HCM Ra Đi Cứu
Nước hay Kiếm Cơm?
người lính già oregon
người lính già oregon
Câu trả lời đã nằm, vững chắc như tảng
đá, trong lá đơn xin học Trường Thuộc Địa Pháp của anh bồi trên tàu Amiral
Latouche Tréville tên Nguyễn Tất Thành, alias Nguyễn Ái Quốc, alias Hồ Chí
Minh, alias “Bác Hồ vĩ đại vô vàn kính yêu” của bọn Cộng Phỉ hiện nay.
Năm 1983, giáo sư Nguyễn
Thế Anh và nhà sử học Chánh Đạo, tức Vũ Ngự Chiêu, tức nhà văn Nguyên Vũ1,
tình cờ bắt gặp tại Văn Khố Đông Dương ở Aix-En-Provence và kho tài liệu trường
Thuộc Địa, Paris, hai lá đơn viết tay của Nguyễn Tất Thành xin vào học tại trường
đó. Một lá gửi cho ông Bộ trưởng Thuộc Địa, mà lúc ấy, tôi nghĩ, là Albert
Lebrun, căn cứ theo ngày tháng ghi trong lá đơn của Thành (15/9/1911) và nhiệm
kỳ của ông Bộ trưởng (27/6/1911 - 12/1/1913), và một lá (sao y bản chánh, chỉ đổi
tên người nhận, gọn hơn vì bỏ một vài chi tiết nhỏ2) gửi cho Tổng thống Pháp, bấy giờ là
Armand Fallières, nhiệm kỳ 18/2/1906 - 18/2/1913. Nhưng tôi không tin Nguyễn Tất
Thành, khi ấy, biết được tên của hai vị này, vì nếu biết, theo cách thức viết
công thư, anh ta đã phải gọi đúng tên của hai vị. Trong
cả hai lá đơn, Nguyễn Tất Thành rất hà tiện về dấu chấm, dấu phẩy sau hoặc giữa
mỗi câu –điều rất quan trọng trong cách
hành văn Pháp. Cũng không thèm ký tên, không ghi trình độ học vấn, không đính
kèm bằng cấp, mà anh ta làm sao có được?
Sao y đơn viết tay (chỉ có bốn dấu phẩy, không dấu chấm nào) của
Nguyễn Tất Thành:
Marseille le 15 Septembre 1911
Monsieur le Président de la République
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” pour ma substance
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne
Je suis actuellement employé à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” pour ma substance
Je suis entièrement dénué de ressources et
avide de m’instruire. Je désirerais
devenir utile à la France vis à vis de mes compatriotes et pouvoir en
même temps les faire profiter des bienfaits de l’Instruction
Je suis originaire de la province de Nghê An en Annam
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteur es- lettres) Etudiant français quốc ngữ caractères chinois
Je suis originaire de la province de Nghê An en Annam
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréez, Monsieur Le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteur es- lettres) Etudiant français quốc ngữ caractères chinois
Bản dịch, theo nguyên bản, bởi NLGO:
Marseille ngày 15 tháng chín 1911
Kính thưa Tổng Thống Cộng Hòa
Tôi có vinh hạnh khẩn cầu Ngài ưu ái cho tôi được nhận vào học tại Trường Thuộc Địa với tư cách nội trú
Hiện nay tôi là nhân viên của hãng Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” để mưu sinh
Tôi hoàn toàn không có tài sản và ham muốn học hỏi. Tôi ước ao trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi đồng thời có thể giúp họ lợi dụng những lợi ích của Học Vấn
Tôi quê Nghệ An, Trung Kỳ
Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, Ngài hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892, con trai ông Nguyễn Sinh Huy (phó tiến sĩ văn chương), học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho
Lá đơn, đóng dấu nhận ngày 20/9/1911 bởi văn phòng Tổng thống Pháp, nằm dưới lớp bụi thời gian suốt 72 năm (1911-1983), cũng như huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, đã bị lôi ra ánh sáng, gây ngỡ ngàng thích thú cho nhiều người quốc gia muốn đi tìm bằng chứng của sự thật, hoặc trong trường hợp này, của sự dối trá. Một khám phá “vĩ đại” bất ngờ, “cực kỳ” quan trọng, đã đập vỡ bức tường đen kiên cố che giấu, qua bao năm, cái lý lịch tối mò của một anh bất tài vô tướng, vô nghề, vô sản, vô gia đình, vô lý tưởng, nghèo đói, phải tha phương cầu thực, nhưng lại được bọn đệ tử cuồng tín từ Nguyễn Khánh Toàn đến Trường Chinh, từ Tố Hữu đến Phạm Văn Đồng, cùng một phường khố rách áo ôm, bồng bế tung hê và đút ống đu đủ thổi lên tận mây xanh. Hồ Chí Minh, dĩ nhiên, tưởng không ai có thể biết, đã giấu nhẹm, kể cả với những đồng chí thân tín nhất, về việc này, cho đến khi lẳng lặng vào nằm trong lăng Ba Đình, hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa chứng tích. Đám đồ đệ ngây ngô không biết, hoặc biết mà giả vờ ngây ngô, nên cứ theo sách tự bơm của Bác (Trần Dân Tiên) mà rêu rao rằng Bác qua Pháp để trở về cứu nước thật3. Một vài nghiên cứu gia Mỹ và Pháp, cũng biết (tại sao không?), trước cả hai ông Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh, về sự hiện hữu của hai lá đơn, nhưng giữ im lặng, chờ hai ông phanh phui chúng ra4. Đặc biệt, tác giả Pháp, Christiane Pasquel Rageau, một nữ tín đồ tôn sùng Hồ Chí Minh vô điều kiện, đã viết quyển Ho Chi Minh trong đó bà ta, mặc dù là một nhân viên tại Thư viện Quốc gia Paris có nhiều cơ hội tìm tòi, tra cứu hai lá đơn ấy, cũng đã lờ đi, không nhắc nhở5.
Kính thưa Tổng Thống Cộng Hòa
Tôi có vinh hạnh khẩn cầu Ngài ưu ái cho tôi được nhận vào học tại Trường Thuộc Địa với tư cách nội trú
Hiện nay tôi là nhân viên của hãng Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville” để mưu sinh
Tôi hoàn toàn không có tài sản và ham muốn học hỏi. Tôi ước ao trở thành hữu ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi đồng thời có thể giúp họ lợi dụng những lợi ích của Học Vấn
Tôi quê Nghệ An, Trung Kỳ
Trong khi chờ đợi một sự trả lời mà tôi hy vọng là thuận lợi, Ngài hãy nhận nơi đây lòng biết ơn trước của tôi
Nguyễn Tất Thành, sinh tại Vinh năm 1892, con trai ông Nguyễn Sinh Huy (phó tiến sĩ văn chương), học tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Nho
Lá đơn, đóng dấu nhận ngày 20/9/1911 bởi văn phòng Tổng thống Pháp, nằm dưới lớp bụi thời gian suốt 72 năm (1911-1983), cũng như huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, đã bị lôi ra ánh sáng, gây ngỡ ngàng thích thú cho nhiều người quốc gia muốn đi tìm bằng chứng của sự thật, hoặc trong trường hợp này, của sự dối trá. Một khám phá “vĩ đại” bất ngờ, “cực kỳ” quan trọng, đã đập vỡ bức tường đen kiên cố che giấu, qua bao năm, cái lý lịch tối mò của một anh bất tài vô tướng, vô nghề, vô sản, vô gia đình, vô lý tưởng, nghèo đói, phải tha phương cầu thực, nhưng lại được bọn đệ tử cuồng tín từ Nguyễn Khánh Toàn đến Trường Chinh, từ Tố Hữu đến Phạm Văn Đồng, cùng một phường khố rách áo ôm, bồng bế tung hê và đút ống đu đủ thổi lên tận mây xanh. Hồ Chí Minh, dĩ nhiên, tưởng không ai có thể biết, đã giấu nhẹm, kể cả với những đồng chí thân tín nhất, về việc này, cho đến khi lẳng lặng vào nằm trong lăng Ba Đình, hy vọng thời gian sẽ xóa nhòa chứng tích. Đám đồ đệ ngây ngô không biết, hoặc biết mà giả vờ ngây ngô, nên cứ theo sách tự bơm của Bác (Trần Dân Tiên) mà rêu rao rằng Bác qua Pháp để trở về cứu nước thật3. Một vài nghiên cứu gia Mỹ và Pháp, cũng biết (tại sao không?), trước cả hai ông Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh, về sự hiện hữu của hai lá đơn, nhưng giữ im lặng, chờ hai ông phanh phui chúng ra4. Đặc biệt, tác giả Pháp, Christiane Pasquel Rageau, một nữ tín đồ tôn sùng Hồ Chí Minh vô điều kiện, đã viết quyển Ho Chi Minh trong đó bà ta, mặc dù là một nhân viên tại Thư viện Quốc gia Paris có nhiều cơ hội tìm tòi, tra cứu hai lá đơn ấy, cũng đã lờ đi, không nhắc nhở5.
Cho đến thời đại internet thì
không còn gì có thể giấu dưới ánh mặt trời. Trên sách vở, báo giấy và báo Mạng,
người ta thấy đầy dẫy những sao bản hai lá đơn viết tay và các thư khác của Hồ
Chí Minh, kể cả những bức thư tình, những thư từ qua lại của các viên chức
Pháp, những tài liệu khui ra việc Hồ Chí Minh đi Pháp kiếm ăn, và trình độ Pháp
ngữ của ông ta v.v... Trong đó có tác phẩm của sử gia Trần Gia Phụng, mà theo
thiển ý, được viết rõ ràng, với đầy đủ sử liệu, một cách khoa học và thuyết phục
nhất6.
1. Phản ứng của VC về lá đơn của Nguyễn Tất Thành:
Rồi biết không thể giấu được nữa, đám đệ tử mới
đây đành phải thú nhận. Nhưng do thói quen hàm hồ và ăn gian nối dối trước sự
thật, bọn này vẫn cố ngụy biện, cãi chày cãi cối, về trường hợp lá đơn này,
cũng như sự kiện Hồ Chí Minh có vợ, có con. Quả thực, trước những tài liệu
không thể chối cãi về chuyện HCM có vợ, có con, bọn chúng mới trơ tráo lên tiếng
bênh “Bác”, cho
rằng đó là chuyện thường tình của con người7. Nghe mà thấy ứa gan, muốn xài tiếng
Đan Mạch cho hả giận.
Trở lại
chuyện lá đơn.
a) Cũng vậy. Giáo sư VC Bùi Đình Phong, chẳng hạn,
ngày 3/1/2010 (gần một năm sau khi DVD “Sự thật về Hồ Chí Minh” của Nhóm Linh Mục
Nguyễn Hữu Lễ phát hành, tháng 7, 2009, và 27 năm sau ngày hai ông Nguyễn Thế
Anh và Vũ Ngự Chiêu khám phá và công bố hai lá đơn, tháng 6, 1983) đã viết một
bài có đoạn như sau: “Chúng ta hoàn toàn không giấu
giếm sự kiện này. Hơn hai mươi năm trước, Giáo sư Sử học Đinh Xuân Lâm đã có
bài viết với tiêu đề: “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin học của
Nguyễn Tất Thành năm 1911, đăng trong Tạp Chí Cộng sản, số 5-1987. Vấn đề là ở
chỗ, hiện nay một số người vẫn nghĩ rằng chúng ta không công bố lá đơn này, và
quan trọng hơn là nhiều người không hiểu đúng việc làm của Nguyễn Tất Thành.
Còn các thế lực thù địch thì cố tình bóp méo sự thật lịch sử”8.
Bùi
Đình Phong nói láo không có căn: Lá đơn “bị” khám phá và phổ biến rộng rãi bởi
hai ông Nguyễn Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu năm 1983, và bài của Đinh Xuân Lâm đăng
trong “Tạp Chí Cộng Sản” năm 1987, nghĩa là bốn năm sau, vậy mà y dám nói “chúng
ta hoàn toàn không giấu giếm sự kiện này” thì con nít cũng không tin nổi. Lại nữa:
ai “bóp méo sự thật lịch sử”? Chính y và đồng bọn. Sự thật nằm trong hai lá đơn
còn nguyên si trong thư viện Pháp, bóp méo thế nào được?
Sau
đó Bùi Đình Phong ra sức biện hộ cho chủ: “Đây là cách làm chứ không phải mục
đích của Hồ Chí Minh”8. Y hàm ý, đại khái, Hồ Chí Minh muốn học
hỏi nền văn minh của Pháp để sau này về nước giúp ích cho đồng bào. Về điểm
này, những tên bồi bút VC khác, như Lữ Phương, cũng hùa theo, cho rằng lá đơn của
Nguyễn Tất Thành đã “phản ánh chủ trương rất rõ của Phan Chu Trinh: phải học
văn hóa khai sáng và dân chủ của Pháp để canh tân đất nước”9. Lữ Phương còn viết
rằng Phan Văn Trường, thuộc nhóm cụ Phan Chu Trinh, ở Paris, đã thảo lá đơn này
giùm cho Nguyễn Tất Thành, và sở dĩ Thành muốn vào học trường Thuộc Địa là để “xây dựng phong trào yêu nước ngay trong lòng thực dân”9. Nghĩa là chui vào nhà địch để diệt địch! Thế đấy!
Bồi bút VC đứa nào cũng mơ ngủ, hoặc mắc bệnh tâm thần. Hai “dịch giả” Diên Vỹ
và Hoài An cũng đổ thừa cho cụ Phan Chu Trinh, tội nghiệp cụ, vì lúc ấy cụ đâu
đã biết tên phụ bếp trên tàu Pháp ở Marseille Nguyễn Tất Thành là đứa nào đâu!9
Những
tên bồi bút ấy đã quên một điều quan trọng: chính Thành đã tự giác, tự khai, tự
tố, nghĩa là đã nói rõ bằng giấy trắng mực đen lý do khiến anh ta phải xin vào
học trường Thuộc Địa, và lại còn với tư cách interne, tức nội trú, nghĩa là miễn
trả tiền ăn học. Lý do rành rành ra đó: anh ta than nghèo, không có tiền sinh sống
(je suis
entièrement dénué de ressources).
Nói nôm na, muốn kiếm cơm. Nhưng để đỡ ngượng, phải vớt vát bằng cái cớ “thanh
cao”: muốn học hỏi (avide de m’instruire).
b)
Nguyễn Tất Thành
còn đi xa hơn. Trong cả hai lá đơn cùng một nội dung ấy
có một câu rất quan trọng mà những người quốc gia chúng ta đã phải vất vả mở mắt
cho những tên bồi bút VC thấy, mà bọn chúng vẫn giả mù sa mưa, không (muốn) thấy.
Đó là câu: “Tôi ao ước trở thành hữu
ích cho nước Pháp đối với đồng bào của tôi...” (Je désirerais devenir utile à la France vis à
vis de mes compatriotes) [sic].
Thế này
là thế nào? Trường Thuộc Địa (École Coloniale), như tên gọi, là một trường
chuyên môn có mục đích đào tạo những học viên từ các nước bị đô hộ (Đông Dương,
Phi Châu) để sau này về bản xứ trở thành
những quan chức hữu ích cho thực dân Pháp, nghĩa là phục vụ mẫu quốc10, cũng như École Normale đào tạo những
giáo sư dạy cấp trung học, và ENA (Ecole nationale d’administration) là trường
đào tạo cán bộ hành chánh. Còn nếu muốn học để hấp thụ học thuật, văn minh của
Pháp –điều mà bọn bồi bút VC vẫn dựa lên để cắt nghĩa việc anh ta xin vào École
Coloniale– Nguyễn Tất Thành phải làm đơn xin vào những trường khác, thiếu gì.
Viết câu trên cho Tổng thống và Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa Pháp, rõ ràng Thành nuôi
mộng làm quan cho Pháp, mà làm quan là để hưởng bổng lộc, vinh hoa phú quý, là
đè đầu đè cổ dân lành, giống như cha của anh ta trước kia (cho nên mới có câu “vis à vis de mes
compatriotes”). Nếu không làm quan trong tương lai mà muốn “trở
thành hữu ích cho nước Pháp” thì còn cách nào đây? Vô lẽ đăng lính khố xanh, khố
đỏ?
Biết rõ
như thế, cho nên Bùi Đình Phong đã láu cá, cố tình lờ ba chữ à la France
(= đối với nước Pháp) để dịch ăn gian, lừa bịp người dân và lũ đảng viên trong
nước không có cơ hội đọc nguyên bản và một số thân Cộng hải ngoại, phần đông là
trí thức, nhưng u mê, hoang tưởng, hoặc già lú lẫn, như sau: “Tôi muốn sẽ trở nên có ích đối với đồng bào của tôi...”. Dịch
như vậy, câu đó hoàn toàn có nghĩa khác, không làm ai thắc mắc, đáng khen là
đàng khác. Và cùng với nhiều nhà nghiên cứu VC khác, Bùi Đình Phong vẫn mặt trơ
mày bóng, gân cổ cãi, lại còn đem tên sử gia Pháp thân Cộng Daniel Hémery11
ra làm con ngáo ộp: “Sự thật rõ như ban ngày mà những
kẻ nuôi dụng tâm xấu vẫn ác ý cố tình xuyên tạc. Để hiểu rõ hơn về lá đơn, hãy
đọc Êmơri (Daniel Hémery) –một nhà sử học Pháp chuyên nghiên cứu và giảng dạy lịch
sử cận-hiện đại Việt Nam tại Trường Đại học Pari [sic] VII, trong bài viết: “Về
lá đơn xin vào học Trường Thuộc địa năm 1911 của người thanh niên Hồ Chí Minh”.
Êmơri khẳng định: “Tuyệt đối không thể căn cứ vào lá đơn xin học năm 1911 để
gán ghép cho Nguyễn Tất Thành ý định sau khi học xong sẽ trở thành người cộng
tác với chính quyền thuộc địa”12. Vì y không cho biết xuất xứ câu và bài viết của Hémery
(đăng ở đâu, khi nào, nguyên văn) hoặc y có thể phịa ra, hoặc cố tình dịch sai,
chúng ta không cần bàn thêm.
2. Trình độ Pháp ngữ trong lá đơn:
Ai cũng biết lá đơn của Nguyễn Tất
Thành bị bác và Bộ Thuộc Địa lấy cớ là những thí sinh phải được Phủ Toàn quyền
Đông Dương giới thiệu và gửi sang, nghĩa là anh bồi tàu Nguyễn Tất Thành đã muốn
làm quan tắt bằng cách nộp đơn tắt. Sau đó Thành phải nhờ người anh làm ở Toà
khâm sứ Pháp can thiệp, nhưng không thành công13.
Đó là một
cách nói. Sự thật có lẽ khác, hoàn toàn chỉ dựa trên khả năng Pháp ngữ hạn hẹp
của Nguyễn Tất Thành, một người chưa học lên bậc trung học. Trong khi đó, bọn đệ
tử bồi bút, như Ngô Trần Đức và Lê Công Thành, không tiếc lời ca tụng trình độ
Pháp văn và các ngoại ngữ khác của “Người” (tức Nguyễn Tất Thành, Hồ Chí
Minh) mà bọn họ cho là siêu tuyệt, bởi lý do [rất buồn cười] “Người” đã học tiếng
Pháp ở cấp primaire
(tiểu học) và làm việc trên tàu buôn Tây và hằng ngày nói chuyện bằng tiếng Tây
[NLGO : bồi, dĩ nhiên] với những anh bồi đồng nghiệp14. Ngược lại, những
độc giả và sử gia hải ngoại đều thấy rõ trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành
trong lá đơn là rất kém. Nhưng chưa ai phí thì giờ phân tích nó kém ở chỗ nào15.
Tôi xin
phép được mạo muội dẫn chứng:
Hai lá
đơn sai đủ thứ lỗi (hoặc vấn đề không ổn trong cách
viết đơn, chưa hẳn là lỗi) lớn, nhỏ, khác nhau (10 cho lá đơn gửi tổng
thống, 12 gửi bộ trưởng). Những chữ viết xiên là do tôi, cốt nêu rõ các lỗi hoặc
vấn đề.
Marseille le 15 Septembrea 1911
Monsieur le Président de la
Républiqueb
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne
Je suis actuellement employéc à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville”d pour ma substancee
J’ai l’honneur de solliciter de votre haute bienveillance la faveur d’être admis à suivre les cours de l’Ecole Coloniale comme interne
Je suis actuellement employéc à la Compagnie des Chargeurs Réunis “Amiral Latouche Tréville”d pour ma substancee
Je suis entièrement dénué de
ressources et avide de m’instruiref. Je désirerais devenir utile à la France vis à visg de mes compatriotes et pouvoir en même temps les faire profiter des bienfaits de
l’Instruction
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréezh, Monsieur le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteuri es-lettresj ) Etudiant français, quốc ngữ, caractères chinoisk
Je suis originaire de la province de Nghê An, en Annam
En attendant une réponse que j’espère favorable, agréezh, Monsieur le Président, l’assurance de ma reconnaissance anticipée
Nguyễn Tất Thành, né à Vinh en 1892, fils de Mr. Nguyễn Sinh Huy (sous-docteuri es-lettresj ) Etudiant français, quốc ngữ, caractères chinoisk
(a) Đúng theo phép viết đơn, phải có dấu phẩy sau Marseille. Không viết hoa tên tháng (cf. Le Secrétaire Idéal, Elisabeth Lange, Marabout Service, 1970, tr.150)
(b)
Viết Monsieur
le Président đủ rồi. Sau Président phải có dấu phẩy.
(c) employé: thường có nghĩa nhân viên văn
phòng, khác với tay chân (ouvrier), ví dụ employé de banque. Có thể Nguyễn
Tất Thành không hiểu nghĩa, hoặc hiểu, mà cố tình mập mờ đánh lận con đen, vì nếu
viết thẳng aide-cuisinier
(phụ bếp), chức vụ chính thức, sẽ ảnh hưởng đến việc xin học.
(d) Tên chiếc tàu không được để trong ngoặc kép.
(e) Lỗi (nặng) về dùng chữ:
phải viết subsistance (sinh
sống, sinh nhai) thay vì substance (chất,
bản thể). Lỗi này được thấy trong cả hai lá đơn, nên không thể gọi là lỗi vô ý.
Trong tờ đơn gửi Bộ trường Thuộc Địa, người ta còn đọc: ... pour ma
substance à soi de l’Amiral Latouche Tréville. Vô nghĩa. Nguyễn Tất
Thành muốn nói gì trong“substance à soi”?
(f) Cách hành văn: “entièrement dénué”
và “avide” về lời và ý không đi với nhau bởi conjonction (liên từ) et, cho nên muốn viết
cho xuôi tai, người ta phải lặp lại je suis. “Je suis
entièrement dénué de ressources et je suis avide de m’instruire”, và liên từ et trong vế thứ hai của câu và mạch văn hàm ý nhưng (mais), hơn là và. Trường hợp dùng
liên từ mais,
thì không cần lặp lại je suis: “Je suis
entièrement dénué de ressources, mais avide de m’instruire”.
(g) Lỗi chánh tả:
vis-à-vis (có hai gạch nối)
(h) Lỗi (nặng) về văn phạm:
Khi dùng gérondif
(en + participe présent) En attendant... , trong trường hợp này, chủ từ
của động từ chia (= động từ chính) phải là je (= tôi),
ngôi thứ nhất, nhưng Nguyễn Tất Thành đã dùng agréez (= ông hãy chấp nhận,
mode impératif, mệnh lệnh cách), ở ngôi thứ hai, là sai. Vì người chờ đợi câu
trả lời (en attendant une réponse) là “tôi”, chứ không phải “ông”. Phải viết lại:
“En attendant une réponse [...] je vous prie
d’agréer ...”, tương tự câu tiếng Anh: “While waiting for your answer, I request that you accept...” chứ không phải “While
waiting for your answer, accept...”
(i) sous-docteur : chữ này không có trong
ngữ vựng Pháp. Phó bảng, trong chế độ thi
cử xưa, có nghĩa tiến sĩ đậu vớt (repêché, inscrit au deuxième tableau). Dù vớt
hay không, vẫn là tiến sĩ, nghĩa là có thể dịch: docteur
mà không sợ mang tiếng “ăn gian”. Nguyễn Tất Thành không biết điều này.
(j) Lỗi chánh tả: ès lettres (è chứ không phải e, và không có gạch nối)
(k) Etudiant: Tại sao không viết thành một câu cho nó
đường hoàng? Viết kiểu này, quả thật, là kiểu tiếng Tây bồi... tàu, nghĩa là
ráp chữ. Nếu étudiant là một danh
từ (nom) thì phải có en, (étudiant) en (français), v.v... Nhưng Nguyễn Tất Thành chưa bao giờ là étudiant (sinh viên đại học) thì chữ này phải hiểu là một động từ. Và nếu là một động
từ dùng ở hiện tại phân từ (verbe au participe présent, nhưng tại sao phải dùng
mode participe ở đây?) có nghĩa j’étudie,
j’ai étudié, thì phải viết
(étudiant le français), v.v...
Chưa kể trong đơn gửi Bộ trưởng Bộ Thuộc Địa có thêm hai lỗi nữa:
1) thay vì désirerais, anh viết sai désirérais (không phải é mà e).
2) cuối đơn có câu “mes plus respectueux hommages” (= sự tôn trọng đầy kính
trọng nhất của tôi), nghe không ổn: trong hommage tự nó hàm chứa respectueux rồi, thêm respectueux
không cần thiết. Mà nếu muốn thêm cũng được, nhưng nên bỏ superlatif “(mes) plus”, quá
dư, quá đáng: mes
respectueux hommages. Hoặc viết mes hommages không thôi, cũng đủ lắm rồi.
Viết một
lá đơn bằng tiếng Pháp ngắn như thế và nhiều lỗi, khuyết điểm như thế cho các
viên chức cao cấp nhất của nước Pháp thì bị từ chối là phải, oan ức nỗi gì?
Nguyễn Tất Thành bồi tàu và bọn đệ tử bồi bút cần nhớ rằng người Pháp là chúa kỳ
thị về ngôn ngữ và gia thế (không phải về màu da, chủng tộc như ở Mỹ), và thi
tuyển vào học các trường của Tây, dù ở Việt Nam và dù trả tiền, không phải dễ,
nhất là vào thời Nguyễn Tất Thành, lại còn xin học nội trú, giống như học bổng
bây giờ, càng khó gấp bội. Điều kiện tiên quyết, vô cùng quan trọng, là phải giỏi
tiếng Pháp (như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Nhu), có bằng cấp do Pháp cấp hay giấy tờ
chứng minh học lực, và phải là con ông cháu cha, giàu có... Dù là con một ông
quan huyện (tiến sĩ Hán học, phạm tội đánh chết tù nhân và bị cách chức), một
anh phụ bếp nghèo trên một chiếc tàu buôn Pháp mà đòi xin học trường đào tạo
các quan lại tương lai phục vụ chế độ thực dân, thì tôi không tin trong lịch sử
đô hộ tại Việt Nam đã xảy ra một trường hợp nào mà người Pháp rộng lượng hoặc đặc
cách chấp nhận như thế. Nguyễn Tất Thành nghèo mà ham, cứ tưởng bở, và các đệ tử
tẩu hỏa nhập ma của anh ta không hiểu gì hết, tha hồ múa mép, nói hươu nói vượn.
3. Thay cho lời kết:
Việc
Nguyễn Tất Thành xin học vào trường Thuộc Địa, per se,
tự nó, không có gì là xấu, trái lại có thể rất tốt. Quả thế, theo tài liệu
của sử gia Vũ Ngự Chiêu (Chú thích 1, ở dưới),
một số nhân vật nổi tiếng ở Việt Nam một thời như các ông Bùi Quang Chiêu, Phan
Kế Toại, Trần Trọng Kim v.v... cũng từng là học viên của trường ấy. Tuy nhiên,
điều làm người ta khó chịu, bực mình, khiến phải cất công đi tìm, moi ra cho bằng
được sự thật, nằm trong hai lá đơn của Hồ Chí Minh, đó là thái độ xu nịnh và luận
điệu xuẩn động, ngông cuồng của bọn đệ tử ông Hồ, trước kia và bây giờ, vừa ngu
dốt vừa lố bịch vừa ngoan cố. Lúc trẻ, ông ta qua Pháp để kiếm ăn, thực sự và
rõ ràng, chứ chẳng phải tìm đường cứu nước cứu non gì ráo, như những cái đầu mê
sảng kia đã bịa đặt, rêu rao. Và huyền thoại Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước
được bọn cuồng tín và cả chính Hồ Chí Minh, một tên đại bịp, đại gian, đại ác,
dựng nên để bảo vệ sự nghiệp của ông ta, của Đảng và bộ hạ. Giữa năm 2011, Nguyễn
Tấn Dũng, tên cựu du kích xã, thủ tướng thuộc loại chó nhảy bàn độc, vừa được đồng
bọn tái phong chức, đã đọc trước Quốc Hội bù nhìn bài diễn văn trong đó vẫn còn
cái câu mà bọn chúng không ngớt nhai đi nhai lại như những con vẹt ngu ngốc từ
năm này qua năm khác: “Chúng ta phải luôn học tập lời dạy và noi gương của Bác
Hồ vĩ đại, vô vàn kính mến...” Không đứa nào dám bỏ Bác ra, kể cả những anh, những
chị phản tỉnh cuội tại Paris, như Bùi Tín, Vũ Thư Hiên, Dương Thu Hương.... Bỏ
Bác ra, bọn chúng chỉ là rắn mất đầu, dù cái đầu đã bị đồng bào hải ngoại đập
giập từ khuya. Cho nên cái xác của Bác phải được giữ mãi trong lăng, mặc dầu đã
thối rữa, để hễ có dịp mang ra hù dọa, nhắc nhở đồng bào và đảng viên.
Việc
Nguyễn Tất Thành, alias Hồ Chí Minh, làm đơn xin học trường Thuộc Địa để sau
này ra làm quan cho Tây, nhưng bị từ chối, phải đi lêu bêu kiếm sống tại
London, tại Paris, và gia nhập Đệ tam Cộng sản Quốc tế, rồi về nước du nhập một
thứ chủ nghĩa Cộng sản quái thai, quái vật, quái đản, và một thứ văn hóa bần cố
nông, tiêu diệt những giá trị trí thức nhân bản và truyền thống, gieo bao nhiêu
thảm họa cho con người, thú vật, cỏ cây và giết hại bao nhiêu sinh linh của nước
Việt Nam tội nghiệp, những người duy tâm cho đó là sự an bài của Trời, và những
người theo phái khắc kỷ chấp nhận như vận nước. Còn tôi, thực tế hơn, lại oán
giận hai ông Tổng thống và Bộ trưởng Thuộc Địa Pháp. Đơn của Nguyễn Tất Thành
dù có kém, sai lỗi thì hai ông cũng nên châm chước, nhắm mắt cho anh ta vào học
đại đi, cứ cho anh ta nuôi mộng làm quan đi, mất mát gì, được như vậy thì anh
ta đã chẳng phải gia nhập đảng Xã Hội, rồi đảng Cộng sản Pháp, không sang Nga,
không sang Tàu, không trở về Việt Bắc, chui rúc ở hang Pắc Pó hôi thối, nằm tự
thêu dệt những huyền thoại lố bịch, kêu gào đánh cho Tây cút Mỹ nhào, và hôm
nay nhân dân Việt Nam đã đỡ khổ xiết bao và nhớ ơn hai ông biết chừng nào. Bây
giờ thì trễ quá rồi, hai ông ơi, và trời ơi!
Nhờ
các sách báo của những người quốc gia chống Cộng, nhất là DVD về Huyền Thoại Hồ Chí Minh của Nhóm LM Nguyễn
Hữu Lễ, sau sự phát giác về lá đơn của Nguyễn Tất Thành bởi hai sử gia Nguyễn
Thế Anh và Vũ Ngự Chiêu, những mảng đá trên bức tường huyền thoại nhớp nhúa ảo
tưởng về thân thế và sự nghiệp, kể cả tập thơ con cóc ăn cắp16,
của Bác, đã lần lượt rơi vỡ tan tành. Vậy mà vẫn chưa hết. Đó là việc Nguyễn Tất
Thành đã từng là thành viên của Hội Tam Điểm Pháp (la franc-maçonnerie
française, thù nghịch với đảng Cộng sản Quốc tế
–điều mà sử gia Trần Gia Phụng đã tiết lộ, nhưng chưa có tên học giả VC
nào lên tiếng) và bức hình Nguyễn Ái Quốc đứng đọc diễn văn trong Đại hội Tours
tháng 12, 1920 (mà VC vô cùng hãnh diện) là giả mạo, những việc đó, tôi tin chắc
bọn đệ tử VC trong và ngoài nước chưa đứa nào biết, hoặc biết mà vẫn cố bưng
bít.
Nhưng
đó là chuyện khác, mà tôi sẽ đề cập trong những lần sau, nếu có thì giờ. Chúng
ta phải tiếp tục phá vỡ thần tượng Hồ Chí Minh, nếu muốn tiêu diệt chủ nghĩa CS
vô luân còn sót lại chỉ trên bốn nước của hành tinh này, mà Việt Nam khốn khổ
là một.
Chiếc
tàu hàng lớn Amiral Latouche Tréville
của hãng Chargeurs Réunis trên đó Nguyễn Tất Thành đã làm bồi
CHÚ THÍCH
1. Trong cuộc phỏng vấn sử
gia Vũ Ngự Chiêu về công trình nghiên cứu lịch sử liên quan đến Hồ Chí Minh (Thứ sáu,
5 tháng 11, 2010) do Nguyễn Vĩnh Châu thực hiện, ông Vũ Ngự Chiêu cho biết:
“Ðầu tháng 2/1983,
khi làm việc trên kho tài liệu trường Ecole coloniale, tức học hiệu huấn luyện
các viên chức thuộc địa Pháp, trên đường Oudinot, quận 7, Paris, tôi vô tình
khám phá ra nhiều hồ sơ học viên người Việt tại học hiệu này, như Bùi Quang
Chiêu, Ðèo Văn Long, Phan Kế Toại, Trần Trọng Kim, Lê Văn Miễn, v.v... tổng cộng
khoảng 97 người (CAOM (Aix), Ecole Coloniale, cartons 27, 33 & Registers).
Mục đích của tôi là tìm hiểu về những viên chức thuộc địa Pháp cùng thế hệ Tây
học Việt Nam đầu tiên (ngoài những người tốt nghiệp các lớp huấn luyện ở các tu
viện như Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Trường Tộ, v. v...) để dùng cho chương Biến
đổi văn hóa và xã hội của luận án Tiến sĩ. Thật vô tình, tìm thấy tập hồ sơ xin
nhập học nhưng không được chấp nhận
của Nguyễn Tất Thành, tức HCM sau này, cùng một người bồi khác được chủ Pháp
mang về Paris. Ngoài hai lá thư viết tay gửi Tổng thống Pháp và Bộ trưởng Thuộc
Ðịa, đề ngày 15/9/1911 tại Marseille, còn thêm ba tài liệu của Hội đồng quản trị
trường. Trong biên khảo tam ngữ Một ngôi
trường khác cho Nguyễn Tất Thành (Paris: 1983) tôi đã trình bày khá rõ: Người mà chúng ta biết như HCM sau này đã rời
nước không vì muốn tìm đường cứu nước, mà chỉ vì những tao ngộ bản thân (cha bị
cách chức, tống giam, nên phải bỏ học nửa chừng, v. v...). Từ cổng hậu đóng kín
của trường Thuộc Ðịa, HCM sẽ tìm thấy cánh cửa mở rộng của Ðại Học Phương Ðông
của Liên Sô Nga 12 năm sau.
Năm 1991, trong tập Vàng Trong Lửa, hai Giáo sư Trần Văn
Giàu và Trần Bạch Ðằng đã nhắc đến tập sách nhỏ này, nhưng không nêu tên tác giả
Vũ Ngự Chiêu và Nguyễn Thế Anh. Nên thêm rằng sử gia Nguyễn Thế Anh đồng ý viết
chung với tôi tập sách trên, cũng như phổ biến các tài liệu trên tờ Ðường Mới, nhưng ông Anh không phải là
người phát hiện những tài liệu trên. Ít tháng sau, khi tôi đang làm việc ở
Aix-en-Provence, Nguyễn Thế Anh cho tôi biết hai sử gia Pháp, tức Hémery và
Brocheux, tuyên bố họ đã khám phá ra tài liệu này từ trước. Tôi chẳng mấy quan
tâm. Vấn đề là tại sao Hémery và Brocheux không công bố các tài liệu trên trước
chúng tôi (vào mùa Hè 1983)? Và những người làm phim truyền hình chiến tranh VN
cũng sử dụng tài liệu trên.
Một số học giả Mỹ cho rằng khi
công bố tư liệu trên, tôi đã có ý muốn discredit HCM. Nhưng sự thực lịch sử chỉ
là sự thực lịch sử. Ðáng trách chăng là thái độ thiếu nghiêm chỉnh và lương tâm
nghề nghiệp của một số học giả (kể cả William A. Williams). Vì tư tâm hay một
lý do nào đó, họ đã gạt bỏ những tư liệu đi ngược lại lập luận và diễn dịch của
họ. Ðiều này ảnh hưởng không ít đến công trình nghiên cứu của tôi. [...]
Thật khó tin, nhưng có thực, là
một số sách dùng dạy sử cho các lớp năm thứ nhất hay thứ hai đại học Mỹ vẫn còn
ghi HCM đã rời nuớc năm 1912 để tìm đường cứu nước. Có người còn tuyên bố chẳng
cần tìm hiểu thêm về HCM, dù tác phẩm của họ chứa đầy những lỗi lầm sơ đẳng về
Ðảng CSVN. 'As far as the
Americans are concerned', người ta nói, ngần ấy kiến thức về HCM đã quá đủ.
'Life goes on!' "
2. Những chi tiết đó là: “substance à soi”, “mes plus respectueux hommages”.
3. Đọc Lịch sử
Việt Nam, tập 2, Ủy ban Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội 1985, do Nguyễn Khánh Toàn chủ biên; Chủ Tịch Hồ Chí Minh, tiểu sử và sự nghiệp, do Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương biên soạn,
in lần thứ tư, nxb Sự Thật, 1975; Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chí Minh, Trần Dân Tiên (tức HCM), nxb Sự Thật,
Hà Nội, 1976.
4. Xem chú thích 1, ý kiến của Vũ Ngự Chiêu, đoạn cuối. 5.
Christiane Pasquel Rageau, Ho Chi Minh, Editions Universitaires, 1970,
trong Collection Les Justes.
6.Trần Gia Phụng, Những câu chuyện
Việt sử, tập 2, Toronto, 1999,
tr.306-319: “Huyền thoại ra đi tìm đường cứu nước”, Việt sử đại cương, tập 4 (1884-1945), nxb Non Nước, Toronto, 2008,
tr. 380-424: Nguyễn Ái Quốc: “Vì chủ đích kiếm sống
chứ không có chủ đích chính trị, Nguyễn Tất Thành liên tục thay đổi thế đứng
chính trị, tìm cơ hội tiến thân. Xin vào học trường Thuộc Địa (Paris) không được,
ông theo những nhà chính trị dân tộc Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Từ lập
trường dân tộc, ông vào đảng Xã Hội Pháp. Từ đảng Xã Hội, ông gia nhập đảng Cộng
Sản Pháp, dầu ông tự nhận rằng ông không hiểu chủ nghĩa CS là gì? Đang ở trong
đảng CS Pháp, ông qua hội Tam Điểm, một tổ chức đối nghịch với đảng CS. Đang là
thành viên Tam Điểm, Nguyễn Tất Thành được đại diện ĐTQTCS tuyển chọn để đưa
sang Nga vào tháng 10-1922, ông liền chấp nhận ngay việc tuyển chọn này và bỏ hội
Tam Điểm” (404).
7. cf. Trường
Lam, trong “Bác Hồ của chúng ta”, Talawas Bloc, 24/32010: “Những năm gần đây có
nhiều người nói hoặc viết rằng Bác Hồ có con... Đối với cá nhân tôi và có lẽ của
đông đảo người dân Việt ta, đó là điều đáng mừng. Một con người kiệt xuất mà từ
giã cõi đời không để lại cho hậu thế tí di duệ nào khiến ai chẳng cảm thấy đau
lòng? [...] Hãy để Bác mãi mãi vĩ đại mà giản dị giữa lòng dân tộc, giữa những
tâm hồn Việt Nam, trong sự kính yêu của những người dân Việt Nam.” OK. Nhưng vấn
đề không nằm ở chỗ sinh lý bình thường ấy, cái tệ hại khốn nạn của Hồ Chí Minh
là: (1) chấp nhận được thần thánh hóa bởi bộ hạ, đóng vai một tên đạo đức giả
trọn đời độc thân để có thì giờ chăm lo việc nước, (2) ông ta đã không bao giờ
nhìn nhận những đứa con rơi, thậm chí còn thủ tiêu một trong những người mẹ (Nông
Thị Xuân), và những con rơi này không dám nhìn nhận ông ta là cha (Nguyễn Tất
Trung, Nông Đức Mạnh) -lấy cả người yêu của đồng chí (Nguyễn Thị Minh Khai),
thay vợ như thay sơ-mi.
8. Bùi Đình Phong, bài đăng ngày 3/1.2010 trong mục Hồ Chí Minh toàn tập, Tác phẩm Hồ Chí
Minh tiêu biểu.
9. Xem thêm Đinh Xuân Lâm, Góp phần tìm hiểu cuộc đời và tư tưởng Hồ Chí Minh, nxb CTQG, 2005, tr. 273, 275. Lữ Phương, “Từ Nguyễn
Tất Thành đến Hồ Chí Minh”, trong tủ sách Talawas, 26.1.2007. Diên Vỹ và Hoài
An, Hồ Chí
Minh: Những năm tháng chưa được biết đến,
dịch từ quyển Ho Chi Minh: The Missing
Years của Sophie Quinn Judge, đăng trong Thư mục: Hồ Chí Minh, ngày
23-8-2009.
10. Trần Gia Phụng, Việt sử đại cương, tập 4, sđd, tr. 409, chú thích 13. 11.
Daniel Émery, Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Paris, Gallimard, 1990 12. Bùi
Đình Phong, xem chú thích 8.
13. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại
Cương, sách đã dẫn, tr. 384: “Tại
Sàì Gòn, Nguyễn Tất Thành gởi thư đề ngày 31-10-1911 cho anh là Nguyễn Tất Đạt (Cả Khiêm hay Khâm), đang làm việc tại Tòa
khâm sứ Pháp tại Huế, và nhờ anh vận động xin cho Thành vào học Trường Thuộc địa”.
14. Ngô
Trần Đức, “Về những bài viết ký tên
Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923” (Trao đổi lại với Thụy
Khuê), đăng trên internet:
“Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt
tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã
vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours
supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19-3-1920, ông Nguyễn Tất Đạt
cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc”.
Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng
Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải
biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp. Tại Marseille ngày 15 tháng 9 năm
1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin
vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết
tiếng Pháp, quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31
tháng 10 năm 1911 và tại New York ngày 15 tháng 12 năm 1912, anh Thành đã gửi
hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15
$, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ
nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha
mình hiện nay sống ra sao. Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một
cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả-ngữ pháp, chứng tỏ
người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp. Thời gian đầu sang Anh,
trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay
thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”.
Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình
liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông
thạo, đó là điều dễ hiểu. Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống
nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được
tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một
nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2-9-1919, đã xác nhận
“Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français). Xem
thêm Lê Công Thành, trong bài “Bác Hồ và
nước Việt Nam” (trên internet,
4/6/2011) đã bơm Bác như sau: “Bác là một nhà chính trị lỗi lạc, đồng thời là một
nhà báo, một nhà thơ, biết vẽ, biết đóng kịch và thấu hiểu các nền văn hóa kinh
điển, lãng mạn và hiện đại, nói được nhiều ngoại ngữ của các dân tộc trên thế
giới. Bác luyện cả võ công”.
15. Trần Gia Phụng, Việt Sử Đại Cương, sđd, tr. 386: “Theo tài liệu của đảng CSVN, từ năm
1921, Nguyễn Ái Quốc khởi viết Bản án chế độ thực dân Pháp (xb ở Pháp năm
1925). Tuy nhiên, trong tờ trình của viên chánh kiểm soát quân đội và người
Đông Dương tại Pháp, gởi toàn quyền Đông Dương ngày 12-9-1923, nói về việc Nguyễn
Ái Quốc viết và nói tiếng Pháp, y đã viết như sau: “...Những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc
không phải do ông ta viết... Người Việt Nam ấy [Nguyễn Ái Quốc] chưa đủ khả
năng nói và viết tiếng Pháp trôi chảy...” Riêng về hai lá đơn, Trần Gia Phụng viết trong Những câu chuyện
Việt Sử, tập 2, sđd, tr. 308:
“Không kể việc đúng sai về từ ngữ, văn phạm...”. Nguyễn Văn Chức, trong bài “Hồ Chí Minh &
Đảng CSVN” trên báo “Thế Giới Ngày Nay”, số
197, tháng 3-4, 2007, tr. 11: “Tiếng Pháp trong lá đơn xin học của Nguyễn Tất
Thành quá kém...”
16. “Huyễn Thoại hay Huyền Thoại” (Hội Văn Hóa Việt
phỏng vấn Gs Lê Hữu Mục về HCM, bài của Tinh Vệ, Diệu Tần, 22 Jun 2003, ghi chú thêm 10 Jan 2007): “Ngoài
khoảng trên 20 tựa sách, những bài diễn văn, bài báo, ông đã viết cuốn "Hồ Chí Minh không phải là tác giả Ngục
Trung Nhật Ký" (1989-90) gây nhức nhối cho Cộng sản Việt Nam
(CSVN). Cuốn sách này ông ra sức tập trung ý chí và khả năng hoàn thành chỉ
trong một tháng. Sở dĩ ông phải viết nhanh như vậy để kịp phá vỡ huyền thoại
HCM, "Nhân vật Văn hóa Quốc tế mà Tổ chức UNESCO (Tổ chức Giáo dục, Khoa học
và Văn hóa Liên hiệp quốc) dự định tôn vinh. Ðây là chuyện cũ, nhưng cho đến
bây giờ vẫn là mới cần nhắc lại để dẹp cái phao xẹp "Tư tưởng Hồ Chí
Minh" mà nhóm bạo quyền cố bám vào để tàn Dân hại Nước. Với phương pháp
dùng textology (văn bản học), hệ thống hóa lại, tìm ra những mâu thuẫn và sai lầm
rất vững vàng, tác giả đã minh chứng rằng : HCM là kẻ đạo văn (đạo = ăn cắp, ăn cắp văn người khác). Chúng
ta đã biết người CS dùng bất cứ phương tiện nào dù xấu xa, vô nhân, vô đạo, vô
luân nhất để đạt đến mục tiêu. Mượn đầu heo nấu cháo, lợi dụng xương máu Dân
lành để nhận công của đảng mình chưa đủ, họ còn muốn làm Anh hùng Văn hóa Quốc
tế nữa. Nhóm bồi bút Viện Văn Học Hà Nội dựa trên sự mạo nhận của HCM, ăn cắp
văn của người khác, để thổi phồng tập thơ nhật ký lên một cách lố bịch và trơ
trẽn”.
Người Lính
già Oregon
Portland, Mùa Quốc Hận, 14/4/2012
No comments:
Post a Comment