Chuyến thăm Trung
Quốc của Richard Nixon
Bách khoa toàn thư mở
Wikipedia
Chuyến thăm Trung Hoa của Tổng thống Mỹ Richard
Nixon năm 1972 là
1 sự kiện quan trọng trong lịch sử ngành Ngoại
giao hiện
đại. Chuyến thăm lịch sử đánh dấu sự thay đổi cục diện thế giới, biến "cái
bắt tay lịch sử giữa lãnh đạo hai nước bên kia Thái Bình Dương" thành
hiện thực và đánh dấu sự khởi đầu cho một kỉ nguyên mới.[1]
Mục lục
Trong nửa đầu thế
kỷ XX,
các nhà hoạch định chính sách Mỹ, từ Tổng thống Theodore Roosevelt trở đi, đều ủng hộ
sự xuất hiện của một nước Trung Quốc hùng mạnh và thịnh vượng vì người
Mỹ hy
vọng rằng Trung Quốc sẽ thân thiện với Mỹ. Người Mỹ cũng đã từng giúp đỡ các
nhóm Trung Hoa kháng Nhật (cả Cộng sản lẫn Quốc Dân Đảng) trong Chiến tranh thế giới thứ hai.[2]
Sau Thế chiến, người Mỹ tiếp tục ủng hộ
cho Tưởng Giới Thạch và Quốc Dân Đảng
kiểm soát Trung Hoa hơn là lực lượng Cộng sản, do Mao
Trạch Đông lãnh
đạo, vốn gắn bó nhiều hơn với Liên Xô. Phản ứng trước hành động này của Mỹ,
ngay từ tháng 6 năm 1946, Mao đã cho thực hiện chiến dịch bài Mỹ trong những
vùng mà ông ta kiểm soát, dù trước đó, quan hệ giữa Mỹ và những người Cộng sản
Trung Quốc khá là hữu hảo trong cuộc chiến đấu chống lại kẻ thù chung là Nhật
Bản.
Sau chiến thắng của những người Cộng sản Trung Quốc trên toàn bộ Hoa lục năm
1949, nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (PRC)
được thành lập ngày 1 tháng 10 năm 1949. Thống chế Tưởng Giới Thạch và chính phủ Trung Hoa Dân Quốc của ông ta chỉ còn
giữ lại được hòn đảoĐài
Loan nhỏ
bé và một số vùng phụ cận. Tuy nhiên, người Mỹ vẫn tiếp tục công nhận Trung Hoa Dân Quốc là chính phủ hợp pháp của
Trung Quốc, còn Mao và những cộng sự của ông không ngừng lên án chủ
nghĩa đế quốc Mỹ và từ chối thảo luận bất cứ vấn đề gì ngoại trừ
việc Mỹ chấm dứt viện trợ cho Tưởng và thôi bảo vệ Đài
Loan[2].
Tất cả người Mỹ có mặt tại Trung Quốc nhất loạt đều bị Mao trục xuất, kể cả các
nhân viên ngoại giao.
Mâu thuẫn này càng bùng nổ hơn khi vào năm
1950, khi các lực lượng đồng minh do Mỹ lãnh đạo, mang danh nghĩa của Liên
Hợp Quốc,
trong Chiến tranh Triều Tiên,
bị quyến rũ bởi sự thành công và viễn cảnh thống nhất Triều Tiên dưới tay chính
phủ Nam Hàn do Lý
Thừa Vãn đứng
đầu, đã đẩy lùi quân đội của Bắc Hàn, do Kim
Nhật Thành chỉ
huy, sát đến sông Áp
Lục.
Lo ngại trước khả năng bị mở rộng chiến tranh vào đất Trung Hoa, ngày 8 tháng
10 năm 1950, một ngày sau khi quân Liên Hiệp Quốc vượt vĩ tuyến 38, Mao đã ra
lệnh thành lập lực lượng Chí nguyện quân Kháng Mỹ viện Triều, hỗ trợ cho Bắc
Hàn, trực tiếp đối đầu với lực lượng Liên Hiệp Quốc.
Đến lúc này, quan hệ ngoại giao giữa 2
chính phủ hoàn toàn chấm dứt. Mâu thuẫn càng tăng cao khi Mỹ kết tội quân đội
Mao đã sát hại nhiều tù binh Mỹ kể cả khi họ đã đầu hàng. Về phần mình, con
trai của Mao, Mao Ngạn Anh cũng bị tử trận ở
Triều Tiên.
Sau Chiến tranh Triều Tiên, ở Mỹ, sự thù
địch của Trung Quốc kèm theo làn sóng chống Cộng trong nước gia tăng bởi Chiến tranh lạnh, ngoài ra sự vận động
của Thống
chếTưởng
lên những bạn bè người Mỹ của ông, tất cả đã ngăn không cho các nhà hoạch định chính sách trong
những năm 1950 và 1960 tiếp cận Bắc
Kinh. Washington đã dùng ảnh hưởng của mình
để Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa không
được vào Liên
Hợp Quốc,
ngay cả khi Tổng thống Dwight Esenhower thừa nhận rằng cô
lập Trung Quốc là một sai lầm. Ghế của Trung Hoa Dân Quốc tại Hội đồng bảo an, tất nhiên vẫn được giữ
nguyên.
Tuy nhiên, giữa những năm 1960, nhận thức
được sự chia rẽ Xô-Trung và cường độ chống Cộng giảm do tan vỡ ảo tưởng về cuộc
chiến tranh ở Việt Nam, dư luận Mỹ về quan hệ với Trung Quốc đã thay đổi. Các
nhà lãnh đạo quan trọng của chính phủ và giới học thuật lập luận ủng hộ cái mà
họ cho là một chính sách thực tế hơn nếu chấp nhận chế độ Bắc Kinh là chính phủ
hợp pháp của Trung Quốc và tìm cách hợp tác với chính phủ đó. Họ nói về chính
sách "ngăn chặn mà không cô lập". Tuy nhiên, chính phủ của Tổng
thống Lyndon Johnson đã bị sa lầy ở Việt
Nam và
người Trung Quốc thì bị cuốn theo cuộc Đại Cách mạng Văn hóa Vô sản. Vì vậy không có mối
quan hệ mới nào được xác lập.[2]
Một trong những nguyên nhân quan trọng nhất
khiến Trung Hoa xích lại gần Hoa Kỳ là do những nguy cơ đe dọa từ Liên
bang Xô viết láng
giềng. Mâu thuẫn về quyền lãnh đạo phong trào Cộng sản Quốc tế giữa 2 đảng Cộng
sản đã âm ỉ từ trước đó nhiều năm, dần bùng lên dẫn đến xung đột vũ trang. Lúc
8 giờ sáng ngày 13 tháng 8 năm 1969, lực lượng tuần tra biên phòng Trung Hoa gồm
37 người do 1 sĩ quan là Dương Chính Lâm chỉ huy, bị lực
lượng Liên Xô có 6 xe
tăng yểm
trợ phục kích và hạ sát toàn bộ. Trong khi chính phủ Mao đang gởi công hàm phản
đối tới Đại sứ quánLiên
Xô tại
Bắc Kinh thì chính phủ Liên Xô cũng gởi 1 công hàm ngược lại nói rằng "các
lực lượng vũ trang Trung Quốc ở Tân
Cương đã
vượt biên giới sang "khiêu khích quân sự" và đã bị Hồng
quân đánh
lui"[3].
Mâu thuẫn ngày càng dân cao đến mức ngày 15 tháng 8, nhà lãnh đạo Liên Xô Leonid Brezhnev đã thông báo cho
phía Mỹ biết về quyết định Liên
Xô chuẩn
bị đánh đòn hạt nhân phủ đầu Bắc Kinh. Tuy nhiên, vì nhiều
lý do, quyết định này cuối cùng đã không được thực hiện. Nguy cơ chiến tranh đã
được loại trừ, nhưng mâu thuẫn giữa 2 quốc gia Cộng sản là không thể hàn gắn
được nữa.
Tháng 4 năm 1971, Đội tuyển Bóng bàn Trung
Quốc tham
gia thi đấu tại Giải Vô địch Bóng bàn Thế
giới lần
thứ 31 được tổ chức tại Nhật. Trước khi đi, dù đã được thủ tướng Chu
Ân Lai chỉ
thị "Hữu nghị đầu tiên, sau đó là thi đấu", nhưng theo
quan điểm thù địch bấy giờ, đoàn đã được chỉ thị: "Không bắt tay,
kéo tay vận động viên đội Mỹ; không chủ động nói chuyện với người Mỹ; ở nơi thi
đấu không trao đổi quốc kỳ với đội Mỹ"[4].
Trong một dịp tình cờ, một vận động viên Mỹ là Glenn Cowan lên nhầm xe và được
một vận động viên Trung Quốc là Trang Tác Đống tiếp đón thân mật.
Trong dịp này Cowan đã ngỏ lời muốn sang Trung Quốc để thi đấu. Sự việc Trang
Tác Đống tiếp xúc với Cowan lập tức được trưởng đoàn là Triệu Chính Hồng báo
cáo về Bắc Kinh. Nhận định đây là một cơ hội mở cửa lại cho quan hệ 2 nước,
ngày 7 tháng 4 năm 1971, Mao đã chỉ thị cho Triệu Chính Hồng nhân danh đội
tuyển Trung Quốc chính thức phát đi lời mời Đội tuyển Bóng bàn Mỹ sang
thăm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa với
toàn bộ chi phí được đài thọ.
Ngày 10 tháng 4 năm 1971, 9 tuyển thủ Bóng
bàn Mỹ
cùng bốn quan chức và hai người vợ và 10 nhà báo đi tháp tùng đã từ Hồng
Kông tiến
vào Trung Quốc đại lục, mở ra thời đại "Ngoại giao Bóng bàn". Chuyến
đi kéo dài 8 ngày này thể hiện mong muốn chung là giảm bớt căng thẳng trước đó
giữa Washington và Bắc
Kinh.
Từ ngày 11 đến ngày 17 tháng 4, đội tuyển
Mỹ đã thi đấu nhiều trận giao hữu, thăm Vạn Lý Trường Thành và Di
Hòa Viên tại
Bắc Kinh, gặp gỡ với sinh
viên và công
nhân Trung
Quốc, và tham dự các sự kiện xã hội ở các thành phố lớn của Trung Quốc.
Trong bữa tiệc chiêu đãi đoàn khách Mỹ đang
ở thăm tại Đại lễ đường Nhân dân ở Bắc Kinh ngày 14
tháng 4, Thủ tướng Chu
Ân Lai nói:
Quý
vị đã mở ra một chương mới trong quan hệ giữa nhân dân Mỹ và Trung Quốc. Tôi
tin tưởng rằng bước khởi đầu mối quan hệ hữu nghị này chắc chắn sẽ nhận được sự
ủng hộ của đa số nhân dân hai nước chúng ta.
Để đáp lại tín hiệu đó, cùng ngày, Chính
phủ Mỹ cũng đã dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại kéo
dài 20 năm chống Trung Hoa Cộng sản của Mao
Trạch Đông.
Một năm sau các tay vợt Trung Quốc cũng đã sang thăm Mỹ, chơi hàng loạt trận
đấu giao hữu thể hiện "tình hữu nghị là trên hết".
Thực ra, Mỹ và Trung Quốc đã lặng lẽ tiến
hành các cuộc đàm phán bí mật để cải thiện quan hệ giữa 2 nước, vì hai bên đều
muốn cải thiện quan hệ trong bối cảnh Liên
Xô có
thái độ hiếu chiến. Năm 1971 Cố vấn An ninh Quốc gia của
Mỹ là Henry
Kissinger đã
hai lần bí mật viếng thăm Trung Quốc để lập lại mối quan hệ hữu nghị và mùa hè
năm đó, sau thiện chí được xây dựng nhờ ngoại giao bóng bàn, Tổng
thống Richard
M. Nixon cũng
tuyên bố rằng ông sẽ tới thăm Trung Quốc năm sau để tiến hành các cuộc đàm phán
chính thức nhằm bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Khi Richard
Nixon trở
thành Tổng thống của Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ, ông đã công khai và chính thức giữ 1 thái độ mập mờ đối
với Trung Hoa. Ông đã tuyên bố trước khi ra tranh cử:
Có
những mạo hiểm, vâng, nhưng những mạo hiểm của chờ đợi còn lớn hơn
nhiều…nếu Nam
Việt Nam mất, Đông
Nam Á mất
và Thái Bình Dương trở thành Biển đỏ
(của Trung Quốc Cộng sản) thì chúng ta có thể đương đầu với 1 cuộc Thế chiến, ở đó những điều rắc rối
chống lại chúng ta sẽ lớn hơn nhiều…[5]
Trong phát biểu nhậm chức, Tổng thống Nixon
cho biết:
Hãy
để cho tất cả các nước biết rằng…các đường liên lạc của chúng ta sẽ rộng mở.
Chúng ta tìm kiếm 1 Thế giới rộng mở, rộng mở cho cho các suy nghĩ, rộng mở cho sự trao đổi
hàng hóa và con người, một Thế
giớitrong
đó không có dân
tộc nào,
lớn hoặc nhỏ, sẽ phải sống trong sự cô lập giận dữ[6]
Ngày 26-6 năm 1969, Tổng thống Mỹ quyết
định thay đổi một vài điều kiểm soát mậu
dịch đối
với nước Trung Hoa của Mao
Trạch Đông.
Ngay sau đó, ông cũng đề nghị Tổng thống Pakistan Agha Muhammad Yahya Khan và
lãnh tụ România Ceaucescu chuyển cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa biết
ý muốn nối lại Ngoại giao của mình.[6]
Thủ tướng Trung Quốc Chu
Ân Lai cũng
đã phấn đấu để đạt mục tiêu tương tự. Ông đã mời đội tuyển bóng bàn Mỹ tới thăm
Trung Quốc và liên lạc thông qua lãnh đạo của Pakistan. Dần dần ông đã thuyết
phục được Mao
Trạch Đông đa
nghi thấy rằng Hoa
Kỳ không
còn là mối đe dọa đối với Trung Quốc và có thể có ích cho Bắc
Kinh trong
nỗ lực chống lại áp lực từ Liên
Xô.
Trong Thông điệp Liên bang trước
Quốc hội tháng 2/1971, Tổng thống Nixon đã nói về sự cần thiết phải thiết lập
đối thoại với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Ông kêu gọi dành cho chính phủ Bắc Kinh một vị trí tại Liên
Hợp Quốc mà
không phải hy sinh vị trí của Trung Hoa Dân Quốc ở Đài Loan. Cả Mao
Trạch Đông lẫn Tưởng Giới Thạch đều khẳng định chỉ
có thể có một nước Trung Quốc và sẽ chống lại nỗ lực của Mỹ muốn có hai nước
Trung Quốc, một trong đại lục và một ở Đài
Loan.
Trước kia, việc Mỹ công nhận và ủng hộ chế độ của Tưởng là một trở ngại lớn đối
với việc lập lại mối quan hệ hữu nghị giữa Mỹ và Trung
Quốc của Mao.
Tuy nhiên, tới năm 1971 với nhận thức
về giá trị chiến lược của
việc cải thiện quan hệ với Bắc Kinh, Nixon và cố vấn An ninh Quốc gia của ông
là Henry
Kissinger đã
sẵn sàng đáp ứng Mao một nửa trên vấn đề này, vì tìm kiếm một đối tác trong
cuộc đấu tranh chống Liên Xô còn quan trọng hơn nhiều. Nixon và Mao Trạch Đông
nóng lòng muốn lợi dụng lẫn nhau và nhất trí với một phương thức thỏa hiệp
"một Trung Quốc nhưng không phải bây giờ".
Ngày 20/1/1970 Đại sứ Hoa Kỳ tại Warsaw (Ba Lan)
gặp gỡ đồng nhiệm phía Trung Quốc là Lôi Dương. Sau đó, Lôi Dương chính
thức chấp thuận đề nghị của Tổng thống Nixon cử 1 phái viên sang Bắc Kinh. Thủ
tướng Trung Hoa Chu
Ân Lai cũng
gởi lại thông điệp cho phía Mỹ thông qua Tổng thống Pakistan Yahya
Khan.
Chu cũng cho rằng "một cuộc chiến tranh giữa Trung Quốc và Mỹ là 1 điều
rất xa xôi". Nhà Trắng sau đó đã tiếp tục nới rộng
thêm các hạn chế về đi lại và mậu dịch.[7]
Do Chiến dịch Campuchia năm 1970 mà quan hệ
giữa 2 nước đột nhiên trở xấu. Phía Bắc Kinh bỏ các cuộc hội đàm ở Warsaw và
cắt đứt Ngoại giao với Washington. Đài phát thanh Bắc
Kinh ra tuyên bố tố cáo Washington về 1 sự khiêu khích ở Đông
Nam Á và
Mao phát ra 1 thông điệp lấy tên là "nhân dân Thế giới, đoàn kết và đánh
bại bọn xâm lược Mỹ và tất cả lũ chó săn của chúng".[7]
Nếu
có điều gì đó tôi muốn làm trước khi chết, đó là đi Trung Quốc. Nếu tôi không
đi được tôi muốn các con tôi đi.
Ba tuần sau tuyên bố đó, trong lễ kỷ niêm
25 năm ngày thành lập Liên
Hợp Quốc,
Tổng thống Mỹ đề nghị ông Yahya
Khan-Tổng thống Pakistantiếp xúc lại với chính
quyền Mao. Song song đó, ngày 26/10, tại cuộc chiêu đãi nhà độc tài
Romania Nicolae Ceaucescu,
Nixon cũng chúc mừng nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Đây là lần đầu tiên 1 vị Tổng thống Mỹ gọi đất nước của Mao bằng cái tên chính
thức của nó là Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Mặc dù nỗ lực xích lại nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhưng
người Mỹ vẫn từ chối việc gia nhập Liên
Hợp Quốc của
chính quyền Mao. Tuy nhiên, Nixon vẫn để ngỏ khả năng này. Ngày 22 tháng
11/1970, Tổng thống cho vị Cố vấn An ninh Quốc gia của
mình là Henry
Kissingerbiết
rằng cần phải nghiên cứu khả năng chấp nhận "Trung Cộng" vào Liên Hợp
Quốc...và Nixon tự hỏi làm thế nào mà ông có thể giữ những cam kết với Đài
Loan mà
không bị những người tán thành thừa nhận "Trung Cộng" gây khó khăn.
Dù thất vọng tại Liên
Hợp Quốc, Chu
Ân Lai vẫn
trả lời bức thông điệp của Yahya Khan. Ngày 9/12/1970, Đại sứ Pakista tại
Washington chuyển cho Kissinger câu trả lời của Chu
rằng phía Trung Quốc chấp nhận mời 1 phái viên đặc biệt của Tổng thống Nixon
tới Bắc Kinh để thảo luận về Đài Loan. Nixon tán thành nhưng ông cũng đề nghị
hội đàm cũng nên bao gồm cả những vấn đề khác.
Trong khi đó, Mao Trạch Đông đã nói với
1 ký
giả Mỹ
là Edgar Snow rằng ông ta sẽ
"rất vui sướng nói chuyện với Nixon hoặc là với tư cách 1 nhà du
lịch hoặc
là với tư cách là Tổng thống". Đại sứ România tại
Washington cũng cho biết Chu Ân Lai nói rằng Tổng thống sẽ được hoan nghênh
ở Bắc
Kinh.
Do chiến tranh Việt Nam ngày càng leo thang
mà cụ thể là việc binh sĩ Việt Nam Cộng hòa mở cuộc hành quân
vào lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở
Nam Lào năm 1971 mà quân đội Trung Quốc ở Hoa Nam báo động và Nhân dân Nhật báo lớn tiếng tố cáo:
Bằng
việc mở rộng ngọn lửa chiến tranh đến cửa ngõ Trung Quốc, chủ nghĩa Đế quốc Mỹ
đi vào 1 tiến trình gây đe dọa nghiêm trọng cho Trung Quốc...Nixon thực vậy, đã
hoàn toàn phơi bày bản chất hung bạo và
đã đạt đỉnh cao của sự ngạo mạn[8]
Tuy nhiên, qua sự kiện này Nixon và cố
vấn Henry
Kissinger nhận
thấy một cách đúng đắn rằng, phía Trung Hoa quan tâm tới nhiều vấn đề khác hơn là Chiến tranh Việt Nam. Họ có thể phản đối công
khai nhưng các cuộc thảo luận thì vẫn cứ tiếp tục.
Ngày 25 tháng 2/1971, Tổng thống Nixon
trình bày trước Quốc
hội Hoa Kỳ về
báo cáo đối ngoại hàng năm. Trong đó, ông nhắc lại ý muốn cải thiện quan hệ với
chính quyền của Mao. Chưa đầy 1 tháng sau, Nhà
Trắng chấm
dứt tất cả các hạn chế đối với hộ
chiếu Mỹ
đi Trung Quốc. Kissinger cũng đề nghị 1 cuộc họp cấp Đại sứ nữa ở Warsaw.
Phần còn lại là của Chu
Ân Lai.
Vào tháng Tư, các quan chức Trung Hoa mời đoàn Bóng bàn Mỹ đang ở Nhật sang
thăm Trung Quốc. Tổng thống Nixon sau đó đã thực hiện 1 nhượng bộ to lớn là ra
lệnh chấm dứt cấm vận thương mại với Bắc Kinh vốn đã kéo dài 20 năm và tuyên bố
rằng ông sẽ đi Trung Quốc.
Ngày 27 tháng 4/1971, Đại sứ Pakistan
chuyển cho Henry Kissinger 1 thông điệp của Chu cho biết "Chính phủ Trung
Quốc xác nhận lại sự sẵn sàng đón tiếp công khai ở Bắc Kinh 1 phái viên đặc
biệt của Tổng thống Mỹ hoặc Ngoại
trưởng hoặc
thậm chí bản thân Tổng thống Mỹ".
Để dọn đường cho chuyến thăm chính thừc của
Tổng thống Nixon,
Kissinger mau chóng thu xếp 1 chuyến đi tiền trạm bí mật sang Bắc
Kinhnhằm
chuẩn bị chương trình và trao đổi quan điểm về tất cả các vấn đề 2 bên quan
tâm. Ngày 2 tháng 6, Chu
Ân Lai chính
thức chấp nhận đề xuất của Mỹ và không lâu sau đó, phi
cơ chở
Kissinger cất cánh ngày 1/7 năm 1971.
Trạm dừng đầu tiên của Kissinger là Nam
Việt Nam và
sau đó là Ấn
Độ trước
khi tới Pakistan ngày
8/7. Tại đây, ông cáo bệnh và lui về nơi nghỉ mát của Tổng thống Pakistan Yahya Khan rồi sau
đó lại lén chuồn lên phi cơ của Pakistan và bay thẳng đi Bắc Kinh.
Trong hai ngày rưỡi, ông tiến hành các cuộc
họp với Chu Ân Lai và các quan chức cao cấp khác của Trung Quốc. Kissinger cho
rằng Chu là "một trong hai hay ba người đầy ấn tượng nhất mà tôi đã từng
gặp. Lịch sự, kiên
nhẫn một
cách dứt khoát, thông minh một cách khác
thường, tế nhị, ông ta đã tiến hành các
cuộc thảo luận với 1 vẻ uyển chuyển, nhẹ nhàng thấm sâu vào thực chất mối quan
hệ mới của chúng tôi."
Cuối cùng, 2 bên trao đổi quan điểm về tất
cả các vấn đề nổi bật và ấn định cho cuộc họp cấp cao giữa Nixon và bộ đôi
Mao-Chu là năm 1972. Khi rời Bắc Kinh, đánh điện về Mỹ ông Kissinger chỉ ghi 1
chữ duy nhất "Eureka".
Trước khi Tổng thống Mỹ sang Hoa lục thì có
1 trở ngại lớn cần phải giải quyết là vấn đề đảo Đài Loan. Cộng hòa Nhân
dân Trung Hoa lớn tiếng đòi Liên
Hợp Quốc phải
khai trừ Trung Hoa Dân Quốc và Mỹ phải hủy bỏ
các hiệp định Quân
sự và Ngoại
giao với
chính phủ Dân Quốc. Đây là vấn đề khó khăn với Tổng thống Nixon.
Do đó, tuy chỉ thị cho Đại sứ Georges Bush tại Liên
Hợp Quốc kiên
quyết giữ ghế của Trung Hoa Dân Quốc nhưng trong hậu
trường thì lại khác. Trước khi Đại hội đồng Liên Hợp Quốc bỏ
phiếu về vấn đề Trung Quốc, Kissinger và Chu Ân lai đã thảo xong phần lớn Thông cáo Thượng Hải là
thứ mà Nixon và Chu sẽ ký khi 2 bên gặp nhau tại Bắc Kinh. Trong Thông
cáo, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tự
tuyên bố mình là Chính
phủ hợp
pháp duy nhất của Trung Quốc còn người Mỹ chỉ tuyên bố mập mờ:
Mỹ
ghi nhận việc tất cả người Trung Hoa ở 2 bên eo biển Đài Loan cho rằng chỉ có 1
Trung Quốc và Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc. Chính phủ Mỹ không thách
thức lập trường đó...
Ngày 25 tháng 5, Đại hội đồng họp và như
mong đợi của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là
khai trừ Trung Hoa Dân Quốc và công nhận họ gia
nhập tổ chức này. Hội nghị cấp cao Trung-Mỹ cũng được chính thức ấn định là
ngày 21 tháng 2 tháng 1972.
Một vấn đề khác 2 bên cần bàn thảo là về
cuộc chiến tại Việt Nam. Washington hy vọng giành được sự giúp đỡ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa để
sớm chấm dứt cuộc chiến tranh Việt Nam một cách thuận lợi,
cho phép Hoa Kỳ "luồn lách" ra khỏi Việt Nam. Theo tính toán, Tổng
thống Mỹ phải cố gắng thuyết phục Mao-Chu ép Hà
Nội đi
vào 1 giải pháp nhanh chóng cho cuộc chiến.[9]
Tuy nhiên Chu Ân Lai nhấn mạnh rằng trước
khi có cuộc họp cấp cao, không bên nào được thảo luận công khai về cuộc chiến
và phía Mỹ tán thành. Trung Quốc lo ngại những tác động tới đồng minh Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của
họ. Cố vấn Kissinger có giải thích cho nghị sĩ Gerald
Ford rằng:
Các
nhà lãnh đạo Hà Nội rất không tin vào tình hình quốc tế. Với tính đa nghi tự
nhiên của người Việt Nam và với bệnh quá ảo tưởng về Cộng sản của họ, họ lo ngại sâu sắc về điều
đang diễn ra giữa Mỹ và Trung Quốc... Họ đã chiến đấu 25 năm, và bây giờ... họ
sợ họ có thể bị (Trung
Quốc)
bỏ rơi.
Nếu Washington hoặc Bắc
Kinh thừa
nhận rằng Việt
Nam là
1 phần trong chuyến đi của Tổng thống Mỹ tới Trung Hoa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chắc
chắn sẽ chạy ngay tới sát Moskva hơn
nữa và sức ép của Bắc Kinh sẽ không còn hiệu quả. Kết quả là Chu nhấn mạnh tới
1 sự im lặng về "vấn đề Việt Nam" và Nixon cũng thông báo cẩn thận
cho các ký
giả và Quốc
hội Hoa Kỳ.
Ngày 17/2/1972, Tổng thống đến phi
trường bằng trực thăng. Khi chuẩn bị bước lên chuyên cơ Air
Force One,
một nhà báo đưa cho ông tấm bản
đồ Trung
Quốc, đóng dấu của CIA. Nixon nói đùa:
"Anh có tin rằng họ cho phép tôi vào với cái này không?".
Chiếc Air
Force One cất
cánh, nhắm hướng Hawaii,
nơi nó nghỉ lại hai ngày. Sau đó nó tiếp tục bay đi Guam,
thuộc quần đảo Mariannes rồi
đi thẳng tới Thượng
Hải.
Trong máy bay, Nixon cố đọc những tư liệu mà các cố vấn đưa cho mình, truy sát
ông Cố vấn Kissinger bằng nhiều câu hỏi hóc búa và tập ăn bằng đũa.
Ngày 21/2, Air
Force One đáp
xuống Thượng Hải. Sau khi các phi
công Trung
Quốc thay phi công Mỹ thì chuyên cơ đi tiếp đến Bắc
Kinh. 11g20, máy bay chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường ở Bắc Kinh. Lúc đó là
22g20 ở bờ biển phía đông Mỹ và 19g20 trên bờ biển phía tây: tất cả các đài truyền hình Mỹ có
thể loan báo tổng thống vừa đặt chân đến đất Trung Hoa. Một bản tin gây chấn
động loan đi khắp thế giới.[10]
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai mặc áo
khoác màu xanh đen và bộ đồ đại cán kiểu Mao màu xám, xuất hiện với gần 20 quan
chức trong một buổi sáng lạnh lẽo và xám xịt. Họ đứng giữa một đoàn quân danh
dự lẫn lộn màu áo xanh
lá của
quân giải phóng và màu xanh dương của hải quân. Ngôi sao đỏ rực sáng trên mọi
chiếc mũ. Tại phi trường vắng tanh, nhân chứng duy nhất là những nhà
báo Mỹ,
họ đã có mặt tại chỗ từ trước đó mấy hôm để ghi lại sự kiện này. Còn đối với
một số nhà ngoại giao phương Tây tỏ ý
muốn tham dự lễ đón tiếp này, Chính phủ Trung Quốc không cấp giấy phép cho ai
cả.
Sau buổi lễ chỉ kéo dài chừng 15 phút, các
nhà báo quay trở lại xe
buýt và
các quan chức chui vào những chiếc Limousine màu
đen. Trong xe, Chu Ân Lai quay qua nói với Nixon:
Bàn
tay của ngài đã vượt qua đại dương lớn nhất thế giới: 25 năm vắng bóng đối
thoại.
Cả Tổng thống Nixon lẫn Cố vấn của ông
là Henry
Kissinger đều
biết tại Hội nghị Genèva năm 1954 để giải
quyết vấn đề Đông Dương và chiến tranh Triều Tiên không
có kết quả thuận lợi thì phía Mỹ bỏ hội nghị ra về và Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles đã không bắt
tay Chu
Ân Lai mà
đối với Chu, đó là 1 sự thóa mạ. Rút kinh nghiệm, Nixon ngay khi bước xuống
đường băng lập tức nắm tay Chu Ân Lai. Cả hai bên đều hiểu rõ tính chất tượng
trưng này. Đối với Tổng thống Nixon, nó đánh dấu "1 thời đại đã chấm dứt
và 1 thời đại khác bắt đầu".[11]
Đoàn xe đi về hướng phía bắc thành phố,
đến Điếu
Ngư Đài -
nơi được canh giữ cẩn mật mà người Trung Quốc quen dành cho khách nước ngoài
trú ngụ. Trước Tổng thống Nixon, Kim
Nhật Thành, Nikita Khrushchyov, Che
Guevara và
thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng
từng cư trú ở đây. Ba ngày trước khi tổng thống Mỹ đến là ông hoàng Sihanoukcủa
xứ Campuchia.
Mao và vợ ông ta mỗi người cũng đều có một biệt thự ở đây.[10]
Cả
hai bên đều đã "nhúc nhích" ra khỏi các lập trường cố hữu của mình,
những nhượng bộ của họ lại tùy thuộc nơi những hành động trong tương lai.
Trong một lần nâng ly chúc mừng, Tổng thống
Nixon tuyên bố rằng những thỏa thuận ở đây ngày hôm nay cùng những bước đi tới
trong tương lai của hai nước còn quan trọng hơn cả nội dung bản thông cáo chung
(Thượng Hải).
Mỹ trong vị thế siêu cường, Trung
Quốc trong
thân phận một cường quốc giàu về dân số (hơn 900 triệu dân) nhưng lại là một
nước yếu kém về kinh tế. Năm đó, GDP của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
tính bằng Nhân
dân tệ qui
theo thời giá hiện nay, mới chỉ là 251,8 tỉ, tính đầu người mới chỉ được 292
Nhân dân tệ.[12]
Trong tuyên bố chung Trung-Mỹ đưa ra vào
cuối tuần Nixon ở thăm Trung Quốc, nguyên nhân khiến 2 nước xích lại gần nhau
là vì họ cùng phải chống lại những người Xô Viết Nga. Phản đối bá quyền của
Liên Xô ở châu
Á và Thái
Bình Dương rõ
ràng ám chỉ việc làm suy yếu ảnh hưởng của Moskva ở
khu vực. Người Mỹ thừa nhận việc Bắc Kinh khẳng định Đài Loan là một phần
của Trung
Quốc,
nhưng cũng tái khẳng định lợi ích của họ trong việc giải quyết hòa bình vấn đề này.
Trước yêu cầu của Trung Quốc đòi lực lượng Mỹ rút khỏi Đài Loan, Nixon đã cam
kết Mỹ sẽ rút hết quân và hứa sẽ rút quân từ từ khi căng thẳng trong vùng (Việt
Nam)
giảm bớt. Đồng thời ông và Kissinger cũng tìm cách loại bỏ nỗi lo sợ của Trung
Quốc rằng lực lượng Nhật sẽ
thay thế quân Mỹ trên đảo này. Tổng thống còn trấn an các nhà lãnh đạo Trung
Quốc rằng Mỹ sẽ không ủng hộ Đài
Loan độc
lập và hứa sẽ thực hiện những bước đi mà người Trung Quốc mong muốn sau dự tính
ông sẽ được tái đắc cử vào năm 1972.
Nội dung bản thông cáo:
1- Đề
cập đến tình hình Đông Dương, Chính phủ Hoa Kỳ khẳng định lại mục
đích của mình là tìm cách giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng, giữ
vững quan hệ chặt chẽ với Nam
Triều Tiên và Nhật
Bản.
2- Chính
phủ Trung Quốc khẳng định "sự ủng hộ vững chắc" nhân dân Đông Dương, mong muốn thấy Triều
Tiên thống
nhất, phản đối việc phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Nhật.
3- Trong
vấn đề Đài Loan, Hoa Kỳ công nhận Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc, nhưng
phản đối việc dùng vũ lực để thống nhất Đài Loan; Trung
Quốc không
đặt việc rút ngay quân đội Hoa Kỳ khỏi Đài
Loan và
chấm dứt quan hệ với Đài
Loan là
điều kiện để phát triển quan hệ với Hoa Kỳ.
4- Thoả
thuận cùng phối hợp hành động để phát triển sự hợp tác và trao đổi khoa học kĩ
thuật, văn hoá, thể thao, thương mại giữa hai nước.
Trong bản thông cáo, lần đầu tiên trong mối
quan hệ với nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện
đại, Hoa Kỳ đã đồng ý rằng, chỉ có một nước Trung Quốc duy nhất và khẳng
định Đài
Loan là
một phần của Trung Quốc. Việc bình thường hóa quan hệ
Trung-Mỹ phù
hợp với lợi ích của tất cả các nước khác.
Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon
và việc ký kết thông cáo chung Thượng Hải đánh dấu bước khởi đầu bình thường
hóa quan hệ Trung - Mỹ,
mở đường cho quan hệ song phương phát triển, mở đường cho quan hệ song phương
phát triển, mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Trung - Mỹ.[1]
Theo ý kiến của tác giả Hà Minh
Hồng trong bài viết Năm 1972 trong lịch sử Kháng chiến chống
Mỹ cứu nước thì "mưu toan" của Mỹ trong chính sách ngoại
giao nước lớn là: buộc Trung Quốc cắt giảm viện trợ cho Việt Nam
(tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa),
hòng ngăn chặn cuộc chiến
tranh cách
mạng của nhân
dân ta
(tức Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam) ở miền Nam.
Năm ngày sau khi đoàn Mỹ rời Bắc
Kinh, Chu
Ân Lai bay
đi Hà
Nội.
Ông cam đoan với người Việt Nam là ông ta không bán rẻ họ trong cuộc họp cấp
cao với Nixon.[13]
Trên thực tế, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo
dõi những cuộc gặp gỡ thân tình ở Bắc Kinh giữa Mao-Chu với Nixon với lòng lo
ngại và cảnh giác. Dù vẫn nhận được viện trợ to lớn từ Bắc Kinh, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chắc
chắn rằng Trung Quốc hay Liên Xô sẽ không thể đặt họ lên trên lợi ích quốc gia
của mình. Cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫn Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam đều không hề muốn số phận của họ được quyết định
ở Bắc
Kinh hay Moskva.
Để làm mọi thứ mập mờ Ngoại giao này trở
nên rõ ràng hơn, không lâu sau khi Chu về nước, Hà Nội tiến hành 1 cuộc tiến
quân vào miền Nam và đưa các lực lượng quy ước của họ vào chiến đấu, lần đầu
tiên trong chiến tranh Việt Nam. Quân Giải phóng vượt
qua khu Phi quân sự ngăn cách 2 miền Nam - Bắc ngày 30 tháng 3 và nhanh chóng
hạ gục 1 sư
đoàn Việt
Nam Cộng hòa đóng tại đây.[14]
Những người cộng sản Việt Nam đã bày tỏ
quan điểm của mình nhân dịp Đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam tham
dự Hội nghị Phong trào Không Liên kết năm 1973 (Hội
nghị Cấp cao 4 Alger, Algérie 1973)
- Tại Hội nghị này, Cộng hòa miền Nam Việt Nam trở
thành Thành viên Chính thức của Phong trào Không Liên kết;
từ năm 1970 đến
năm 1973,
Cộng hòa miền Nam Việt Nam là Quan sát viên của Phong trào Không Liên kết. Nhân
sự kiện này, Báo
Nhân dân đã
ra Bài Xã luận quan trọng "Thắng lợi của Xu thế Cách mạng" -
Bài Xã luận này được các nước lớn trên Thế giới (Liên
Xô, Trung
Quốc, Hoa
Kỳ,...)
quan tâm đặc biệt - Bài Xã luận tỏ rõ Quan điểm của Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa
và Cộng hòa miền Nam Việt Nam là "Thời kỳ của các nước lớn tập
trung lại để đè bẹp các nước nhỏ đã vĩnh viễn qua rồi". Qua Bài Xã
luận này, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn thể hiện thái độ của mình với Cuộc gặp
giữa Mao
Trạch Đông, Chu
Ân Lai với Tổng
thống Hoa
Kỳ Richard
Nixon ngày 17
tháng 2 năm 1972 tại Thượng
Hải, Trung
Quốc.[15]
Từ khi hay tin ông Nixon đi Bắc Kinh, Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu hết sức e ngại. Ông
biết rằng Mỹ vào miền Nam Việt Nam là để ngăn
chặn Làn sóng Đỏ từ "Trung
Cộng" lan tràn tới các nước khác". Đó là theo Học
thuyết Domino từ
thời Tổng thống Mỹ Eisenhower:
Khi ông Nixon sắp đi Bắc Kinh bắt tay
với Mao
Trạch Đông thì
VNCH không còn là "tiền đồn của Thế giới Tự Do" nữa khiến ông Nguyễn Văn Thiệu thông báo sự lo
ngại của Việt Nam Cộng Hoà cho phía Mỹ. Và
Tổng thống Nixon đã trấn an ông Thiệu bằng một bức thư đề ngày 31 tháng 12 năm
1971:
"Ngài
có thể chắc chắn tuyệt đối rằng tôi sẽ không đi tới một thoả thuận nào
tại Bắc
Kinh nếu
nó phương hại tời các quốc gia khác, hoặc về những vấn đề có liên hệ tới các nước
khác…
Ngài
có thể tiếp tục tin cậy vào sự yểm trợ của Hoa
Kỳ trong
những nỗ lực của Ngài hầu đem lạ hoà bình cho Việt Nam và xây dựng nền thịnh
vượng mới cho nhân dân Việt Nam.[16]
Thế nhưng theo chính Tổng thống Nixon viết
lại trong hồi ký của mình thì trong những ngày viếng thăm Trung Quốc từ 21 tới
28 tháng 2 năm 1972, ông đã nói với Chu
Ân Lai:
Giả
sử như tôi có thể ngồi đối diện với bất cứ ai là người lãnh đạo Bắc Việt Nam,
và giá như hai bên có thể thương thuyết một cuộc ngưng bắn và trả lại tù binh
cho chúng tôi, thì tất cả quân đội Mỹ sẽ được triệt thoái khỏi Việt Nam trong
vòng sáu tháng kể từ ngày đó.
No comments:
Post a Comment