưng đọc xong bài này, tôi nghĩ đời thơ của anh đến ngang đây
cũng quá đủ rồi. Không cần phải thêm một bài nào nữa. Đây không phải là một
bài thơ tuyệt tác của nền văn học nước nhà, mà là lời tỏ tình tuyệt vời của
một tín đồ thuần thành của tình yêu, suốt đời chỉ tận tụy yêu, và tụng đọc
bài kinh yêu. Sau đây là vài trích đoạn:
Tâm
dung
1.
có thể nào trẻ thơ sống bên ngoài lòng mẹ? có thể nào anh sống ngoài tầm
mắt em?
(...)
5.
tình yêu sao mà đau khổ với khổ đau, toại nguyện phải chăng là hạnh phúc?
em lý lẽ gần nhau tình sẽ chết, vậy người ta sinh ra, sống, để làm chi?
6.
anh cô đơn ca hát vu vơ lời gì vô ý chỗ đám đông nơi con người dễ dàng phỉ
báng kẻ điên khùng, ấy chết, anh chẳng thể viện lý do cuộc sống vắng em, dù
em sẽ tin, nhưng thảm trải dưới chân có lời nào giải thích? dưới chân tình
yêu, anh xin thành khẩn hứa chịu đựng ngang nhau hết thảy kẻ thân, thù.
(19/01/89)
Sau
đó không thấy thơ Nguyễn Tất Nhiên nữa. Rồi một hôm, nghe tin anh mất. Trên
chiếc xe cũ, đậu dưới bóng cây, trong vườn một ngôi chùa. Đời anh, lúc nào
cũng đi sớm hơn kẻ khác. Đời không ruồng bỏ anh, cũng chẳng người tình nào
ruồng bỏ anh (không ai có thể ruồng bỏ một người đáng yêu như thế! mà cũng
chẳng ai có thể ruồng bỏ được một gã yêu tha thiết, yêu miệt mài, yêu thủy
chung suốt đời như thế!). Chỉ có anh, tự ý đi thật sớm, rời bỏ cuộc đời, để
lại một cõi thơ bát ngát. Không cần phải tội nghiệp cho anh, và đừng tưởng
anh khổ đau cùng tận! Anh là kẻ hạnh phúc vô cùng tận với tình yêu bất diệt
và tấm lòng bao dung hiếm có. Và thơ anh, đã hóa thân khắp nơi khắp chốn:
là ngọn cỏ mềm, là gió mơn man, là dòng sông êm, là bàn ghế lặng thinh, là
đất trời mênh mang vô hạn... Nơi đó, có đủ hương vị của tình yêu cũng như
những hỉ, nộ, ái, ố... bình thường của một con người, dù là con người thi
sĩ, hay văn sĩ. Nhưng tất cả đều được dung chứa trong một cõi lòng thật
rộng.
Có
thể nói, giới hạn giữa sống-chết, qua Tâm Dung ấy, không còn nữa.
***
Nhạc
sĩ Phạm Duy nói về việc phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên
Saigon
1972. Ðây là lúc những khổ đau của Tết Mậu Thân chưa kịp phai mờ trong đời
sống của mọi người thì xẩy ra những nhức nhối của mùa hè đỏ lửa… Tôi hết
chạy trốn vào đạo ca thì lại nhào ra với chiến ca, hết hạ mình xuống với
vỉa hè ca, tục ca thì lại vươn lên với nữ ca, bé ca, bình ca… Tôi thèm
thuồng được soạn tình ca, nhưng phải là tình ca không rầu rĩ cơ…
Thế
rồi tôi gặp Nguyễn Tất Nhiên. Trong bầu không khí thơ ở miền Nam hơi nặng
nề vào lúc đó, đầy rẫy những bài thơ chủ đề về chiến tranh, hoà bình… thì
thơ của chàng thư sinh mới 17 tuổi này là thơ phi chính trị. Thơ rất hồn
nhiên, rất ngộ nghĩnh, theo tôi, nếu đem phổ nhạc thì sẽ cũng sẽ rất hợp
với giọng hát trẻ trung (Duy Quang) trong ban nhạc gia đình là ban THE
DREAMERS mà tôi đang cần “lăng xê”.
Sau
khi tôi phổ bài Thà là Giọt Mưa Rớt Trên Tượng Ðá, Nguyễn Tất Nhiên cung
cấp cho tôi thêm nhiều bài thơ để tôi biến thành những ca khúc trẻ trung
của thời đại như Cô Bắc Kỳ Nho Nhỏ, Em Hiền Như Ma Soeur, Anh Vái Trời hay
là Anh Nam Kỳ Dễ Thương, Hãy Yêu Chàng, Hai Năm Tình Lận Ðận… Những tên bài
hát phần nhiều do tôi đặt ra, chẳng hạn CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ được rút ra từ
bài thơ mang tên ÐÁM ÐÔNG.
Ði
qua đời tôi có khá nhiều thi nhân thuộc nhiều thế hệ, đa số đều như tôi,
đều khá hồn nhiên, nghĩa là có tí máu điên. Nhưng trong làng thơ Việt Nam,
có ba nhà thơ hồn nhiên nhất, có nhiều máu điên nhất, đó là Nguyễn Ngu Ý,
Bùi Giáng và Nguyễn Tất Nhiên… cả ba vị đều đã từng là thượng khách của
DƯỠNG TRÍ VIỆN BIÊN HOÀ, nơi tôi đã có lần đến thăm một trong ba vị đó
(Cũng cần ghi thêm : Giám Ðốc của dưỡng trí viện này là con trai của nhà
văn Bình Nguyên Lộc, bạn tôi).
Phạm
Duy
|
No comments:
Post a Comment