ĂN CƠM CHƯA?
Bình Nguyên Lộc
Bà sơ rút
nhiệt kế ra khỏi nách tôi, chăm chú đọc nhiệt độ, mặt lộ vẻ ngạc nhiên như
không tin ở điều mà bà đọc thấy. Bà dòm mặt tôi, đoạn đọc lại một lần nữa.
Tôi
đang hồi hộp vì đoán rằng có chuyện không hay thì bà đã nhảy ra khỏi phòng, làm
cho tôi hốt hoảng đến cực điểm.
Tôi mắc
chứng thương hàn, sốt mê man mấy tuần nay, vừa tỉnh lại chứng kiến sự bối rối
của con người áo đen bé loắt choắt ấy, làm tôi ngỡ, tôi chết đến nơi.
Nhưng gương
mặt tươi của bác sĩ Chaput hiện ra nơi khung cửa, giúp tôi an lòng lại ngay.
Giờ ấy còn sớm quá, bác sĩ, chắc mới đến nhà thương, chưa kịp mặc áo choàng,
còn vận thường phục.
Bà sơ theo
sau nói:
- Hắn không còn nhiệt độ nữa, chắc hắn
phải lạnh lắm, vì sự thay đổi đột ngột nầy, tôi cho hắn uống Potion de Todd,
bác sĩ nhé!
- Phải đấy.
Đoạn bác sĩ
hỏi tôi:
- Ông nghe thế nào?
- Như vừa tái sanh, thưa bác sĩ.
- Tốt! Mới nghe, tôi hoảng lắm, vì
nhiệt độ xuống thình lình, có thể là triệu chứng của sự chảy máu ruột… nếu ông
lén ăn gì.
Tôi cười, một
cái cười héo hon của con người sốt liên miên hăm tám ngày, mà không ăn uống gì
cả trong thời gian đó. Bác sĩ dặn thêm, trước khi rời buồng tôi:
- Vài hôm nữa là thèm ăn, nhưng phải
nhịn, ăn là lủng ruột ngay. Ngoan lên nhé!
Quên
nói rõ, là tôi mắc bịnh nầy trước chiến tranh, vào thuở mà loài người chưa tìm
ra thuốc trị thương hàn. Nhà thương cứ để vậy, tiêm thuốc nâng đỡ cho trái tim
khỏi lụy, rồi ai kháng chết được, thì sống, ai yếu lắm, là đi.
Như vừa được
tái sanh! Tôi nói không quá lố lắm đâu. Vi trùng thương hàn phá rối sinh lý con
người một cách kỳ lạ lắm. Tôi nghe yêu đời ghê hồn và dòm ra sân nhà thương
tỉnh Bình Dương (bấy giờ là Thủ Dầu Một), tôi thấy khóm bông gừa, thứ bông hèn
ấy, sao mà hôm nay lại đẹp lạ lùng.
Trưa
hôm đó, bác sĩ Chaput khoe với tôi rằng, ở trại bố thí III, một con đồng bịnh
với tôi cũng vừa khỏi. Ông ta sung sướng về chuyện ấy lắm,vì con bịnh các trại
bố thí chết nhiều quá, khiến dân chúng hiểu lầm, nhà thương bỏ bê người nghèo
khó. Sự thật, thì sở dĩ, số tử ở đó lên cao theo tỷ lệ, vì các con bịnh nghèo,
thường để thật nguy kịch mới vào nhà thương và khi vào điều trị, không có người
nhà theo để săn sóc, nhà thương chỉ vừa đủ người lo thuốc men thôi. Còn những
sự săn sóc (rất cần) phải được người nhà lo lấy mới mong lành bịnh.
Tôi yêu đời,
và cố nhiên, yêu kẻ đồng bịnh vừa khỏi cùng một lượt với tôi. Ba hôm sau, được
nuôi dưỡng bằng nước xúp và bột Ý, tôi đã chống gậy đi được, và mục tiêu phiếm
du đầu tiên của tôi là trại III.
Kẻ đồng
bịnh với tôi là một cô gái Trung Hoa, hai mươi tuổi, con gái đang thì, cái ngực
tất phải to, thế mà tôi trông cô ta xẹp lép như con khô hố. Cái mền cô ta đắp,
như dán sát vào chiếu nhà thương.
Người
bạn đồng bịnh với tôi, đi không được như tôi. Trong cơn nóng sốt không ăn,
người nhà tôi có mua Sérum Glucosé cho bác sĩ bơm vào tôi, nhờ thế mà tôi không
suy lắm. Con bịnh nghèo nầy, thì khỏi hưởng món xa xí phẩm ấy, mà nhà thương
không sắm được, vì kém tài chánh.
Tuy
nhiên, nhìn sơ cô gái, tôi cũng thấy là cô ta đẹp lắm. Hoa tàn kia mà còn mang
dấu vết thời tươi thắm thay, huống chi đây chỉ là một đóa hoa thiếu nước lọ
trong chốc lát thôi… Cứ theo người cùng trại với Á Lìl, thì cô ta là một đứa bé
“mua”. Chú Xừng Hinh, chủ tiệm chạp phô ngoài chợ, năm xưa về thăm quê quán bên
Tàu, gặp mùa lụt lội, đói kém, đã mua đứa bé ấy ba mươi đồng bạc. Bạc Trung Hoa
với bạc Đông Dương thuở ấy tương đương giá với nhau, thì các bạn biết, con bé
ấy rẻ là dường nào.
Chú Xứng Hinh cũng khá, xem Á Lìl như
con chú, chớ nhiều thằng khác, nó nuôi những con bé “nước lụt” ấy cho đến thời
trổ mã, bắt làm lụng cho bù với số tiền mua, rồi lại hưởng luôn chúng là khác.
Như chủ
nó, Á Lìl là người Triều Châu. Phụ nữ Triều Châu để rìa tóc phủ lên trán, xem
rất ngây thơ và có duyên. Họ lại đẹp người hơn tất cả các thứ người Trung Hoa
khác. Á Lìl lại là gái dung nhan có hạng trong thứ người đẹp nầy, nên tình
thương kẻ đồng bịnh của tôi, bỗng nhiên, tăng lên gấp bội, vì tôi mới có hăm ba
tuổi.
Nếu như
ở ngoài, chắc không bao giờ tôi nghĩ đến chuyện yêu một ả nô tỳ, cho dẫu là nó
đang đẹp lộng lẫy. Nhưng ở đây, nó là con bịnh, đồng hạng với tất cả con bịnh
khác.
Một
ngày, tôi chống gậy xuống trại III đến hai lần, lần nào tới nơi, tôi cũng đứng
lại nơi cửa trại, để thở dốc một hơi, rồi mới vào được.
Á Lìl đoán
biết tình cảm của tôi đối với nó, nên lần nào, mắt nó cũng sáng lên, khi nghe
tiếng gậy của tôi nện cồm cộp trên gạch.
Từ năm
lên chín, mãi đến bây giờ, nghĩa là từ năm bị bán và đưa sang nước “An Nam”,
con nô tỳ nầy chưa được ai nói ngọt với nó lời nào cả. Bây giờ, bỗng nhiên có
một dân mặc bi-da-ma riêng, lân la thăm hỏi nó, thì làm sao nó không rưng rưng
lệ sung sướng được.
Mặc dầu
chỉ được uống nước cháo với đường hạ, con ở Á Lìl cứ càng ngày càng hồng hào
ra. Con gái, dường như, có dự trữ trong người những sức mạnh gì như cứ chực
vùng lên, không cần ăn gì cho bổ lắm, họ cũng cứ béo tốt ra.
Má Á Lìl cạn
dần lên, trông ngon như hai trái đào ở bảy phủ Triều Châu mà Á Lìl thường ca
tụng với tôi.
Trông Á Lìl,
tôi nghĩ ngay đến những phi tần bên Tàu ngày xưa, cũng tuyển lựa trong đám dân
“nước lụt” như vầy. Thì ra, con gái Trung Hoa, ngàn đời, vẫn đẹp và vẫn để mà
tiếp tế cho các cung tần. Á Lìl sẽ làm bé chú chệt già đại phú nào đây, một
ngày kia.
Hôm ấy, Á Lìl
ngồi dậy được, nhưng còn phải ăn cháo hoa với hàm-yũu. Cháo với vị mặn giúp Á
Lìl tươi tỉnh hẳn ra. Nó tiếp tôi bằng một bài hát gì đó, tôi không hiểu, nhưng
rất thích nghe. Cái giọng mũi của người Triều Châu, khi hát lên, nghe líu lo
rất dễ yêu, nhứt là dễ thương, nghe như là họ khóc cảnh sống lầm than của họ.
Á Lìl cắt nghĩa cho tôi biết rằng, bài
hát ấy nói đến cái mặt trăng nho nhỏ và tròn tròn. Nó mới giải thích tới đó,
thì người nhà chú Xừng Hinh mang cho nó một gàu-mên cơm. Mắt con Lìl sáng hơn
là khi tôi mới vào thăm nó nữa. Tôi hỏi:
- Nhà đem cơm từ bao lâu rồi?
- Ngóa thèm quá, chỉ mới nhắn đem vô
lần đầu thôi.
- Lìl không nên ăn cơm vội. Bác sĩ
không có dặn gì sao?
- Bác sĩ nói tiếng Tây, ngóa đâu có
hiểu. Bà Sơ biết chút ít tiếng Annam, dặn đừng cho ăn đồ cứng, ăn thì lủng ruột
chết liền.
Á Lìl nói
xong cười ngặt nghẹo, một hơi, rồi tiếp:
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ
có không ăn cơm mới chết thôi.
- Lìl không hiểu, chớ ruột Lìl đã bị
vi trùng làm cho mỏng lắm rồi đó.
Á Lìl lại
cười một giây nữa, mà rằng:
- Bị thuốc của thằng Tây làm cho mỏng
thì có. Thầy biết sao không? Hổm nay ông Tây chích cho ngóa chết mà ngóa không
chết, nên ổng bỏ đói cho ngóa chết đó.
Á Lìl nói rồi
vừa kéo gàu-mên cơm lại, vừa nói:
- Ăn cơn với ngừng (gừng) nấu dấm thì
tốt lắm, như người Annam ăn với muối tiêu vậy mà, chết sao được.
Tôi bối rối
quá. Hôm ấy có Má Mẹ, người cai quản các bà Sơ, từ Sàigòn lên Bình Dương thanh
tra, nên bà Louise bận tiếp đón bà Mẹ Bề Trên ấy, không còn ai cho tôi cầu cứu
để thuyết lý Á Lìl. Các thầy khán hộ thì đã dặn con bịnh cữ kiêng xong là nghe
tròn bổn phận, không theo dõi họ để ngăn cản gì nữa. Còn tôi, tôi ngại một
điều, mà cũng chẳng khỏi.
Khi tôi giựt
lấy gàu-mêm cơm, thì Á Lìl giận dỗi trách:
- Cố lứ nói thương ngóa, sao không cho
ngóa ăn cơm?
- Vì thương mới không cho ăn.
Thật thế. Nếu
Á Lìl chỉ là một cô gái xấu xí, tôi cũng không nỡ để cho nó tự tử một cách gián
tiếp như vậy. Huống chi trong mấy ngày vui mừng tái sanh ấy, tôi lại điên dại
mà yêu đứa nô tỳ nầy.
Lìl
cười gằn hỏi:
- Thương gì lại bỏ đói?
- Vì ăn thì chết ngay.
- Đời thuở nào, ăn cơm lại chết. Chỉ
có không ăn cơm mới chết thôi.
Á Lìl lập lại câu hồi nãy, rồi khóc
mùi mẫn.
Thật là em
nhỏ, mất miếng ăn một cái là khóc bù lu, bù loa. Nhưng không sao, tôi sẽ dỗ em
nhỏ, thì em nhỏ nín chớ gì. Tôi định bụng như thế, nhưng tôi lầm.
Lần đầu
tiên, tôi rờ đến Á Lìl. Tôi vuốt tóc trán nó và nói rằng:
- Lìl nín đi, rán nhịn, rồi vài bữa
khỏi hẳn, tôi sẽ đưa Lìl đi ăn tửu lâu Triều Châu Đại La Thiên ở Chợ Lớn, có
nhiều món ngon bằng một vạn thứ cơm gừng dấm nầy. Ở Đại La Thiên có chè thịt
heo nè, có cù lao nè.
Nhưng Á
Lìl cứ khóc, khóc như mẹ chết không bằng, lâu lắm nó mới nói được trong tấm
tức, tấm tưởi:
- Ngóa nhớ tía má của ngóa quá. Tía má
ngóa vì không có cơm ăn nên chết. Tía ngóa chết đi được một tháng, thì má ngóa
bán ngóa cho Xừng Hinh lấy tiền mua gạo cho mấy em của ngóa ăn. Nhưng cả nhà ăn
giỏi lắm được mười ngày, chắc rồi cũng chết hết. Cơm sao lại giết người? Không
cơm mới nguy chớ!
Nghe Á
Lìl nhắc tới nguồn gốc nó, tôi đau xót vô cùng. Cơm là giấc ác mộng của người
Trung Hoa từ mấy ngàn thế hệ nay, cho đến đỗi họ gặp nhau, chào nhau bằng câu:
“Ăn cơm chưa?”
Nhưng
làm thế nào cho con bé dại dột nầy hiểu rằng, không cơm thì chết đã đành, mà có
cơm, lắm khi cũng chết.
Vả, Á
Lìl không cả quyết ăn vì thèm nữa, mà ăn để trả thù sự chết đói của cả nhà nó,
thì làm sao mà thuyết phục nó được. Có lẽ nó đang nhìn cơm, mà nói thầm: “Ừ,
ngày xưa, cha mẹ tao không có mầy nên chết, bây giờ gặp mầy đây, tao có dung
tha đâu! Tao ăn cho sống dai, mặc kệ lũ nó bày điều, đặt chuyện”.
Biết
nói làm sao cũng không xong, tôi xách gàu-mên mà đi; sau lưng tôi, Á Lìl chửi
rủa om sòm bằng tiếng Tàu. Nếu nó mà rượt theo được, chắc nó một mất, một còn
với tôi, để cướp cơm lại.
Chiều
hôm ấy, tôi trốn luôn, đến sáng ngày hôm sau mới dám chống gậy qua trại III.
Á
Lìl vắng mặt trên giường. Thấy tôi ngơ ngác tìm quanh, một bà lão vừa ho sù sụ,
vừa nói:
- Nó chết đêm rồi thầy à, hồi năm giờ
sáng, người ta đã khiêng nó xuống nhà xác.
- Trời ơi! Sao lại chết? Tôi giậm chân
mà hỏi câu ngớ ngẩn ấy.
Người khán hộ ở đâu sau lưng tôi đáp hộ bà lão:
- Chảy máu ruột!
- Sao lại chảy máu ruột?
- Vì ăn!
- Trời ơi!
Bà lão ho, rồi lại nói:
- Thầy giựt cơm của nó mà trốn đi, thì
chiều lại, người nhà nó đem cơm vô nữa. Nó ăn xong, tối lại kêu đau bụng, vằn
vật tới khuya mới chết.
- Sao bà không mời bác sĩ dùm nó?
- Có, tôi có cho bà Sơ hay, bả có kêu
thầy đây.
Bà chỉ vào thầy khán hộ, thầy ta lắc đầu thở ra và giải thích:
- Tôi có tiêm thuốc cho nó, nhưng
không gọi bác sĩ...
- Sao vậy?
- Vô ích. Chỉ có sang máu mới có một
chút xíu hy vọng cứu nó. Nhưng ai sẽ cho máu nó? Còn thuê người để lấy máu thì
tiền đâu?
Là con trai, tôi không khóc được. Nhưng lòng tôi đã tơi bời như áo mục phơi
dưới gió to. Đứng tần ngần giây lâu, tôi hỏi bà lão:
- Nó có nói gì hay không bà, lúc nó
hấp hối?
- Có. Nó có kêu thầy...
- Kêu tôi? Có nhắn gì hay không ?
Nó kêu khóc rằng: “Thầy hai ơi, té ra, quả thật không cơm cũng chết, mà ăn cơm
cũng chết. Ngóa nghèo dốt, biết đâu. Trước kia tía má của ngóa nghèo nên không
ăn cơm, ngày nay ngóa nghèo nên không biết, hai lần đều chết. Thầy hai ơi, ở
lại mạnh giỏi nhá!”
Tôi không còn là con trai nữa, nhưng tôi không khóc tiếc thương một cô gái đẹp.
Tôi chỉ khóc vì một gia đình sống không tên, không tuổi bị thảm kịch cơm làm
tuyệt nòi, chỉ còn một mống thôi. Mống ấy trôi dạt đi xa ngàn dặm, qua cái xứ
có cơm nhiều nầy, mà lại cũng không thoát khỏi thảm kịch cơm.
Ngày nay, mỗi khi nghe một người Trung Hoa chào ai: “Ăn cơm chưa?”, tôi bâng
khuâng nhớ lại mối tình yêu đầu và nao nao buồn mối tình thương đầu của tôi.
BÌNH NGUYÊN LỘC
No comments:
Post a Comment