"Lan man chuyện đôi đũa"
Nếu văn hoá là cái gì
còn sót lại, khi người ta đã quên hết như một tác giả nào đó đã nói (“La
culture est ce qui reste, quand on a tout oublié” ), thì chính đôi đũa là cái còn sót lại.
Lan man chuyện đôi đũa
Từ giã quê hương ra đi,
những gì ta mang theo, nếu có, nhất định không phải là đôi đũa. Vậy mà ngày đầu
tiên đặt chân đến miền đất mới cũng như sau nầy, trong những bữa ăn, đôi
đũa vẫn xuất hiện bên cạnh ta, đi theo ta suốt một đời… nó hiển nhiên đến
nỗi không còn ai biết nó từ đâu đến, tại sao có? Trong những bữa cơm nghèo
nàn, muối dưa đạm bạc hay những yến tiệc linh đình, mỹ vị cao lương, người
Việt ta vẫn phải dùng đến đôi đũa. Không thể dùng tay để bốc thức ăn như
con người 5.000 năm trước đây của nửa phần trái đất nầy. Tuy tầm thường, thô
sơ, rẻ mạt, không ai để ý, nhưng đôi đũa luôn luôn ở bên cạnh ta. Cả đến khi ta qua đời, đôi đũa cũng được so
ngay ngắn để bên chén cơm cúng ta trên bàn thờ.
Đôi đũa là một phát
minh của nền văn minh nông nghiệp cách đây hàng ngàn năm của vùng Hoa hạ (bấy
giờ là nơi sinh sống của người Việt cổ) và sau đó lan tràn cả vùng Đông Nam Á.
Nó vừa là một dụng cụ vừa là một chứng nhân của dòng sinh hoạt văn hóa dân
gian, biểu tượng một phần của đời sống văn minh trong sự ăn uống. Riêng người
Việt Nam, qua cung cách sử dụng, đôi đũa còn thể hiện nét đẹp của tinh thần gia
tộc. Biết kính trên nhường dưới, biết ”ăn coi nồi, ngồi coi hướng”, biết gắp
miếng ngon dâng cho ông bà, cha mẹ, nhưng đồng thời cha mẹ, ông bà cũng chia
sẻ, nhường nhịn thức ăn cho con cháu. Tình gia tộc chan hoà ấm áp qua sự sử
dụng đôi đũa trong bữa cơm.
Trước khi ăn, có người
còn cầm đũa xá 3 xá, để nhớ ơn người nông dân lam lũ, một nắng hai sương, nhọc
nhằn vất vả, mới tạo ra được hột cơm. Và khi ăn, phải ăn cho sạch cơm trong
chén – để thể hiện cái đạo lý ”Ăn trái nhớ kẻ trồng cây” của dân tộc ta. Tập
quán tốt đẹp nầy hiện vẫn còn một số gia đình áp dụng. Đôi đũa còn mang lại cho
ta cái thú vị trong cách thưởng thức món ăn. Cứ thử ăn món phở mà dùng chiếc
nĩa cuộn tròn mấy cọng bánh đưa vào miệng… Hoặc ăn món mắm và rau mà cầm nĩa
xăm từng cọng rau, con dao cắt từng miếng thịt – mắm, thịt và rau rời rạc,
không còn là món ”mắm-thịt-cá-và-rau” hài hoà tuyệt diệu: ăn một miếng, ngon
thấm tận vào da thịt, như âm hưởng một bản đàn đã dứt mà dư âm còn lan man mãi
trong tâm hồn. Ăn mắm bằng muỗng nĩa… thì không còn thú vị gì nữa!
Đôi dòng lịch sử về đôi
đũa
Theo nhiều sử liệu
nghiên cứu về đôi đũa thì người dân vùng Hoa Nam thuộc giống dân Bách Việt là
dân tộc đầu tiên phát minh ra đôi đũa dùng để gắp thức ăn. Trong quyển
L’histoire culturelle de la Chine, sử gia Đàm Gia Kiện xác nhận người Tàu thời
tiên Tần (trước Tần Thủy Hoàng) vẫn còn ăn bốc tức dùng tay như một đứa trẻ đưa
thức ăn vào miệng. Riêng dân Trung Hoa miền Hoa Bắc – ăn bốc là một thói quen
truyền thống. Vì miền nầy khí hậu lạnh lẽo, dân ở đây chỉ trồng được lúa mạch
(orge) và lúa kê (millet) và ăn bánh mì, tất nhiên là ăn bốc, vì phải dùng tay
để cầm bánh mì đưa vào miệng ăn. Và bánh mì của họ khác với bánh mì Tây Phương.
Chỉ khi họ bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng đất của dân Bách Việt (100
giống dân Việt) đất ấm áp, nơi có nhiều rừng tre và trồng được lúa nước, người
Hán khám phá ra dân nơi nầy dùng một dụng cụ thô sơ bằng tre, dùng để và cơm và
gắp thức ăn đưa vào miệng.
Đôi đũa đuợc phát sinh
qua hình ảnh cái mỏ con chim ngậm giữ một cách có hiệu quả hột lúa hay một con
cá, trước khi đưa vào miệng ăn. Và cũng vì thức ăn có nhiều thứ ẩm nước hay
nóng sôi, dùng tay ăn sẽ dơ bẩn hay bị phỏng tay, rất bất tiện… Từ đó, họ dùng
2 cái que, hình ảnh cổ xưa nhứt của đôi đũa. Họ Đàm kết luận, với những khám
phá mới gần đây nhứt, đã minh chứng Đôi Đũa là sản phẩm của nền văn minh nông
nghiệp của vùng Đông Á. (Đàm Gia Kiện, L’histoire culturelle de la Chine –
p.769)
Người Tàu còn sử dụng
đôi đũa trong Toán học trước khi phát minh ra được bàn toán (boulier). Đời nhà
Hán, người Tàu đã biết sử dụng những chiếc đũa viết những con số để xếp thành
những phương trình đại số. Lưu Huy (220-280) dùng những chiếc đũa màu đỏ (chỉ
số dương) và những chiếc màu đen (chỉ số âm), để dạy Toán học, để xếp thành
những ma trận (matrice), một ngàn năm trước cả GAUSS. Người Tàu cũng sớm biết
rút căn số (extraire les racines carrées) từ thời đó. (Theo J. Claude Marzloff,
Histoire des Mathématiques chinoises, 1988, p.376)
Qua những nghiên cứu
về nguồn gốc đôi đũa, luận chứng của sử gia Đàm Gia Kiện gần đây nhứt, có lẽ là
đáng tin cậy hơn cả. Nhà Hán bành trướng lãnh thổ về phương Nam – vùng các tỉnh
phía Nam sông Dương Tử gồm các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam, Phúc Kiến –
là những vùng khí hậu tương đối ấm, trồng được lúa nước và có nhiều rừng tre.
Thực phẩm vùng nầy là cơm nấu từ lúa gạo không phải là bánh mì như vùng Hoa Bắc
(ăn bằng cách cầm tay). Ăn cơm thì phải dùng 2 cái que bằng tre để lùa cơm vào
miệng và để gắp thức ăn – tiện lợi, sạch sẽ hơn dùng 2 bàn tay.
Trên đường lưu lạc xứ
người
Bây giờ lưu lạc xứ
người, cộng đồng ta là một thiểu số nhỏ bé. Môi trường khác, văn hoá khác, ngôn
ngữ tập quán khác. Văn hóa mới ảnh hưởng ào ạt trực tiếp – tác động có tánh
cách thượng phong, áp đảo, nhứt là đối với giới trẻ. Muốn sống còn, dù không
muốn, ta vẫn phải hội nhập vào xã hội mới. Giới trẻ được giáo dục theo văn hoá
sở tại. Từ nơi ăn chốn ở, cách ăn uống, nếp suy tư – là hệ quả của nền giáo dục
mới. Bữa cơm Việt Nam, tất nhiên có đôi đũa, có còn giữ vững địa vị của nó
trong nếp sống của nhiều thế hệ trẻ sinh ra và lớn lên tại hải ngoại không?
Nhiều người ưu tư nghĩ
rằng chỉ vài ba thế hệ sau, nền văn hoá ta sẽ chìm mất vào nền văn hóa bản địa.
Trẻ con ta dần dần sẽ không nói được tiếng Việt, không học tiếng Việt hoặc có,
cũng chỉ là qua loa, thứ yếu. Hậu quả tất nhiên là không đọc sách báo Việt,
không thích nhạc Việt. Trẻ con thích Hamburger hơn cơm, thích khoai tây chiên
hơn phở. Bữa cơm gia đình sẽ không còn canh chua cá kho, sẽ vắng bóng mắm tôm
cà pháo, và đôi đũa, cũng sẽ bị dòng nước lũ văn hoá mới cuốn trôi đi mất…
Mặc dù có rất nhiều tổ
chức, hội đoàn, chùa chiền khắp thế giới hoạt động thiện nguyện, nhiệt tình,
tích cực cho việc giáo dục tiếng Việt cho con em, nhưng có một sự thật không
thể chối cãi là phần lớn con em sinh tại hải ngoại không đọc sách báo Việt ngữ
và thích ăn Hamburger, hot dog hơn cơm và phở.
Bảo tồn và duy trì văn
hoá cũng còn tùy thuộc nơi sức nỗ lực của chúng ta – những bậc cha ông của các
thế hệ sinh tại hải ngoại. Tại sao các cộng đồng Tàu còn giữ được văn hóa của
họ. Thăm dò những người Tàu nhiều thế hệ sinh đẻ tại đây – hiện có người từ 60
tới 90 tuổi, họ vẫn đọc được tiếng Tàu, ăn cơm Tàu, sử dụng đôi đũa… Người Tàu
đã làm được. Còn ta thì không biết ra sao!
Đôi đũa trong bàn tiệc
Một người Tây Phương, Ô.
G. Charles, trong tác phẩm: ”La table du dragon” hết sức ca tụng đôi đũa và
thức ăn Á Đông. Ông viết: ”Người ta tự đào huyệt chôn mình bằng
chiếc nĩa, nhưng ngườt ta xây dựng sức khoẻ của mình với đôi đũa” (On
creuse sa tombe avec la fourchette, mais on construit sa santé avec les
baguettes).
Tác giả một mặt đề cao
đôi đũa và thức ăn Á Đông, mặt khác, ông nhận xét cung cách ăn uống của mấy ông
con trời: ”Bữa ăn được xem là khoảng thời gian sum họp, vui vẻ, nên
người Tàu gây nhiều tiếng động ồn ào trên bàn ăn. Xương xẩu, rác rưởi bỏ bừa
bãi bên cạnh chén cơm hoặc vứt đầy xuống mặt đất… và rất ít khi không thấy họ
khạc nhổ xuống nền nhà. Chiếc bàn sau bữa ăn giống như một bãi chiến trường
ngổn ngang xác chết…” (G. Charles, La table du dragon).
Người Việt ta có lẽ
cũng đã từng thấy ngoài đời lẫn trong phim, người ta ăn lẩu… Họ dùng đôi đũa
dính cơm, thức ăn đang nhai, gắp thịt cá nhúng vào lẩu rồi đưa vào miệng ăn.
Đôi đũa dính đầy đờm dãi, xác rau, thịt cá nhai nát… nhúng vào rồi còn quậy
quậy trong nước lẩu… cho thịt mau chín. Chao ơi! Mọi người dùng cái muỗng múc
nước trong lẩu húp xì xụp!
Chính người viết bài
nầy những ngày gần đây cũng đã từng trải qua nhiều lần ăn lẩu như thế: Cá bóng
kèo còn sống nhảy soi sói… được bỏ vào chiếc lẩu để giữa bàn. Rau rác cũng được
bỏ vào cùng lúc. Hàng chục đôi đũa chỏ vào nhúng, gắp, quậy quậy… rồi đưa vào
miệng nhai, ăn… và tiếp tục dùng đôi đũa dính đầy thức ăn chỏ vào lẩu lập lại
cái ”điệp khúc” nầy nhiều lần trong bữa ăn. Nước dùng trong giây lát… ngả màu,
nổi màng màng. Kỳ vi, thịt cá, rau rác vụn và chắc chắc có cả nước miếng, đờm
dãi trôi lều bều trong nước lẩu… Ly la ve độc nhứt trên bàn chuyền nhau… nốc
ừng ực một hơi, khà một tiếng khoái trá! Những người khác trong bàn vỗ tay:
‘Dzô! Dzô! Chăm phần chăm!’ Tiếng vỗ tay rôm rốp. Tới phiên mình cũng đành phải
nâng ly và cũng đành chỏ đũa, nhúng, gắp như mọi người, nếu không muốn lãnh cái
cán búa. Thiệt tình! Ớn thấu trời xanh!
Thói quen ”truyền
thống” nầy đã có lâu đời nên người trong cuộc thấy rất bình thường. Nếu để ý
một chút hoặc khi xem người Tàu ăn lẩu… thấy thật muốn nhợn… Ớn quá trời! Người
Tây Phương lấy làm lạ trong lòng!
Trong tiệc cưới hỏi
hay party hội họp bạn bè… người mình có thói quen dùng đôi đũa đang ăn trong
miệng gắp thức ăn bỏ vào chén các vị cao niên, các bà, các cô… để bày tỏ sự
kính trọng người lớn tuổi hay sự xã giao lịch lãm của mình. Tuy nhiên, qua sự
thổ lộ của nhiều người, họ rất khổ tâm trước vấn đề nầy. Có nhiều điều bất
tiện. Dùng đôi đũa đang ăn gắp thức ăn phục vụ cho người khác có khi làm họ
không hài lòng. Vì món ăn đó không thích hợp với cái răng vừa mới thay, vì muốn
tự mình gắp món nào mình thích, hoặc vì cử món đó, hay vì món đó khi được phục
vụ chỉ còn đầu và vỏ (thí dụ như tôm hùm). Đôi đũa mình đang ăn, đã dính nước
miếng, cơm và thức ăn nhai trong miệng, mà gắp thức ăn bỏ vào chén phục vụ
người khác. Bỏ thì sợ mích lòng bạn mà ăn thì nuốt không vô… Một bà bạn tâm
sự: “Tui ngồi chết trân, hổng biết phải làm sao, bèn lén lén để ra dĩa
lấy giấy khăn ăn đậy lại, mắt lấm lét vì sợ bị bắt gặp. Trông cho anh bồi đi
tới dọn để phi tang cho lẹ lẹ.”
Ta vẫn có thể lịch sự
phục vụ người khác bằng cách sử dụng muỗng nĩa do nhà hàng dọn sẵn trong dĩa để
lấy thức ăn để vào chén họ. Ta vẫn giữ được thói quen tốt đẹp nầy.
Xoá bỏ một thành kiến
còn khó hơn phá vỡ một thành trì. Huống chi đôi đũa trong bữa ăn người Việt còn
là một tập quán lâu đời, một nét văn hoá trong đời sống ông cha hàng ngàn năm
nay. Bỗng nhiên thay đổi cung cách sử dụng, dù biết đúng đi nữa cũng khó mà
chấp nhận.
Dòng văn hóa ngàn đời
của ta là gạn lọc và thâu thái. Giáo dục của ta vừa dân tộc, vừa khai phóng…
Vừa bảo tồn, vừa biến đổi… Gìn giữ cái hay nhưng đào thải cái dở. Chính chúng
ta là những người trực tiếp tham dự, đóng góp vào dòng văn hoá đó. Đôi đũa là
một di sản dân tộc, cho đến ngàn sau ta vẫn còn sử dụng nó, nếu ta còn là người
Việt. Nhưng biến đổi, cải tiến cung cách sử dụng cho thích nghi với nếp sống
văn minh hiện đại là điều cần thiết, là phù hợp với dòng văn hóa ngàn đời của
ông cha ta.
Lê Quốc
No comments:
Post a Comment