Cũng là chết vì cách mạng…
02/10/2018
Cuối cùng, hệ thống chính trị, hệ thống công
quyền Việt Nam cũng chính thức xác định ông Đỗ Mười, cựu Tổng Bí thư Đảng CSVN
đã chết vào ngày 1 tháng 10. Theo các qui định pháp luật hiện hành, Việt Nam sẽ
có quốc tang và công khố sẽ chi một khoản đáng kể để lo quốc táng ông Đỗ Mười
và làm lăng cho ông…
Khoan bàn đến chuyện
công – tội, chuyện dựng lăng cho ông Đỗ Mười - giờ đã trở thành phong trào, đặt
cái chết của ông Đỗ Mười – một người có công với cách mạng bên cạnh những cái
chết khác cũng có công với cách mạng sẽ thấy nhiều điều đáng ngẫm nghĩ. Tuy
những cái chết đều có liên quan tới cách mạng nhưng cách hành xử của cách mạng
rất khác nhau…
***
Hôm 1 tháng 10 – cùng
ngày với ngày hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam loan báo ông Đỗ
Mười qua đời, báo giới Việt Nam cho biết, các viên chức ngoại giao của Việt Nam
tại Ukraine đã tìm - gặp cô Anna Poyarkova, thông báo với cô rằng, Việt Nam đã
tìm được hài cốt ông nội của cô: Đại úy Yuri Nikolaevich Poyarkov – một sĩ quan
không quân của quân đội Liên Xô (1).
Ông Poyarkov được biệt
phái sang Việt Nam để hỗ trợ Quân đội Nhân dân Việt Nam “chống Mỹ, cứu nước”
hồi đầu thập niên 1970. Giữa năm 1971, thân nhân của ông chỉ được loan báo, ông
“mất tích trong một tai nạn máy bay” và chỉ thế mà thôi.
Vào thời điểm đó, gia
đình ông Poyarko đành ngậm đắng nuốt cay, vì cả Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lẫn
Liên Xô cùng muốn “bảo mật” tai nạn liên quan tới ông Poyarkov. Chuyện quân đội
Liên Xô, cũng như quân đội Trung Quốc hiện diện tại miền Bắc Việt Nam, giúp
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rảnh tay trong việc bảo vệ hậu phương, dốc toàn lực
“giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” được xếp vào loại thông tin “tuyệt
mật”, bởi chúng có thể ảnh hưởng tới… “chính nghĩa” của sự nghiệp “chống xâm
lược Mỹ và bè lũ tay sai”.
Dù vợ, con ông
Poyarkov cam chịu chuyện mất chồng, mất cha một cách thiếu minh bạch, thiếu
tình người và đã câm nín gần nửa thế kỷ nhưng cô Anna Poyarkova - cháu nội ông
Poyarkov thì không. Tháng 9 năm 2017, thông qua mạng xã hội, cô Poyarkova nhờ
người Việt hỗ trợ thông tin về tai nạn làm ông nội của cô “mất tích”. Lời kêu
gọi của cô Poyarkov làm một số người Việt đã từng học, làm việc tại Liên Xô cũ
cảm thấy xấu hổ. Tự họ thu thập thông tin, xác định khu vực có thể là hiện
trường vụ tai nạn (xã Phục Linh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên), tự tổ chức
tìm kiếm. Hóa ra ông Poyakov là phi công, tham gia huấn luyện phi công của
Không quân Nhân dân Việt Nam sử dụng Mig-21U. Không chỉ có ông Poyakov mất
tích. Cùng mất tích với ông vào ngày 30 tháng 4 năm 1971 còn có một phi công
khác của Không quân Nhân dân Việt Nam tên là Công Phương Thảo.
Chuyện tìm kiếm một
chiếc phi cơ quân sự lâm nạn với hai phi công không quân mất tích trước đó 44
năm tất nhiên là… thành công vì địa điểm phi cơ rơi chỉ cách Hà Nội khoảng 70
cây số và nhiều người trong cuộc còn sống. Sở dĩ cuộc tìm kiếm này kéo dài nửa
năm vì nó tự phát và phụ thuộc vào khả năng, hoàn cảnh của những người tình
nguyện. Không quân Nhân dân Việt Nam nói riêng và Quân đội Nhân dân Việt Nam
nói chung, trong đó có cả Anh hùng Lực lượng vũ trang Phạm Tuân chỉ hỗ trợ…
thông tin để xác thực tai nạn, khu vực phi cơ quân sự lâm nạn! Hạ tuần tháng 2
năm 2018, sau ba ngày chính thức lùng tìm, nhóm tình nguyện viên do ông Nguyễn
Lê Anh - cựu Nghiên cứu sinh Toán học tại Đại học Lomonosov, cựu Giảng viên Học
viện Kỹ thuật quân sự, cư trú ở Sài Gòn – thành lập, đã xác định chính xác vị
trí phi cơ quân sư lâm nạn (2).
Bảy tháng sau (hạ tuần
tháng vừa qua), Quân đội Nhân dân Việt Nam mới thu thập xong hài cốt của hai
phi công, một Liên Xô, một Việt… Nếu Anna Poyarkova không ngỏ lời nhờ giúp đỡ
trên mạng xã hội, nếu không có những người Việt chạnh lòng, cảm thấy xấu hổ với
dân chúng Liên Xô cũ, chắc chắn ông Yuri Nikolaevich Poyarkov và ông Công Thanh
Phượng vẫn còn nằm đó giữa rừng hoang, núi lạnh, hài cốt tiếp tục phân rã thành
bùn đất (3) vì hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam không bận tâm.
***
Cũng ngày 1 tháng 10 –
ngày hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam loan báo ông Đỗ Mười qua
đời, ông Đinh Hữu Hanh đưa lên facebook của ông công văn số 3396/CT-CS do Bộ
Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An phát hành ngày 21 tháng 9 năm 2018. Theo công văn
ấy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An sẽ không làm gì cả đối với 500 ngôi mộ vô
chủ, không người thăm viếng, chăm sóc ở Nghĩa trang Cồn Mợng, xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn và đang là chỗ thả trâu, bò (4).
Trước đó, dịp rằm
tháng bảy, khi về quê dự Lễ Tế tổ, qua thân nhân, dân chúng địa phương, ông
Hanh phát giác có một nghĩa trang chôn cất những thương binh, bệnh binh qua đời
khi đang được chữa trị tại Trạm Quân y có tên là “Viện 42”, bị bỏ hoang.
“Viện 42” vốn là nơi
tiếp nhận thương binh, bệnh binh trong cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” được đưa
từ miền Nam Việt Nam trở về miền Bắc Việt Nam. “Viện 42” vốn tọa lạc tại xã
Xuân Lâm, huyện Nam Đàn. Nghĩa trang của “Viện 42” cũng ở tại đó. Sau khi công
cuộc “giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước” thành công, “Viện 42” bị giải
tán. Cuối thập niên 1970, chính quyền địa phương sử dụng lực lượng thanh niên
bị cưỡng bức cải tạo, cải táng phần lớn các ngôi mộ trong nghĩa trang của “Viện
42” về xã Kim Liên. Đến đầu thập niên 1990, Huyện đội Nam Đàn mới cải táng
những ngôi mộ còn sót lại ở rìa nghĩa trang của “Viện 42” về nghĩa trang liệt
sĩ của huyện này.
Điều làm ông Đinh Hữu
Hanh – một cựu chiến binh trong cuộc chiến “chống Mỹ cứu nước” - bất bình là
đợt cải táng đầu tiên hồi cuối thập niên 1970 đã được tiến hành rất cẩu thả, mộ
phần của tất cả những thương binh, bệnh binh chết tại “Viện 42” được đưa về
táng lại tại xã Kim Liên đều mất tên vì không có bia cũng chẳng có sơ đồ mộ
chí. Mộ phần của những thương binh, bệnh binh xấu số giờ chỉ là những nấm đất
nằm san sát với nhau, cùng làm bạn với trâu, bò. Ông Hanh kể, ông đã đến tận
nơi, báo cho Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An thực trạng làm ông và nhiều người
đau lòng ấy. Nơi này đã yêu cầu ông phải làm… đơn trình báo thì mới xem xét
(5). Để tận nghĩa với đồng đội, ông Hanh cun cút về làm đơn. Đơn gửi ngày 29
tháng 8, đến 21 tháng 9 thì Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An trả lời. Theo đó,
phần lớn trong số 500 ngôi mộ vô chủ ở xã Kim Liên là mộ của… nhân dân trong
xã, chỉ có vài chục là “mộ bộ đội” nhưng vì “chưa xác định được có phải là mộ
liệt sĩ hay không” nên đây sẽ là chuyện do Đảng ủy, chính quyền xã Kim Liên tự…
giải quyết.
Chưa thấy nhân dân xã
Kim Liên lên tiếng dù rằng theo công văn vừa dẫn thì hóa ra họ quá bạc bẽo.
Nghĩa trang với 500 mộ, nơi đa số người chết là… nhân dân trong xã mà không có
bất kỳ ai trong xã thăm viếng, nhìn nhận thân nhân của họ được táng tại đó!
Chưa kể xem những tấm ảnh chụp Nghĩa trang Cồn Mợng mà ông Hanh đưa lên trang
facebook của ông, ai cũng có thể thấy, nếu đa số người chết được táng tại nghĩa
trang này là… nhân dân trong xã thì ở Kim Liên hẳn đã từng có một đợt… “chết
chùm”, nhân dân trong xã phải táng hàng loạt người chết trong cùng một lúc
thành ra các nấm mộ mới ngay hàng, thẳng lối theo cùng một kiểu như vậy!
***
Hồi tháng 11 năm 2017,
tướng Sùng Thìn Cò – Phó Tư lệnh Quân khu 2 đồng thời là đại biểu của tỉnh Hà
Giang tại Quốc hội khóa 14, báo với các đồng viện là còn khoảng 2.500 hài cốt
liệt sĩ đang phơi mưa nắng tại hàng chục cao điểm ở Hà Giang. Tướng Cò không
cung cấp chi tiết nhưng dựa vào diễn biến xung đột vũ trang tại biên giới Việt
– Trung, người ta tin rằng những liệt sĩ ấy đã đền nợ nước trong các đợt phản
công - tái chiếm, phòng vệ lãnh thổ giai đoạn từ giữa năm 1980 đến đầu năm 1987
ở Hà Giang.
Dù chết trong cuộc
chiến nào (chống Pháp, chống Mỹ, chống Trung Quốc, chống Polpot), lý do chính
khiến cha mẹ, vợ con, anh em,… của nhiều liệt sĩ chờ cho tới bây giờ vẫn chưa
nhận được hài cốt của thân nhân là vì… hệ thống công quyền Việt Nam chưa cấp
tiền để tìm kiếm, mang hài cốt của các liệt sĩ về nhà. Vào thời điểm cuối năm
2017, tướng Cò từng khẳng định với các đồng viện rằng chỉ cần cấp tiền cho Bộ
Quốc phòng và Quân khu 2 một lần thì trong hai năm 2018 và 2019, quân đội sẽ
đưa hết toàn bộ hài cốt các liệt sĩ đang phơi mưa nắng tại hàng chục cao điểm ở
Hà Giang về với gia đình, về với quê hương (6).
Cho đến giờ vẫn không
thấy báo chí Việt Nam tường thuật giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống
công quyền Việt Nam quyết định thế nào về đề nghị của tướng Cò. Ngay sau đó,
người ta chỉ thấy Ban Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN công bố chủ
trương, chính phủ Việt Nam đã phê duyệt kế hoạch xây dựng một nghĩa trang diện
tích 120 héc ta, trị giá 1.400 tỉ để lãnh đạo cao cấp của hệ thống chính trị,
hệ thống công quyền Việt Nam “yên giấc ngàn thu”. Đến giờ, kế hoạch xây dựng
nghĩa trang quốc gia chưa triển khai vì hai lẽ: Một, gia tăng thêm sự phẫn uất
trong dân chúng. Hai, nghĩa trang quốc gia không còn hợp thời trang. Giới lãnh
đạo đủ cấp trong hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam nay thích nằm
một mình trong các… lăng.
Những người như Yuri
Nikolaevich Poyarkov, Công Thanh Phượng, những thương binh, bệnh binh xấu số
đang nằm trong Nghĩa trang Cồn Mợng, những liệt sĩ mà hài cốt đang phơi mưa
nắng tại hàng chục cao điểm ở Hà Giang hoặc nằm rải rác đâu đó trên khắp Việt
Nam, kể cả Lào, Campuchia chắc chắn là những người hữu công vì đã góp tính mạng
cho cách mạng.
Có thể thấy, chưa bao
giờ, giới lãnh đạo hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam bỏ qua,
không tổ chức những “buổi lễ cấp quốc gia” kiểu như “Bản hùng ca Xuân Mậu Thân
1968” hồi đầu năm nay ở TP.HCM, vì chúng là dịp tái khẳng định “sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Đảng CSVN đối với cách mạng Việt Nam”. Tương tự, những hoạt
động “đền ơn, đáp nghĩa”, “tưởng nhớ, cầu siêu” nếu có rầm rộ thì cũng chỉ nhằm
nhắc nhở “công lao to lớn, vĩ đại của Đảng CSVN”.
Còn tìm kiếm hài cốt
những người “chết vì cách mạng” giao trả cho thân nhân hoặc lo cho những người
“chết vì cách mạng” mồ yên, mả đẹp thì thuộc phạm trù khác, không nhất thiết,
thậm chí không cần phải bận tâm vì sẽ chẳng góp bao nhiêu, đôi khi là có hại
cho việc chứng minh Đảng CSVN là tổ chức chính trị duy nhất xứng đáng trong
việc tiếp tục duy trì độc quyền lãnh đạo “toàn diện, tuyệt đối” ở Việt Nam.
Công khố luôn luôn có
hạn, chi tiêu phải cân nhắc. Những cá nhân như ông Đỗ Mười, dẫu không đổ máu,
góp xương cho cách mạng thành công nhưng cần có quốc tang, tổ chức quốc táng,
dựng lăng vì họ lãnh đạo cách mạng. Đó cũng là lý do phải dùng luật, đặt định –
buộc phải tổ chức quốc tang, lễ tang cấp quốc gia, cho những “công bộc” hàng
đầu, tôn vinh họ như “quốc phụ”, “quốc mẫu”, công hầu,… hôm qua, hôm nay và cả
ngày mai.
Cả luật pháp hiện hành
lẫn thực tế chỉ ra “có công với cách mạng” hay “chết vì cách mạng” dù không
khác nhau về ngữ nghĩa nhưng khác biệt rất lớn về cách đối xử. Đối xử phải theo
thứ bậc. Với thứ bậc đã được phân định rạch ròi thì sẽ còn nhiều quốc tang và
lễ tang cấp quốc gia khác cho những Lê Đức Anh, Phùng Quang Thanh, Đinh Thế
Huynh, Lê Hồng Anh… Những trường hợp hữu công khác, kể cả những người đã “chết
vì cách mạng” cứ chờ cho đến lúc ai đó chạnh lòng. Thế thôi!
Chú thích
No comments:
Post a Comment