‘Giáo dục Việt Nam đang rất cần một nhà lãnh đạo tầm
cỡ quốc gia!’
Cát Linh, RFA
2018-09-19
2018-09-19
Công trình giáo dục của
giáo sư Hồ Ngọc Đại được gọi tên là chương trình Công nghệ Giáo dục với cách
đánh vần “vuông, tròn, tam giác” là đề tài được tranh luận rất sôi nổi trong
những tuần vừa qua. Rất nhiều ý kiến chỉ trích về chương trình có thời gian
thực nghiệm trong suốt 40 năm qua. Động thái này cho thấy người dân trong nước
đang thể hiện sự hoang mang về nền giáo dục của nước nhà.
Từ đó, câu hỏi lớn
được đặt ra là Giáo dục ở Việt Nam đang ở đâu và đang cần gì?
RFA có dịp trao đổi
với Tiến sĩ Nghiêm Thuý Hằng, PGĐ trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc, khoa Đông
Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội và được bà chia sẻ ý
kiến về vấn đề này qua thư điện tử như sau.
RFA: Một công
trình giáo dục vốn đã được thực nghiệm trong suốt 40 năm, đến nay mới bùng nổ
'1 cơn địa chấn" và những phản biện. Điều này cho thấy sự hoang mang của
xã hội, của người dân có chính đáng hay không , liệu họ có đang thật sự
là nạn nhân của công nghệ giáo dục?
Trong bối cảnh Quốc
hội Việt Nam đang bàn thảo việc chỉnh sửa luật Giáo dục, thảo luận, trưng cầu ý
kiến chuyên gia và ý kiến nhân dân để có quyết định cuối cùng về hai vấn đề cực
kỳ thiết thân với hàng chục triệu gia đình Việt Nam, đó là vấn đề tổ chức kỳ
thi PTTH, lấy kết quả vào đại học và vấn đề chương trình, sách giáo khoa mới 2020
, không khó hiểu tại sao cuốn sách Tiếng Việt công nghệ giáo dục lớp 1 của
GS.TSKH Hồ Ngọc Đại gần đây đã trở thành một chủ đề rất nóng, “một cơn
địa chấn” tiếp ngay sau cơn địa chấn gian lận thi cử hiện vẫn chưa hết chấn
động và bàng hoàng trong xã hội , kéo theo những phản biện trên
mạng xã hội và trên báo chí cả trong và ngoài nước từ cả những người trước đây
rất ít khi lên tiếng.
Sau 40 năm thực
nghiệm, công nghệ giáo dục của GS.TS Hồ Ngọc Đại đã phần nào khẳng định được vị
thế của mình với tư cách một “ phòng thí nghiệm” đổi mới, đào tạo
sản phẩm con người tự do, có tư duy khai phóng, “ là chính nó” theo lời
của chính GS Đại, không chịu sự áp chế của bố mẹ hay thầy cô. Đây đồng thời
cũng là một kênh thử nghiệm những cái mới trong giáo dục của Bộ giáo dục Việt
Nam. Chính từ cái nôi ban đầu này đã đào tạo ra một thế hệ học trò tài năng và
thành đạt, có những đóng góp nhất định cho xã hội, góp phần khẳng định sự thành
công của mô hình thực nghiệm này trong hoàn cảnh kinh tế xã hội đặc thù
từ thập kỷ 70.80, với phân khúc học sinh có bố mẹ phần lớn là những trí thức và
quan chức trong xã hội Việt Nam thời đó. Hay nói cách khác, mô hình này
từng được coi là nhóm học sinh được hưởng ưu đãi và đặc quyền đặc lợi từ
mô hình thực nghiệm với các thày cô giỏi, được tuyển chọn rất kỹ từ trường sư
phạm, nhiều thày cô đồng thời là cán bộ của Viện Khoa học giáo dục trực thuộc
Bộ Giáo dục .
Trong bối cảnh năm
1978, Việt Nam bị bưng bít thông tin và vô cùng khó khăn do bị Mỹ cấm vận,
Trung Quốc quay lưng , mô hình công nghệ giáo dục có thể coi là một luồng gió
mới tươi mát cho giáo dục đào tạo Việt Nam thời đó. Trong muôn vàn ý kiến phản
biện từ phụ huynh và cựu học sinh cũ của trường Thực nghiệm, trong đó có cả một
đại biểu quốc hội công khai bênh vực, không khó để nhận thấy phần đông họ đều
tỏ ý hài lòng, mến trường mến lớp, nhớ ơn thày cô. Thậm chí ngày nay có nhiều
cựu học sinh lại tiếp tục tín nhiệm gửi con cho trường thực nghiệm hoặc
hệ thống CDG hiện vẫn đang sử dụng bộ sách công nghệ giáo dục của GS Hồ
Ngọc Đại. Với bộ phận học sinh trước đây do thày Đại trực tiếp dạy dỗ và quản
lý, không có cơ sở để cho rằng họ là nạn nhân của công nghệ giáo dục, trái lại
họ là người hưởng lợi và có vẻ rất thỏa mãn, hài lòng.
Một số thày cô từng
tham gia dạy thực nghiệm thời kỳ đầu cho công nghệ giáo dục như GS.TS
Nguyễn Minh Thuyết và một số cộng sự đã tham gia làm bộ sách cải cách năm 2000
và hiện đang được tham gia làm tổng chủ biên bộ sách giáo
khoa mới với kỳ vọng góp phần “đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục Việt
Nam” . Trước tiên cần sơ bộ khẳng định, việc hiện nay giáo dục Việt Nam có một
số đổi mới theo xu thế của Phương Tây như không chấm điểm tiểu học
, việc chuyển đổi từ mô hình học Văn kèm theo học làm người trước đây
sang mô hình học như một nhà Việt ngữ học, ngôn ngữ học nhí, có
sách Tiếng Việt riêng, sách tập làm văn riêng, được GS.TSKH Nguyễn Xuân Hãn
nhận xét rất hài hước là ‘không giống ông cha vẫn dạy mà giống như dạy cho
người ngoài hành tinh” có dấu hiệu ban đầu là xuất phát từ thực
tiễn dạy thực nghiệm của GS.TSKH Hồ Ngọc Đại và thành quả nghiên cứu của
đội cán bộ giáo dục đi học từ Nga về. Điều này nếu muốn khẳng định có hay
không, chắc cũng cần Bộ giáo dục đứng nghiên cứu, kiểm chứng thêm
mới rõ được. Đây có thể coi như một lần tổng kết kinh nghiệm thực nghiệm
40 năm, phàm là làm khoa học trăm năm trồng người, nhất định cần phải có tổng
kết nghiêm túc, huống hồ mô hình này giờ đã thành đại trà, lan ra tận 800.000
cháu, không thể không nghiên cứu cẩn thận nghiêm túc và trả lời cho bố mẹ các
cháu rõ.
Triết lý giáo dục “ Đi
học là hạnh phúc” của GS Hồ Ngọc Đại nghe có vẻ hấp dẫn, có ai trên
đời này từ lớn đến nhỏ không truy cầu hạnh phúc đâu. Triết thuyết “Mỗi buổi
sáng học sinh đi từ nhà đến trường rồi lại đi từ trường đến
nhà” đã chỉ rõ yếu tố thời gian là tuyến tính, mất là mất không bao giờ quay
trở lại, vậy nên cần trân trọng từng giai đoạn phát triển, khai mở đúng lúc
phẩm chất và năng lực của trẻ em, triết thuyết này cũng hoàn toàn phù hợp
với đường hướng giáo dục nâng cao phẩm chất năng lực người học hiện nay. Thế nhưng , cái dở chết người
của hệ thống này là tính không toàn vẹn, không thành chỉnh thể, lỗ mỗ đỗ
lạc, điển hình kiểu tư duy làm khoa học theo kiểu tiểu nông, đánh
trống bỏ dùi, thiếu tinh thần khoa học. Tuy rất kính trọng tâm huyết của
GS Đại, nhưng mới thiết kế lên đến được lớp 3 thì làm sao giúp
người học tiếp tục leo lên đỉnh cao của lâu đài trí tuệ và cảm xúc. Nó khiến
tất cả các học sinh từng đi theo GS Đại tiếp tục phải bò trên những cái thang
khác, nhờ những người thày khác mới có tương lai và có hôm nay. Menđen nghiên
cứu với đậu Hà Lan, Pieget nghiên cứu ngay với chính ba đứa con của mình, cả
hai ông đều phải ghi chép cẩn thận rồi công bố quốc tế, đó mới là tinh thần vì
con người và tinh thần khoa học chân chính.
Thày thiết kế, trò thi
công thì người biết thiết kế vẫn chỉ là thày, nguy hại hơn nữa, chỉ một mình
ông Hồ Ngọc Đại thiết kế, không cho các thày cô khác hay bố mẹ can dự vào thiết
kế, trò chỉ có thi công thôi, mà mới thi công được đến tư duy lớp 3, làm
được mấy vần thơ non nớt, học được thêm mấy cái cơ số khác ngoài cơ số 10, biết
đến ánh xạ thôi thì sau làm nên được trò trống gì đây? Sự thành công nếu có của
người học có lẽ nằm nhiều ở môi trường giáo dục và thày cô, thậm chí có thể nằm
ở yếu tố gene vì theo nghiên cứu của Mỹ, gene chiếm tới 70% yếu tố thành công
của người học, chưa chắc đã nằm ở bản thân công nghệ giáo dục.
Một tác dụng phụ nữa
có thể có của công cuộc thực nghiệp và lôi lý thuyết giáo dục của Liên Xô cũ áp
dụng vào để cải cách giáo dục Việt Nam , góp phần khiến giáo dục Việt Nam
đi chệch quỹ đạo lành mạnh và tiến bộ trước đó, làm mất đi sức mạnh Việt Nam
đến từ triết lý giáo dục tiến bộ ” Học đi đôi với hành” do chủ tich Hồ Chí Minh
đề xướng tại Miền Bắc và triết lý “Nhân bản, Dân tộc, Khai phóng”
rất được người dân ca ngợi tại Miền Nam. Đây là một điều thực sự
đáng tiếc, từ đây các cuộc cải cách giáo dục có một số biểu hiện mất
phương hướng, đi chệch đường lối giản tiện dễ học và hiệu quả, hun đúc hồn cốt
Việt, tinh thần yêu nước , nhường cơm sẻ áo của người Việt . Chương trình cải
cách 2000 tốn rất nhiều tiền của, hơn nữa còn là tiền bóp bụng đi vay nước
ngoài, nhưng ngày càng bị người dân phàn nàn quá tải, khó học khó
nhớ, sinh ra tệ nạn tái mù chữ, ngồi nhầm lớp diện rộng lên tới 650.000
em trên tổng số 2.000.000 vào thời năm 2006 và vấn nạn học thêm khá nhức
nhối xã hội Việt Nam suốt cho đến bây giờ chưa dứt.
Cần ghi nhớ, mỗi học
sinh vào trường thực nghiệm GS Hồ Ngọc Đại đều đo nghiệm cẩn thận, không
phải cháu nào cũng có tư duy và năng lực phù hợp, những cháu bị loại là
những cháu có nguy cơ không phù hợp với công nghệ giáo dục, Theo trí nhớ của
một bạn có chồng học thực nghiệm kể lại, năm bạn đó học, trường thực nghiệm có
4 lớp, 2 lớp học công nghệ giáo dục, 2 lớp dạy SGK đại trà, mỗi lớp
khoảng 40 bạn, thế nhưng khi bạn rời trường thực nghiệm để lên cấp 3, cả 4 lớp
chỉ còn lại vẻn vẹn 27 bạn, như vậy số lượng các bạn chuyển sang trường khác
khá nhiều, cần tìm hiểu nguyên nhân chuyển đi mới đánh giá đúng hiệu quả của
chương trình công nghệ giáo dục. Theo nhà toán học Phan Hà Dương, những kiến
thức đại số mà trường Thực nghiệm dạy cho con cô, con cô đều quên hết chứ không
đọng lại được trong đầu.
Với mô hình xuất phát
điểm là thực nghiệm, sau đó thí điểm dạy cho các cháu dân tộc thiểu số, việc
chương trình được chuyên gia nhận xét đánh giá là “ không phù hợp lứa tuổi”,
“trái với nguyên tắc dạy hoc tiếng mẹ đẻ, có những quan niệm lệch lạc như “ chân
không về nghĩa” mà Bộ Giáo dục- Đào tạo, cụ thể là các ông nguyên thứ trưởng và
Bộ trưởng Phạm Vũ Luận, Nguyễn Vinh Hiển và sau này là ông Bộ trưởng Phùng Xuân
Nhạ ký phê duyệt cho đưa ra sử dụng đại trà ồ ạt tại nhiều tỉnh
thành dưới hình thức “ tự nguyện” qua các Sở, Phòng giáo dục là việc làm rất
không thận trọng, nếu không nói là rất tắc trách và đáng trách. Với đội ngũ
giáo viên chất lượng chưa cao, dạy nhiều khái niệm, thuật ngữ chưa chính xác,
lại không công khai minh bạch trong việc bán sách với giá đắt hơn nhiều so với
chương trình phổ thông , điều này là tước mất quyền tự quyết của bố mẹ
các cháu và có thể gây ra rủi ro cho nhiều cháu trong số 800.000 cháu đang theo
học, một con số không hề nhỏ. Việc bỏ tiền túi ra “ lách luật” nếu có của
Nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận là việc làm “ chưa đúng qui trình” và tắc
trách của quan chức Bộ giáo dục. Có thể nói trong điều kiện thầy cô không bảo
đảm nghiệp vụ, không ít trong số này có thể tiềm tàng rủi ro và trở thành nạn
nhân của Công nghệ giáo dục.
RFA: Theo Tiến
sĩ, câu chuyện "tròn, vuông, tam giác" đã thể hiện một thực tế như
thế nào về bản chất của nền giáo dục sau 40 năm thực nghiệm ?
Ở đây cần phân biệt
rạch ròi mô hình công nghệ giáo dục của GS.TS Hồ Ngọc Đại trên tư cách cá
nhân một nhà khoa học làm thực nghiệm giáo dục trên con người với mục
đích đào tạo ra con người mới, là chính nó, không bị áp đặt từ bố mẹ hay thầy
cô với công cuộc cải cách giáo dục của Việt Nam 40 năm qua. Hai tiến trình này
song song đồng hành với nhau nhưng đặt nền tảng trên những lý thuyết nền và mô
hình giáo dục rất khác nhau, không nên đánh đồng hay lẫn lộn với nhau, cũng
không dùng cái nọ để đánh giá hay chỉ trích bản chất của cái kia, không râu ông
nọ cắm cằm bà kia được.
Các chuyên gia và dư
luận chỉ ra rằng các hình vuông, hình tròn, tam giác trong sách bắt nguồn từ mô
hình Elconin dạy cho trẻ có khó khăn trong nhận diện ngôn ngữ hoặc có thể dùng
cho trẻ câm điếc. Điều này có thể khiến một số người dị ứng, không thích,
nhưng nhìn bằng con mắt của các nhà ngôn ngữ học, ký hiệu học thì thấy nó “ vẽ
rắn thêm chân”, “phù phiếm”, không cần thiết do tiếng là đơn vị hiển nhiên
trong Tiếng Việt, trẻ nào cũng nhận thức được. Nếu nói đây là phương pháp để
dạy trẻ đọc thơ lục bát và các thể thơ khác, dạy trẻ tập đếm số tiếng, tăng
thêm hứng thú học tập của trẻ thì cũng không sao. Điều đáng nói ở đây là tính
chưa chặt chẽ, nghiêm túc trong tư duy khoa học, các hình tròn, hình
vuông, hình tam giác như các “vật thật” này được dùng lẫn lộn với nhau, chưa rõ
lý do tại sao những câu thơ này dùng hình tròn biểu đạt, câu khác lại do
tam giác biểu đạt. Công nghệ giáo dục chú trọng dạy trẻ tư duy độc lập,
nhưng tư duy với hình khối kiểu này là tư duy tùy tiện ngẫu hứng, chưa phải tư
duy khoa học thật sự. Sách dùng màu giống nhau để dạy cho trẻ những tiếng
có nghĩa giống nhau, nhưng ngược lại, nhiều chữ khác có nghĩa khác nhau lại có
dùng một màu. Hệ thống ngôn ngữ vốn là vật thay thế cho hiện thực khác quan,
nhưng thôi cứ tạm coi ngôn ngữ là tín hiệu , là vật thật còn chữ là vật thay
thế thì các hình vuông, hình tròn tam giác này chưa thể hiện được sự khu
biệt giữa các ký hiệu ngôn ngữ khác nhau. Nếu trẻ hỏi tại sao thì rất khó giải thích tại sao câu
thơ này dùng toàn hình vuông, câu thơ khác lại toàn hình tam giác, tại sao
nhiều chữ nghĩa khác nhau mà màu lại giống nhau, các ông bố bà mẹ thấy
hoang mang là chính đáng. Cách làm thiếu khoa học này có thể có nguy
cơ làm hủy hoại tư duy logic về sự tương đồng và khác biệt, về tính tầng
bậc của trẻ. Trong ngữ âm học, âm tiết phải khác với âm vị, một chữ cái phải
khác với một từ ở trong tiếng Việt, nhưng sách của thày Đại không phân biệt âm (đâu?) là âm tiết, đâu là âm
vị, cho chung vào một rọ là âm, chưa kể trang 79 tập 2 dạy sai kiến thức ngữ âm
tiếng Việt cơ bản. Sách dùng mô hình giải thích ua trong cua là
nguyên âm đôi, nhưng không thể hiện đúng âm trị của nguyên âm đôi này trong mô
hình dạy cho trẻ. Nghiêm trọng hơn nữa sách còn dạy sai cách đọc, dạy trẻ ua
trong cua đọc là /ua/ ( /ua / không phải nguyên âm đôi, đúng ra đây là nguyên
âm đôi /uo/) . Cũng trang 79, sách dạy ua trong qua là hai âm khác nhau,
không phải nguyên âm đôi, nhưng ghi sai âm trị, dạy cho trẻ ua trong qua đọc là
/oa/. Kỳ thực đây là hiện tượng lẫn chữ viết với âm vị, từ đó ghi sai âm
vị, đúng ra giải thuyết âm vị học hợp hệ với chữ quốc ngữ cho đây
là chữ qu, là một âm vị độc lập, khi đọc có nét tròn môi, ký kiệu ghi âm âm vị
học là / kw/, người miền Bắc có thể không nhạy cảm với âm này, nhưng người miền
Nam thì phân biệt rất rõ, đánh chết nhiều người cũng không thể đồng ý qu đọc
thành cờ , hơn nữa q không bao giờ đi một mình, chữ quốc ngữ không có ký tự q
đi một mình, chỉ có ký tự qu. Kỳ lạ là mấy chục năm, những học sinh
học thực nghiệm và các phụ huynh không ai để tâm đến việc lộn xộn, tùy tiện,
thiếu logic khoa học này ngay từ những bài học đầu tiên hoặc
để ý đến những lỗi sai này. Thật sự không chỉ cha mẹ không hiểu gì mà các nhà
ngôn ngữ học, ngữ nghĩa học cũng “ không hiểu gì” về trật tự của các hình
vuông, tròn, tam giác và tại sao khi thì có màu, khi thì không.
Việc 3 chữ c/k/qu đều đọc là cờ/k/ hàm ẩn nguy cơ
rối loạn chuẩn chính âm. Hiện tại Việt nam về
cơ bản đã hình thành chuẩn chính tả trong nhà trường nhưng vẫn chưa qui
định chuẩn chính âm. Trên thực tế, chữ quốc ngữ là công cụ siêu phương ngữ ghi
âm tiếng Việt toàn dân, thống nhất cho cả 3 miền, thể hiện sự đối lập âm vị học
giữa các phụ âm, nguyên âm, vần và thanh điệu tiếng Việt. Sau này, khi điều
kiện cho phép, giải thuyết âm vị học đằng sau chữ quốc ngữ sẽ chính là chuẩn
chính âm của Việt Nam, là thứ mang hồn núi sông ngàn năm và thiêng liêng với
mỗi người Việt.
RFA: Điều cần
thiết nhất và tối ưu nhất để thực hiện 1 công cuộc cải cách giáo dục cho hiện
tại?
Điều cần thiết nhất và
tối ưu nhất để thực hiện một công cuộc cải cách giáo dục cho hiện tại, phù hợp
với bối cảnh hiện tại là cần thực sự phân tầng , phân cấp quản lý giáo
dục kèm theo cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính giáo dục. Việt Nam chuyển
đổi thể chế từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa nhưng
hệ thống quản lý giáo dục và hệ thống tài chính cho giáo dục vẫn giữ nguyên như
thời quan liêu bao cấp trong khi đất nước láng giềng Trung Quốc đã thay đổi
nhanh và mạnh, cải tổ toàn bộ hệ thống tài chính cho giáo dục từ mấy chục năm
trước, có thế họ mới thực sự giải được bài toán cho phát triển. Với thực trạng
Bộ Giáo dục chỉ nắm được 5% ngân sách giáo dục, Bộ Giáo dục có chưa tới trăm
con người nhưng có đến mười mấy đội dự án như hiện nay thì tư duy tiểu nông ham
cái lợi nhỏ, buông lỏng kỷ cương thi cử quốc gia, đưa trách nhiệm về địa
phương, gạt nhiệm vụ quản lý nhà nước đi để làm dự án sẽ ngày càng trở nên
nghiêm trọng.
Tình hình Việt Nam
hiện nay đang rất cần một nhà lãnh đạo tầm cỡ quốc gia, tốt nhất là ông
Thủ tướng, Phó Thủ tướng, ông Tổng Bí thư hoặc bà Chủ tịch quốc hội đương
nhiệm, những người có có đủ uy tín và uy lực cầm chich, đại diện được cho ý chí
xã hội, huy động toàn bộ sức mạnh của thể chế nhà nước Cộng hòa của
dân, do dân và vì dân cho công cuộc cải cách giáo dục toàn diện. Muốn thực sự
cải cách phải kiên định mục tiêu, có cải cách tổng thể, phải có cá nhân
đứng đầu, tập thể lãnh đạo chịu trách nhiệm, có kế hoạch và tài chính hùng hậu
kèm theo, quan trọng nhất là phải có cái tâm trong sáng, có chính kiến, định
hướng rõ ràng và phải “ biết lắng nghe”. Cải cách nên bắt đầu từ khu vực đại
học với những triết lý từng làm nên sức mạnh Việt: “ học phải đi đôi với
hành” , đại học nghiên cứu phải gắn với nghiên cứu phát triển, gắn với
doanh nghiệp, chịu trách nhiệm đầu tầu cho phát triển và tư vấn chính sách quốc
gia. Khối Đại học sư phạm cần thay máu toàn bộ, sư phạm cũng phải gắn với khoa
học cơ bản, với nghiên cứu bên cạnh việc nâng cao nghiệp vụ sư phạm. Các thày
cô đi dạy cần được nâng lương để đảm bảo cuộc sống , yên tâm giảng dạy. Tối ưu
nhất thì là như vậy, nhưng nhìn tình hình thực tế thì nhiều người vẫn đang
hoang mang, không biết vận nước đã đến chưa.
Chiến tranh đã chấm
dứt hơn 40 năm, nhưng những vấn đề về chuẩn chính âm chính tả tiếng Việt
vẫn chưa hết nhạy cảm, những vấn đề cải cách thể chế vẫn đặt ra nóng hổi. Hiện
tại, cải cách kinh tế, cải cách giáo dục, cải cách thể chế khoa học ký thuật
đều là những vấn đề đặt ra nóng hổi trong thực tế xã hội hiện nay.
Kết thúc buổi trao
đổi, TS Nghiêm Thuý Hằng có chia sẻ thêm với chúng tôi là, chiến tranh đã chấm
dứt hơn 40 năm, nhưng những vấn đề về chuẩn chính âm chính tả tiếng Việt vẫn
chưa hết nhạy cảm, những vấn đề cải cách thể chế vẫn đặt ra nóng hổi.
Hiện tại thì theo bà,
cải cách kinh tế, cải cách giáo dục, cải cách thể chế khoa học ký thuật đều là
những vấn đề đặt ra nóng hổi trong thực tế xã hội hiện nay. Hơn lúc nào hết,
Đảng và Chính phủ Việt Nam rất nên củng cố khối đại đoàn kết toàn dân phục vụ
cho phát triển, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
qua”.
No comments:
Post a Comment