Trả lời chính thức của
Viện Ngôn ngữ học
về
đề xuất cải cách chữ viết của ông Bùi Hiền
-
Tháng Chín 4, 2018
Xin đăng lại bài viết của GS.TS. Nguyễn Văn
Hiệp, Viện trưởng Viện Ngôn ngữ học. Bài viết của GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp là ý
kiến chính thức của Hội đồng Khoa học Viện Ngôn ngữ học trả lời lãnh đạo cấp
trên về văn bản đề xuất cải cách chữ Việt của PGS.TS. Bùi Hiền.
CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ, CHUYỆN KHÔNG NÊN BÀN NỮA
Tưởng chuyện này đã êm rồi (xã hội còn nhiều chuyện cần bàn hơn) nhưng hôm nay đọc những dòng giận dữ của GS Trần Đình Sử, tôi thấy cần lên tiếng để ủng hộ GS Trần Đình Sử, góp thêm tiếng nói bác bỏ đề nghị cải cách chữ Quốc ngữ của PGS Bùi Hiền (thông qua Bản đề xuất của tác giả).
CẢI CÁCH CHỮ QUỐC NGỮ, CHUYỆN KHÔNG NÊN BÀN NỮA
Tưởng chuyện này đã êm rồi (xã hội còn nhiều chuyện cần bàn hơn) nhưng hôm nay đọc những dòng giận dữ của GS Trần Đình Sử, tôi thấy cần lên tiếng để ủng hộ GS Trần Đình Sử, góp thêm tiếng nói bác bỏ đề nghị cải cách chữ Quốc ngữ của PGS Bùi Hiền (thông qua Bản đề xuất của tác giả).
Những điều tôi viết ra đây cũng là ý kiến của
Viện Ngôn ngữ học gửi lãnh đạo cấp trên (tháng 1/2018), nhân có chỉ đạo đề nghị
Viện Ngôn ngữ học cho ý kiến về Bản đề xuất cải cách chữ viết của PGS Bùi Hiền
(một người mà trong quan hệ bình thường hàng ngày tôi rất kính trọng).’
Hội đồng khoa học của Viện Ngôn ngữ học đã họp
(mở rộng) thảo luận về đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiển, sau
đó đã tổng hợp các ý kiến để báo cáo lên lãnh đạo cấp trên. Ý kiến của Hội đồng
khoa học Viện Ngôn ngữ gồm có 3 phần:
-Vài nét về lịch sử phát triển của chữ Quốc
ngữ (bao gồm những điểm bất cập và những đề nghị cải tiến, sửa đổi trước đây)
-Những bất hợp lí trong đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
-Những bất hợp lí trong đề xuất cải tiến chữ quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
-Kết luận của Viện Ngôn ngữ học
Với tư cách là Viện trưởng, tôi là người tổng hợp các ý kiến của Hội đồng khoa học mở rộng, tôi cũng trao đổi ý kiến với một số chuyên gia về ngữ âm, chữ viết có uy tín như GS Nguyễn Văn Lợi, PGS Hoàng Dũng …Vì đây là nội dung được gửi lên lãnh đạo cấp trên (chắc không có ai là nhà ngôn ngữ học) nên cách viết phải giản dị, tuy nhiên vẫn không tránh được một số thuật ngữ chuyên môn. Sau đây là những nôi dung được tổng hợp:
Với tư cách là Viện trưởng, tôi là người tổng hợp các ý kiến của Hội đồng khoa học mở rộng, tôi cũng trao đổi ý kiến với một số chuyên gia về ngữ âm, chữ viết có uy tín như GS Nguyễn Văn Lợi, PGS Hoàng Dũng …Vì đây là nội dung được gửi lên lãnh đạo cấp trên (chắc không có ai là nhà ngôn ngữ học) nên cách viết phải giản dị, tuy nhiên vẫn không tránh được một số thuật ngữ chuyên môn. Sau đây là những nôi dung được tổng hợp:
1 Vài nét về lịch sử phát triển của chữ Quốc
ngữ
Chữ Quốc ngữ được hình thành trong khuynh
hướng chung của các giáo sĩ Tây Phương muốn Latin hóa các chữ Á Đông nằm trong
địa bàn truyền giáo của họ. Quá trình xây dựng chữ Quốc ngữ là một quá trình
lâu dài, với sự góp sức của nhiều người, trong đó có người Việt Nam.
Các tài liệu cho thấy vào thế kỉ 17, chữ Quốc
ngữ đã có một diện mạo khá ổn định, gắn với việc xuất bản cuốn Từ điển Việt –
Bồ Đào Nha – Latin (Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum) của linh mục
Alexandre de Rhodes tại Roma, năm 1651.
Có thể nói, thế kỷ 17 với sự ra đời của Từ
điển Việt – Bồ Đào Nha – Latin (Dictionarium Annamaticum Lusitinum et Latinum)
của Alexandre de Rhodes đã đánh dấu diện mạo hiện đại của chữ Quốc ngữ. Thế kỷ
18, 19, chữ Quốc ngữ tiếp tục hoàn thiện và có hình thức như ngày nay.
Chữ Quốc ngữ là loại chữ ghi âm tương đối khoa
học. Tuy nhiên nó vẫn có nhiều điểm không hoàn hảo như tất cả bộ chữ ghi âm
khác. Ở diện mạo hiện nay, chữ Quốc ngữ vẫn tồn tại một số nhược điểm sau đây:
– Cùng một âm nhưng được ghi bằng những con chữ
khác nhau. Ví dụ, 3 chữ cái “c”, “k” và “q” đều được dùng để ghi âm /k/, chữ
“y” và “i” đều được dùng để ghi âm /i/;
– Âm đệm có lúc ghi là “u”, có lúc ghi là “o”;
– Các nguyên âm đôi có cách ghi lưỡng khả, phụ
thuộc vào vị trí của nguyên âm đôi trong âm tiết, ví dụ: iê/yê/ia/ya, ươ/ưa,
uô/ua;
– Vị trí đánh dấu thanh không theo nguyên tắc
nhất quán: lúc thì đánh vào âm chính, lúc thì đánh ở giữa âm tiết cho cân đối.
Đây chính là lí do trong một thời gian dài,
liên tục có những ý kiến cho rằng cần phải cải tiến chữ Quốc ngữ trên nhiều
phương diện khác nhau.
Năm 1902, một Uỷ ban cải cách chữ Quốc ngữ đã
được thành lập (do Jean Nicholas Cheon đứng đầu).
Năm 1956, ở Miền Nam, Uỷ ban Ngôn ngữ cũng đưa
ra đề nghị cải tiến chữ Quốc ngữ; năm 1973 Uỷ ban Điển chế Văn tự cũng ra đời.
Ở Miền Bắc, Hội thảo Cải tiến Chữ Quốc ngữ được tổ chức năm 1960.
Từ đó đến nay đã có nhiều hội thảo khoa học
tiếp tục đề cập đến chuyện cải tiến chữ Quốc ngữ. Gần đây nhất, trong ba
cuộc hội thảo lớn về chữ Quốc ngữ (năm 2015 tại Phú Yên, năm 2016 tại Bình Định
và tại Quảng Nam) đều có những tham luận nói đến những nhược điểm và ý tưởng
cải tiến chữ Quốc ngữ.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, vấn đề cải
cách chữ quốc ngữ đã từng được bàn đến nhiều lần, trên nhiều phương diện và đề xuất
của PGS. TS Bùi Hiền không phải là một ý kiến mới trong giới ngôn ngữ học.
Tuy nhiên, ngôn ngữ nói chung và chữ viết nói
riêng là một sản phẩm của cộng đồng và mang tính quy ước. Chính cộng đồng sẽ
quyết định sự phát triển của chữ viết, chứ nó khó lòng bị chi phối bởi ý chí,
nguyện vọng hay đề xuất của một cá nhân hoặc bị cưỡng bách thực thi bởi một
mệnh lệnh hành chính. Chính vì thế, cho dù đã có những Hội nghị về cải tiến chữ
Quốc ngữ với hàng loạt các đề xuất của các nhà ngôn ngữ học nhưng tất cả đều
không được áp dụng vào thực tế.
Cho đến nay, đại đa số các ý kiến đều cho
rằng, mặc dù có những nhược điểm như trên, chữ Quốc ngữ vẫn là một loại chữ ghi
âm rất tốt, và hiện nay vẫn đang thực hiện tốt chức năng là chữ viết thống nhất
của nước Việt Nam, dùng để ghi lại tiếng Việt vì những lí do sau đây:
Thứ nhất, chữ Quốc ngữ có đủ khả năng để ghi
lại toàn bộ các âm có thể có trong tiếng Việt hiện đại. Không có một âm nào
trong tiếng Việt lại không thể dùng chữ Quốc ngữ ghi lại.
Thứ hai, chữ Quốc ngữ đã phát triển đến giai
đoạn ổn định, được cả cộng đồng chấp nhận và sử dụng một cách tự nhiên, mang
tính quy ước và phổ cập.
Thứ ba, chữ viết của một ngôn ngữ không đồng
nhất với ký hiệu ngữ âm quốc tế, nó còn ẩn chứa cả văn hoá nữa. Cho nên, không
nhất thiết phải áp dụng nguyên tắc “một âm vị ghi bằng một kí tự và ngược lại”.
Về nguyên tắc, ngôn ngữ (âm thanh) luôn biến đổi theo thời gian, trong khi chữ
viết lại cố định, cho nên qua thời gian bao giờ cũng có sự vênh nhau giữa âm vị
cần ghi và ký tự dùng để ghi.
Dĩ nhiên, nhằm giúp chữ Quốc ngữ thực hiện tốt
chức năng của mình, giới ngôn ngữ học hiện đang rất quan tâm đến vấn đề chuẩn
hóa chính tả (quy chuẩn cách viết), cách viết tên riêng gốc tiếng nước ngoài
(đề nguyên dạng, phiên âm hay chuyển tự), tên riêng gốc ngôn ngữ các dân tộc
thiểu số ở Việt Nam. Đây là những vấn đề mà việc giải quyết một cách triệt để
đòi hỏi cần phải ban hành Luật Ngôn ngữ ở Việt Nam.
2.1.Về mặt pháp lí
PGS.TS Bùi Hiền coi tiếng Việt là tiếng Kinh:
“Tạm thống nhất lấy tiếng Hà Nội làm cơ sở ngữ âm cho việc xác định bảng chữ
cái tiếng Việt (tiếng Kinh)…(tr.3 của Bản đề xuất)”. Điều này vi phạm nguyên
tắc bình đẳng dân tộc bởi Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt Nam coi tiếng Việt
là Ngôn ngữ Quốc gia có nghĩa là của chung toàn dân tộc (Nation) Việt Nam chứ
không chỉ của một tộc người. Ngoài ra, về mặt pháp lí, hiện nay chưa có văn bản
chính thức nào của Nhà nước quy định tiếng Hà Nội là tiếng chuẩn.
2.2.Về mặt khoa học
Phương án đề xuất Cải tiến chữ quốc ngữ mà
PGS.TS Bùi hiền nêu ra rất lộn xộn, chắp vá và hoàn toàn không mang tính khoa
học. Điều này thể hiện ở các điểm dưới đây:
– Thứ nhất, đã là nghiên cứu khoa học không
thể có cách diễn đạt mơ hồ như ” Tạm thống nhất ..”. Việc xác định tiếng nói
vùng nào của Việt Nam làm chuẩn chính âm hiện chưa đươc khẳng định.
– Thứ hai, PGS.TS Bùi Hiền đã có những nhầm
lẫn cơ bản về mặt ngôn ngữ học. Trong tiếng Việt, tiếng Hà Nội không phải là
tiếng có thể đại diện cho một diện mạo ngữ âm trung thực và khách quan của
tiếng Việt. Trên thực tế, tiếng Việt có nhiều vùng phương ngữ, thổ ngữ khác
nhau với các biến thể đặc điểm ngữ âm, từ vựng khác nhau. Như vậy, nếu chỉ dựa
vào hệ thống ngữ âm tiếng Hà Nội để làm cơ sở cải tiến chữ viết thì không phản
ánh trung thực và đầy đủ ngữ âm tiếng Việt. Đề nghị của PGS.TS Bùi Hiền sẽ làm
tăng vọt số lượng các từ đồng âm, đồng tự, gây khó khăn cho việc đọc hiểu văn
bản.
– Thứ ba, PGS.TS Bùi Hiền không phân biệt được
các khái niệm ngữ âm – âm vị học, không phân biệt được âm và chữ. Các con
chữ mà ông đưa ra không liên quan gì tới đặc điểm ngữ âm của nó.
Ông chưa nhận diện đầy đủ về hệ thống ngữ âm –
âm vị học tiếng Việt. Bảng 16 nguyên âm được đề cập trong phần 2 của Bản đề
xuất là không có cơ sở khoa học khi cho rằng có các âm vị /e, ɔ, o/ dài trong
đối lập với /e, ɔ, o/ ngắn. Nhiều ví dụ dẫn ra khiến người đọc băn khoăn về sự
tồn tại của nó trong tiếng Việt hay tính phổ biến của nó. Tác giả liệt kê âm vị
/y/ trong đối lập với /i/ cũng hoàn toàn không có cơ sở khi không đưa được các
cặp đối lập tối thiểu âm vị học mà lại dẫn ra các biến thể chữ viết “ti”~ “ty”.
Điều này còn được thể hiện khi tác giả xử lí
trường hợp nguyên âm đôi /uo/ và tổ hợp bán nguyên âm /w/ + âm chính /o/ giống
nhau (trường hợp “cuốc” và “quốc” được thống nhất ghi thành “kuok”, hay “cua”
và “qua” được thống nhất ghi thành “kuô” theo phương án của tác giả). Ví dụ này
cho thấy ông đã đi ngược lại với nguyên tắc “một chữ ghi một âm và ngược lại”
của chính mình.
Bên cạnh đó, cách trình bày của ông trong Bản
đề xuất cũng thể hiện sự thiếu hiểu biết về cách kí hiệu phiên âm quốc tế:
phiên âm âm vị học được quy định chung của thế giới là trong gạch chéo /…/, và
phiên âm ngữ âm học được quy định chung của thế giới là trong móc vuông […].
Nếu đã không hiểu được các khái niệm căn bản nhất (âm tố, âm vị, ngữ âm học, âm
vị học,…) thì sao có thể bàn tới việc xây dựng (hay cải tiến, cũng như sử dụng)
chữ viết cho ngôn ngữ của một cộng đồng dân tộc?
– Thứ tư, PGS.TS Bùi Hiền không có sự hiểu
biết về từ nguyên học và ngữ âm lịch sử tiếng Việt. Các chữ cái c-k-q tuy dùng
để ghi cùng một âm vị /k/, chữ cái d, gi, r để ghi cùng một âm vị /z/, ch-tr để
ghi cùng một âm vị /c/ trên bình diện đồng đại (nếu theo hệ thống ngữ âm tiếng
Hà Nội) song về lịch sử chúng ghi các phụ âm khác nhau trong tiếng Việt ở thời
kì xuất hiện chữ Quốc ngữ (Thế kỉ 17). Sở dĩ các linh mục dùng chữ d để ghi cái
âm /z/ thời đó vì khi đó đối với các từ ghi “da”, “dì” trong tiếng Việt thì cái
con chữ “d “này được dùng ghi một âm có đặc điểm về phát âm gần với phụ âm được
ghi “d” trong nhiều ngôn ngữ ở châu Âu. Việc nhập ch- tr và ghi bằng con chữ
“c” cũng vậy
– Thứ năm, đề xuất của PGS.TS Bùi Hiền đi
ngược lại hoàn toàn xu hướng chung của các nước sử dụng tự dạng Latin. Không có
bất kì bộ chữ có tự dạng Latin nào sử dụng chữ cái “w” để ghi âm vị /ŋ/. Đề
nghị dùng “w” thay cho “ng” sẽ phá vỡ tính hệ thống trong quan hệ giữa âm và
chữ, khiến người học khó học, khó nhớ. Cách làm này khiến người nước ngoài vốn
quen với các hệ chữ viết tự dạng Latin khó tiếp nhận chữ Quốc ngữ, vì thế gây
khó khăn cho việc phổ biến tiếng Việt, chữ Việt (chữ Quốc ngữ) ra quốc tế.
Tương tự, không có bộ chữ có tự dạng Latin nào
sử dụng con chữ “q” để ghi âm vị /tʰ/. Bên cạnh đó, việc tạo nên một con chữ
mới để thể hiện phụ âm /ɲ/, không thể gõ trên bàn phím máy tính gây khó khăn
lớn trong việc sử dụng trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay. Điều này vi
phạm nguyên tắc tiện dụng trong xây dựng chữ viết.
– Thứ sáu, tác giả còn đề xuất thêm tới 04 con
chữ cái mới trong phương án cải tiến của mình. Điều này cho thấy hệ chữ viết
của ông không tiết kiệm, gọn nhẹ hơn so với phương án cũ.
– Thứ bảy, học tiếng Việt, chữ Việt là quyền
lợi và trách nhiệm của mọi công dân Việt Nam thuộc các dân tộc khác nhau. Đề
nghị cải tiến chữ Quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền làm cho chữ Quốc ngữ trở nên
khác xa chữ viết của một số ngôn ngữ dân tộc thiểu số (phần lớn dựa trên tự
dạng Latin), vì thế gây cho khăn cho người dân tộc thiểu số tiếp thu chữ Quốc
ngữ.
2.3. Về mặt thực tiễn
Nếu cải tiến chữ Quốc ngữ theo đề xuất của
PGS.TS Bùi Hiền sẽ làm vô hiệu hóa một kho văn liệu khổng lồ với các ấn phẩm
được viết bằng chữ Quốc ngữ, làm đứt gẫy sự liên tục văn hóa của cả một dân
tộc. Nếu muốn lưu giữ và truyền tải khối tri thức, văn hóa của dân tộc cho các
thế hệ sau, chúng ta sẽ phải tổ chức in ấn, chế bản lại. Đây là một việc làm
cực kì tốn kém. Không chỉ có thế, sự thay đổi này còn ảnh hưởng nghiêm trọng
đến toàn bộ các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh… do thay đổi toàn
bộ hệ thống văn bản, giấy tờ, dữ liệu hiện hành đang được công nhận trên toàn
thế giới.
Với tư cách là một loại chữ viết ghi lại ngôn
ngữ dân tộc, trải qua những phát triển lịch sử, chữ Quốc ngữ ngày nay đã trở
thành một tài sản văn hóa vô cùng quý giá của người Việt. Bản kiến nghị của
PGS.TS Bùi Hiền chỉ là mong muốn của một cá nhân, hoàn toàn không xuất
phát từ nhu cầu của xã hội. Chúng ta chưa có những điều tra về
nguyện vọng của xã hội về vấn đề này nhưng những phản ứng của
cộng đồng trên các phương tiện thông tin đại chúng thời gian qua đã cho
thấy điều đó. Chữ viết, sau khi được xã hội thừa nhận là tài sản
chung của mọi người. Xã hội chưa có nhu cầu thay đổi thì cá nhân
không thể tùy tiện đề xuất thay đổi, đặc biệt là những đề xuất đó
lại rất thiếu cơ sở khoa học như đã phân tích ở trên.
Mặt khác, bản thân hệ thống chữ Quốc ngữ
hiện hành vẫn đang thực hiện rất tốt vai trò của mình trong đời
sống của xã hội nước ta. Mặc dù có một số bất hợp lí nhưng những
bất hợp lí này là có thể chấp nhận được và không cản trở đến quá
trình giao tiếp bằng tiếng Việt. Vì vậy, bất cứ một sự cải tiến nào cũng
sẽ làm đảo lộn mọi lĩnh vực trong xã hội.
3. Kết luận
Đề xuất cải tiến chữ Quốc ngữ của PGS.TS Bùi Hiền
như đã phân tích là ý kiến của một cá nhân có thể có xuất phát từ mục đích tốt
nhưng lại thiếu kiến thức chuyên môn; hiểu biết chưa toàn diện về ngữ âm học,
ký tự học nên thiếu tính khoa học và thực tiễn, không có tính khả thi. Trong
tình hình chữ Quốc ngữ đang vận hành hiệu quả như hiện nay, Viện Ngôn ngữ học
cho rằng hoàn toàn không nên và không cần thiết có bất kì cải tiến nào đối với
chữ Quốc ngữ.
No comments:
Post a Comment