Trai Thời Loạn
Tôn Nũ Áo Tím
*MỘT
Nó
lớn lên vừa tròn 6 tuổi thì bố đã hy sinh ngoài mặt trận. Ngày đưa tang bố, nó
ngơ ngác cầm bức hình bước theo sau quan tài. Nó chẳng hiểu vì sao hòm của bố
nó phải đắp lá cờ tổ quốc. Mẹ nó tay dắt đứa em gái, vật vã khóc than thảm
thiết. Nó chưa đủ lớn để hiểu được nỗi đau xé ruột của người vợ mất chồng. Tối
hôm đó bàn thờ nhà nó sáng trưng đèn suốt đêm. Mẹ nó ngồi buồn bã bên bàn hương
án. Chị đốt hết cây nhang này đến cây nhang khác. Cặp mắt đỏ hoe, chị đến bên
bàn thờ lấy bộ áo quần lính của chồng xếp lại đặt ngay ngắn lên bàn, bên cạnh
tấm hình của anh. Cái nón đỏ có gắn hình con báo màu đen chị để lên phía trên,
im lặng, đứng nhìn. Những dòng nước mắt chảy dài, chị cố nén tiếng nấc và gục
đầu bên cạnh bộ đồ lính trận của chồng. Chị biết rằng cuộc đời mình đã không
hoàn toàn như ý, một chặng đường khó khăn đang
chờ đợi chị ở trước mắt.
Em nó vô tư chạy đến cầm tay mẹ: “Mẹ ơi, con muốn ngủ”. Nó chẳng thấy buồn,
thường ngày ba nó vẫn vắng nhà vì phải đi chiến đấu ngoài mặt trận. Lâu lâu ba
nó được nghỉ phép thì gia đình nó mới có những phút giây sum vầy, hạnh phúc bên
nhau. Bây giờ nó đã biết là mãi mãi ba nó sẽ không về nữa và nó cũng vĩnh viễn
không còn có được những tiếng cười rạng rỡ trên môi, không còn những phút giây
ngồi trên lưng cho ba nó làm con ngựa, cũng không còn nữa hình ảnh chú lính tí
hon khi nó lấy chiếc mũ của ba nó đội lên đầu, rồi ba nó hô “Nghiêm!” là
nó đưa tay lên chào…
Hai
tháng sau, số phận nó được định đoạt. Nó theo chú về ở với nội. Mẹ và em nó thì
trở về bên ngoại. Lúc chia tay, nó vùng vằng dậm hai chân xuống đất không muốn
đi, nó muốn theo mẹ. Nhưng sự trì kéo nào rồi cũng không đủ lực để rứt nó ra
khỏi số phần mà định mệnh đặt lên vai nó. Nó quay đi theo nắm tay của chú, hờn
dỗi mẹ, không thèm nhìn lui. Nó khóc, mẹ nó cũng khóc. Nó khóc vì nó nghĩ mẹ nó
không thương nó. Nó chưa đủ lớn để hiểu rằng khi ba nó không còn thì làm sao mẹ
nó có thể nuôi nỗi một lúc hai đứa con vẫn còn quá nhỏ. Mẹ nó khóc vì thương
cho hoàn cảnh chia lìa của mẹ và con. Nó trở nên lầm lì từ giây phút đó. “Cha
mẹ sinh con, trời sinh tánh”, nhưng với nó thì khác, cha mẹ sinh ra nó, nhưng
hoàn cảnh xã hội, sự tàn nhẫn của chiến tranh đã làm cho nó trở nên chai lì,
ngang bướng…
Mười
hai tuổi, chú nó đưa vào học trường Thiếu Sinh Quân ở Vũng Tàu. Chung quanh nó
bây giờ không còn người thân, chỉ là những đứa bạn có những hoàn cảnh không may
như nó. Một cuộc sống mới bắt đầu từ đây. Vũng Tàu là một thành phố nằm ven
biển, là khu du lịch nổi tiếng tại miền nam Việt Nam. Nơi đây khí hậu không có
bốn mùa xuân, hạ, thu, đông mà chỉ có mùa mưa và mùa nắng. Nó thích cái nắng
cháy da của Vũng Tàu vì vào mùa này, thành phố trở nên đông vui, nhộn nhịp bởi
khách du lịch đến Vũng Tàu nghỉ mát. Mùa nắng nó cũng được ra bãi chơi mỗi khi
có chú nó từ Sài Gòn về thăm.
Lớp đệ thất Thiếu Sinh
Quân
Đời
học sinh dưới mái trường Thiếu Sinh Quân của nó cũng cam go không kém gì các
trường trung học phổ thông ở ngoài. Chương trình kéo dài bảy năm, từ đệ thất
đến đệ nhất. Theo qui định của Bộ Giáo Dục, học sinh trường nó cũng được nghỉ
hè, nghỉ Tết như các trường trung học phổ thông khác. Cuối tuần cũng có những giờ
phép cho học sinh ra ngoài chơi. Ngoài các môn học về văn hóa, mỗi tuần nó có
thêm bốn giờ học quân sự để tập lăn lê, bò lết và sử dụng một số vũ khí cơ bản
trong quân đội. Ngoài ra học sinh còn phải học thêm võ thuật như Thái Cực Đạo,
Nhu Đạo và Tae Kwon Do. Nhờ thế mà sức khỏe của nó rất tốt. Một lần chú nó hỏi
về ước vọng tương lai:
· Sau
ni học xong, con thích làm gì?
Nó nói với chú một cách
rất vô tư:
· Làm
gì cũng được nhưng con không thích đi chiến đấu chú ơi.
Ba
nó đã chết vì đi chiến đấu, nên nó không thích là đúng. Chú nó thương và động
viên:
· Vậy
thì con phải cố gắng học thật xuất sắc thì con sẽ được chuyển vào các trường
đại
học.
Nghe
vậy nó tỏ ra rất phấn khích và cố gắng học tập. Nó không biết tương lai khi đã
vào trường Thiếu Sinh Quân thì mãi mãi cuộc đời sẽ là quân nhân chuyên nghiệp,
chỉ được ra ngoài khi trở thành thương phế binh. Dù muốn dù không, sau
cái chết của ba nó, cuộc đời nó đã được an bài.
Mười
tám tuổi, theo luật định là phải đầu quân. Dù học đến lớp nào, khi đến độ tuổi
mười tám là phải ra khỏi trường đi quân dịch. Nếu học sinh vào trường học trể,
chưa học đến lớp đệ nhị mà đã đến tuổi đăng lính, không có tú tài một hoặc thi
rớt tú tài một, phải chấp nhận vào trường Hạ Sĩ Quan. Sau thời gian huấn nhục,
ra trường sẽ mang cấp bậc trung sĩ. Nó nhớ lại câu hát mà trong trường bạn nó
thường nghêu ngao: “Rớt tú tài anh đi trung sĩ, em ở nhà lấy Mỹ nuôi con”, cho
nên nó rất cố gắng học tập vì nếu hỏng thi là phải đi trung sĩ và sẽ ra mặt
trận chiến đấu. Nó sợ phải chết như ba nó.
Một
hôm chú nó về thăm, nó chăm chút hỏi chú rất nhiều về việc học, nó chỉ sợ hỏng
thi:
· Chú
ơi! nếu con hỏng tú tài một thì con có được học lại không?
· Được
chứ, nhưng con phải cố gắng đậu, khi đó con sẽ được chuyển qua trường Sĩ Quan
Trừ Bị Thủ Đức. Ra trường
con sẽ là một anh chuẩn úy.
· Con
không được học tiếp lên để thi tú tài hai sao?
· Không
được vì lúc đó con đã đến tuổi mười tám rồi.
Nghe vậy nó có chút
âu lo. Qua năm năm gắn bó với trường Thiếu Sinh Quân, nó trưởng
Thành rất nhiều. Nó nhận
ra được một cuộc sống thế nào để được xem là có giá trị, một cuộc sống được xã
hội chấp nhận và tôn trọng. Chú nó là một động lực mạnh mẽ giúp nó đối diện với
thực tại và lấp đầy những thiếu thốn về tinh thần .
· Nếu
tốt nghiệp với tấm bằng tú tài hai thì con sẽ đến đâu học tiếp?
· Con
sẽ có ba nơi để chọn lựa: Trường Không Quân, Trường Hải Quân và Trường Võ Bị
Quốc Gia Đà Lạt.
Nó
im lặng. Nó tin vào nó. Nó nhất định sẽ cố gắng không để bị hỏng thi. Nó tin
vào chú nó sẽ chọn cho nó một con đường, nơi đó là mục tiêu mà nó phải đến, có
khát khao, có ước mơ, có hy vọng… Nó đang hình dung một tương lai lấp lánh đầy
những ngôi sao hạnh phúc thắp sáng con đường nó sẽ đến, đó là con đường vào
trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Một trung tâm đào tạo những sĩ quan ưu tú cho đội
ngũ quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Nơi vun bồi lý tưởng quốc gia cho những chàng
trai Việt với tình yêu quê hương, tình yêu Tổ Quốc và tình yêu đồng bào.
***
*HAI
Đà
Lạt, một thành phố nằm trong vùng cao nguyên trung phần, khí hậu ôn hòa quanh
năm, bao bọc bởi những cánh rừng thông ngút ngàn làm cho Đà Lạt trở nên
thơ mộng. Nhờ thời tiết ấm áp, Đà Lạt trở thành nơi nghỉ dưỡng lý tưởng
cho mọi người. Tôi quen anh trong một bữa tiệc sinh nhật nhà bạn. Anh mang y
phục của một sinh viên Sĩ Quan Võ Bị. Dáng dấp oai phong và khuôn mặt tuấn tú
của anh đã làm cho tôi chú ý ngay từ đầu. Là một nữ sinh nội trú của Trường
Couvent Des Oiseaux từ khi lên mười sáu tuổi, tôi ít có dịp được ra ngoài.
Thường khi ba tôi từ Sài Gòn lên đưa tôi về thăm nhà, đó là những lúc tôi được
đi chơi. Nay tôi đã mười tám, cái tuổi đôi chín của tôi đã bắt đầu biết rung
động, biết lắng nghe tiếng thì thầm của trái tim.
Kể
từ khi gặp anh thì việc về thăm nhà đã không còn quan trọng với tôi nữa. Tôi
bắt đầu biết hò hẹn từ lúc đó. Chúng tôi gặp nhau vào những dịp cuối tuần,
quanh quẩn trong thành phố Đà Lạt mù sương. Anh đưa tôi đến những thắng cảnh
nỗi tiếng của Đà Lạt như đỉnh Núi Bà (Lang Biang), thung lũng tình yêu, thác
Cam Ly, chèo thuyền trên Hồ Tuyền Lâm, Hồ Than Thở… Anh hỏi tôi:
· Đố
em biết vì sao người ta gọi là hồ Than Thở không?
Tôi đã giải thích theo một
câu chuyện cổ tích mà tôi được nghe từ rất lâu:
· Đó
là chuyện tình của chàng Hoàng Tùng và nàng Mai Hương. Chàng tham gia nghĩa
quân Tây Sơn bị tử trận.
Nàng nghe tin, đến bên hồ than khóc và trầm mình chết. Hoàng Tùng về được biết
người yêu tự vẫn nên nhảy xuống hồ trầm mình chết theo. Hai người được chôn gần
nhau trên một đồi thông gần đó, thế là từ đó xuất hiện nhạc phẩm Đồi Thông Hai
Mộ. Tên Hồ Than Thở cũng do đó mà ra.
Anh
cười nhìn tôi và giải thích:
· Em
nói như vậy là không hợp lý. Khởi nghĩa Tây Sơn thời điểm đó là Đà Lạt chưa ra
đời
làm gì có chuyện tham gia
nghĩa quân Tây Sơn được.
Tôi
suy nghĩ và sắp xếp lại dòng thời gian, tôi thấy anh nói đúng. Tôi chỉ cười dã
lả cho khỏi bị quê và rồi anh kể tiếp:
· Hồ
Than Thở ngày xưa người Pháp đặt tên là Lac Des Soupirs. Soupirs có nghĩa là âm
thanh của gió thổi trong
rừng, ví như tiếng thở hay là tiếng thì thào của gió. Nghĩa đen là hồ của những
thanh âm vi vu của gió.
Tôi
thấy anh giỏi hơn tôi tưởng nhiều. Thời gian trôi qua, chúng tôi trở nên thân
thiết với nhau hơn. Tôi hiểu thêm về con người và gia cảnh của anh. Ba tử trận
từ lúc bé, anh vào trường Thiếu Sinh Quân và giờ đây, hiển hiện trước mắt tôi
là một sinh viên tuấn tú năm thứ ba của trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt. Một ngôi
trường có bề dày lịch sử oai phong lẫm liệt. Một trung tâm đào tạo những tài
năng trẻ văn võ song toàn, xứng đáng cả về tài và đức để lãnh đạo quân đội
trong tương lai. Và anh, chính anh là mẫu người mà đất nước, con người Việt Nam
đặt niềm tin yêu và hy vọng. Một năm nữa, anh sẽ ra trường với cấp bậc thiếu
úy. Một năm nữa tôi cũng sẽ ra trường với dáng vóc một cô tú kép của trường
Couvent Des Oiseaux.
Bạn
tôi nhìn chúng tôi bằng những đôi mắt ngưỡng mộ. Tình yêu của tuổi mới lớn tôi
trao gởi cho anh ngày càng thắm thiết. Thứ tình cảm trong sáng ấy đã làm anh
phải suy nghĩ. Một lần được ba tôi mời về Sài Gòn chơi, anh đã khéo léo từ
chối:
· Dạ
cám ơn bác, chú của cháu cũng ở Sài Gòn, cháu sẽ sắp xếp về thăm vào một dịp
khác.
Nghe anh từ chối, tôi man
mác buồn. Lần đó tôi đã không theo ba về Sài Gòn. Tôi ở lại với
anh. Tôi ở lại với người
đàn ông mà tự lúc nào đã làm cho tôi mê mệt. Anh đẹp trai, nét đẹp trai của
người đàn ông hiền lương chân thật. Phong thái đạo đức nơi anh lộ rõ qua cách
đối xử nhẹ nhàng và lối trò chuyện ôn hòa với bè bạn. Anh đã chinh phục tôi từ
phút đầu gặp nhau. Tôi, một đứa con gái chưa học xong bậc trung học, bỗng nhiên
bị quay cuồng đầu óc vì anh. “Làm sao để giữ được anh? Đẹp trai như anh thì đám
con gái như tôi sẽ vây quanh mà níu áo…”. Tôi miên man suy nghĩ suốt ngày và
ngay trong giấc ngủ, hình ảnh của anh cũng hiện về, làm cho tôi phải trăn trở,
đắn đo. Tôi ước được hóa phép thành cái máy soi, luồn lách vào các ngăn tim của
anh để coi xem có hình bóng của tôi trong đó. Anh im lặng quá! Cái im lặng chết
người. Nhưng ngược lại, đôi mắt của anh nhìn tôi sao mà nồng nàn đến thế! Tôi
quờ quạng trong vùng nửa sáng nửa tối. Yêu tôi, không yêu tôi, yêu tôi, không
yêu tôi… tôi ngắt từng cánh hoa của đóa hoàng cúc quăng xuống đất, miệng cứ nói
nhỏ yêu tôi, không yêu tôi… cho đến cánh hoa cuối cùng. Tôi có được hai tiếng
“yêu tôi”. Thế là lòng tôi rộn ràng hẳn lên. Tôi nhảy cỡn lên, tung đài hoa vào
khoảng không, la lớn: “yêu tôi”. Trời đất chứng giám, rừng thông chứng giám cho
tình yêu của tôi. Nó đơn sơ tinh khiết như một trang giấy trắng không vướng một
vết mực nào.
*BA
Lễ
mãn khóa trường Võ Bị Đà Lạt năm nào cũng được tổ chức theo một nghi lễ truyền
thống rất trọng thể. Tôi và đứa bạn có mặt từ rất sớm. Dưới lá cờ vàng ba sọc
đỏ tung bay, tôi thấy anh uy nghi và sáng lóa trong bộ lễ phục của một sinh
viên Võ Bị Quốc Gia. Chiếc cầu vai đỏ làm cho anh càng thêm rực rỡ. Anh được gắn
lon Thiếu Úy kể từ giây phút đó. Văn bằng cử nhân khoa học ứng dụng Đà Lạt cũng
được trao tay. Tôi say mê nhìn anh không chớp mắt. Trời Đà Lạt hôm đó trong vắt
một màu xanh tràn đầy hy vọng. Niềm hy vọng của một sinh viên Sĩ Quan Võ Bị sắp
rời xa mái trường để nhập cuộc dấn thân vào vùng lửa đạn, gánh lấy vai trò bảo
vệ tổ quốc, gìn giữ non sông.
Cuối
buổi lễ, tôi ôm bó hoa chạy rất nhanh đến bên anh, tôi muốn ôm anh thật chặt
vào vòng tay bé nhỏ của mình. Nhưng bỗng nhiên tôi khựng lại và hết sức ngỡ
ngàng, anh đang đứng với hai người phụ nữ, một già và người kia thì nhỏ hơn,
trạc độ tuổi tôi. Thấy tôi đứng sững không bước thêm bước nào, anh tới nắm tay
tôi dẫn đến trước mặt người phụ nữ lớn tuổi và cho biết đó là mẹ anh, còn cô
gái là người em ruột của anh. Tôi nhẹ người, bao nhiêu ý nghĩ nghi ngờ vụt tan
biến, tôi cúi đầu lí nhí mấy chữ “con chào bác” rồi xây qua cười hòa với người
em gái. Sau đó anh kéo tôi vào chụp một tấm hình kỉ niệm với mẹ và em gái mình.
Từ giây phút đó, tôi biết anh không có người con gái nào khác nữa ngoài tôi.
Tôi hiểu ra rằng trong một góc khuất của trái tim anh đang giữ hình bóng của
tôi.
Ngày
anh ra trường trở thành Thiếu Úy tôi bắt đầu bước vào năm thứ nhất Đại Học Văn
Khoa Sài Gòn. Chúng tôi xa Đà Lạt từ đó. Anh về Sài Gòn nghỉ phép một thời gian
rồi đi nhận nhiệm sở. Ba tôi có ngỏ ý muốn gởi gắm cho anh ở nội thành, nhưng
anh đã dứt khoát từ chối. Trong thời gian chờ đợi để xa nhau, chúng tôi có
những giây phút hạnh phúc ngắn ngủi bên nhau rất quý hiếm. Chiến cuộc lúc đó
ngày càng leo thang khốc liệt. Tôi cố giấu nỗi buồn vào trong. Tuổi trẻ chúng
tôi đối diện với một tương lai không mấy sáng sủa. Ngày anh lên đường xông pha
chiến trận, chúng tôi có một bữa cơm chia tay. Tôi đã khóc. Sự im lặng của anh
suốt thời gian qua và cho đến giờ phút này tôi đã hiểu ra hết mọi lý lẽ. Anh
nắm tay tôi, qua đôi mắt, tôi thấy anh rất buồn. Anh thấu hiểu tất cả những suy
nghĩ trong tận cùng ngõ ngách trái tim tôi. Anh biết tôi muốn gì. Điều ước muốn
rất thường tình của những người con gái khi đến tuổi biết yêu. Nhưng anh đã cho
tôi biết là “chúng ta không thể”. Không chỉ riêng mình anh không thể mà cả tôi
cũng không thể.
Vâng,
“không thể” vì chúng ta sinh ra nhằm thế kỉ của chiến tranh, của đau thương
tang tóc… Tuổi trẻ của chúng ta bị xô vào một ngõ cụt mà bản thân không thể
quyết định được bất cứ điều gì ngoài việc cầm súng bắn vào những người cùng màu
da, cùng ngôn ngữ. Tuổi trẻ chúng ta như đang mò mẫm, quờ quạng trong một con
đường hầm tối tăm không lối thoát. Con đường đầy khói bụi chiến tranh. Anh
không muốn tôi trở thành góa phụ khi còn quá trẻ. Anh khuyên tôi nên tìm một
người xứng đáng để bảo đảm cho một cuộc sống tương lai.
Tôi
gục đầu nước mắt dàn dụa. Những kỉ niệm của Đà Lạt mù sương bỗng chốc sáng lên
trong tôi rồi dần dần lịm xuống. Hết rồi những buổi sớm bên bờ Hồ Xuân Hương,
dưới làn sương mờ ảo chen kẽ từng sợi nắng xuyên cánh rừng thông. Hết rồi con
đường vòng Lâm Viên với ngọn gió Bắc chập chùng se lạnh.
Loáng
thoáng đâu đây tôi nghe giọng ngâm của một bài thơ não ruột:
“……
“Anh làm thân Kinh Kha
“Góc núi đầu non ngày đêm
chống giặc
“Rồi một hôm,
“Nhận tin ngựa hồng ngã
gục
“Trên chiến trường khói
súng ngút ngàn bay
“Em không trong tay
“Dù đã thật sự mất nhau…
từ những ngày tháng đó
“Anh hôm nay,
“Một chân gởi chiến trường
mù sa lửa đỏ
“Một chân trở về với chiếc
nạng gỗ cô đơn
“Không dám nhìn người tình
cũ năm năm
“Cô bé ngày xưa viết hoài
một khúc tình ca
“Trọn đời yêu Võ Bị
“……
(1)
*BỐN
Lá
thư cuối cùng anh gởi cho tôi như có một sức mạnh vô hình trói buộc cuộc đời
tôi vào số kiếp của anh:
“Em yêu,
Khi mở lá thư này, em hãy
nhìn cho thật kĩ khung trời rạng rỡ màu xanh bên ngoài cửa sổ kia. Em hãy nhìn
màu xanh bằng ánh mắt sáng ngời hy vọng. Tất cả chim muông cây cỏ chứng giám
cho lòng anh. Anh rất yêu em! Mối tình hoa mộng đầu tiên của tuổi mới lớn, anh
sinh viên Võ Bị và cô gái nữ sinh trường Couvent Des Oiseaux đẹp biết chừng
nào! Rừng thông Đà Lạt, núi đồi Lang Biang, suối nước Camly… cất giữ cho chúng
ta bao nhiêu kỉ niệm? Nhưng rồi cuối cùng anh thấy nó vô thường và mong manh
quá! Có nhiều điều khiến anh không thể đến với em. Em có hiểu không? Anh còn
gánh nặng món nợ với non sông đất nước. Còn bổn phận đối với quê hương đồng
bào, em có hiểu không? Anh phải đi đúng con đường dành riêng cho lý tưởng thanh
niên, lý tưởng của người trai thời loạn. Em, một người con gái mới lớn, em còn
cả một tương lai rộng mở phía trước. Gia đình em sẽ trải những tấm thảm mượt mà
cho em bước, vì em là đứa con gái duy nhất mà anh thường đùa là “con gái rượu”.
Anh bị chúng bạn ganh tỵ chỉ vì quen em là con gái rượu. Em có hiểu không? Khi
đối diện với ba và gia đình em, anh lại thấy mình càng không thể đến với em. Em
như một cái trứng non được ấp ủ, nâng niu chìu chuộng. Đón em về, liệu anh có
thể đem đến cho em một cuộc sống bình an sung túc được không? Chỗ đứng của em
không thể là góa phụ. Nơi ở của em không thể là phòng không chiếc bóng, ngày
đêm làm chinh phụ ngóng trông chồng. Em yêu, em đừng khóc, anh biết là em đang
khóc. Cái trẻ con của em là ở đó. Chính cái trẻ con ấy đã khiến anh đôi lúc
phải mềm lòng. Nhưng những người lính như bọn anh, không được phép mềm yếu. Dẫu
biết sự cứng rắn có khi sẽ làm cho con người trở nên băng giá, như em đã có lần
nói “anh thật vô tình!”. Anh rất xin lỗi em. Hãy cố gắng xứng đáng là đứa con
hiếu thảo với ba mẹ em. Hãy trở thành con người hữu ích cho xã hội và nhất là
đứa em gái, cô nữ sinh Couvent Des Oiseaux, xinh đẹp sống mãi trong trái tim
anh. Mãi yêu em.
H.T.
Tôi
ở hậu phương, ngày ngày theo dõi tình hình chiến sự. Chiến tranh bùng nổ một
cách tàn khốc. Anh trôi xuôi theo bốn vùng chiến thuật, từ Quảng Trị, Khe Sanh,
Hạ Lào, Charlie, Pleiku, An Lộc… Những lá thư từ chiến tuyến gởi về, anh nói
nhiều về những trận đánh, những nơi chốn anh đi qua, những người bạn ngã xuống…
Anh chẳng đá động gì đến nỗi nhớ thương mà người em gái hậu phương đang ngày
đêm mong đợi. Anh cũng không hứa hẹn gì về những giờ phép về thăm nhà. Chỉ toàn
là những giây phút bất ngờ, thoáng hiện rồi thoáng đi. Anh không cho tôi một cơ
hội để hy vọng vì chung quanh anh, lằn ranh của cái sống và sự chết rất mỏng
manh. Nhưng tôi vẫn cứ hy vọng.
Cơn
lốc chiến tranh trở nên dữ dội vào những ngày cuối tháng 4 năm 75. Sự hoảng
loạn bùng phát một cách ghê gớm. Chính thể Việt Nam Cộng Hòa bị thay đổi. Tôi
ngậm ngùi theo gia đình xuống tàu vượt thoát và hoàn toàn mất tin tức của anh
sau cái ngày oan nghiệt 30 tháng 4.75.
Trên
đất Mỹ, gia đình tôi phải bắt đầu lại từ đầu. Tôi bỏ ngang việc học, lo đi làm.
Sống giữa một đất nước tự do, tiến bộ, với nhiều cơ hội để học hỏi và thăng
tiến, tôi cố gắng hội nhập vào đời sống mới, gầy dựng cho mình một vốn kiến
thức căn bản vững chắc. Tôi tận dụng và khai thác tất cả những tinh hoa văn hóa
của nước Mỹ để vun bồi cho vườn hoa trí tuệ của mình. Thời gian quen dần, tôi
lấy thêm giờ học vào buổi tối. Lo đi làm, lo đến lớp học, quần quật với những
bài tập làm thêm ở nhà, tôi quên mất bản thân, quên mất hình ảnh của anh với
mối tình đầu một thời hoa mộng.
Bước
vào độ tuổi 50, tôi trở nên điềm đạm, trầm tĩnh hơn. Ngoài giờ làm ở hãng, buổi
tối về nhà, tôi thường xem tin tức trên ti vi. Tôi biết cộng đồng người Việt
bây giờ đã ổn định và dần dần lớn mạnh. Họ bắt đầu kêu gọi tìm đến nhau qua
những buổi hội họp nay chỗ này, mai chỗ nọ. Một buổi tối, tình cờ tôi nghe
loáng thoáng phát ngôn viên đài truyền hình đọc lá thư mời họp mặt của trường
Võ Bị Đà Lạt khóa…, tôi chợt tỉnh người vụt nhớ đến anh. Tôi lao vào tìm kiếm,
thăm dò… Tôi mua vội tờ báo tìm tòi trong mục sinh hoạt cộng đồng để biết thêm
vài chi tiết về cuộc hội ngộ ấy. Hai tuần nữa là đến ngày họp mặt của các anh.
Tôi có mười bốn đêm để nguyện cầu. Trước hình tượng Mẹ Quan Thế Âm Bồ Tát, tôi
thành tâm khấn nguyện “cho con gặp lại anh”. Dù anh có thế nào, trên đôi nạng
gỗ hay trên chiếc xe lăn, tôi sẽ mãi vẫn là cô học sinh Couvent Des Oiseaux bé
nhỏ sống mãi trong trái tim của anh.
Sáng
sớm hôm ấy, tôi tìm đến địa chỉ tổ chức hội ngộ. Đó là một căn nhà có khoảng
sân vườn rất rộng phía sau. Tôi thấy khá đông người được sắp xếp ngồi rất thứ
tự trên những chiếc ghế xếp có tựa lưng. Từ đằng sau tôi tìm chỗ đứng trong một
góc khuất và quan sát, tìm kiếm… Nhìn các vị trong ban tổ chức làm việc, tôi
thấy họ thân thiện cởi mở trong tình huynh đệ chi binh. Các anh thay phiên nhau
lên sân khấu phát biểu. Họ kể cho nhau nghe những kỉ niệm chiến trường, những
vui buồn đời lính. Họ chia sẻ với nhau những khoảnh khắc đau thương khi nhìn
thấy huynh đệ của mình ngã xuống trước mũi súng quân thù. Cũng có anh rơm rớm
nước mắt trang trải nỗi lòng khi nhìn vợ trong tay một người đàn ông khác vào
giờ khắc được trả tự do sau hơn chín năm tù đày. Có nỗi đau nào lớn hơn thế.
Những
giây phút tâm tình qua đi. Giờ ăn bắt đầu. Mỗi người được phát một hộp cơm có
đũa và nỉa kèm theo. Các anh vừa ăn, vừa thưởng thức văn nghệ. Ca sĩ là những
anh chị trong gia đình Võ Bị. Tôi chỉ là một người khách tự nguyện đến, không
liên hệ gì với Võ Bị, tôi xin ghi tên tham gia một tiết mục, ban tổ chức rất
sẵn sàng.
Tôi
cất tiếng hát, rất tự tin. Tôi hát với tất cả tấm lòng mong mỏi và hy vọng được
gặp lại anh, cho dù thật mong manh, nhưng nếu đã có sự gắn kết của số phận thì
niềm hy vọng ấy sẽ thành hiện thực.: “Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại,
xin trả lời mai mốt anh về…”(2). Tôi tin anh sẽ trở về, dù là với đôi nạng gỗ
hay trên chiếc xe lăn thì mãi mãi anh vẫn bất diệt trong trái tim tôi.
Bài hát vừa dứt, những tràng pháo tay nổ ra liên tục. Tôi vẫn đứng yên, chưa
chịu buông micro, mọi người im lặng chờ nghe tôi muốn bày tỏ điều gì… “Thưa các
anh, tôi tên là Đinh Hương, trước là học sinh trường Couvent Des Oiseaux Đà
Lạt, xin được tìm anh Trần Hoàng, Võ Bị khóa 28, xin hỏi có ai biết không ạ?”.
Tôi đứng im chờ đợi trong hy vọng mong manh. Tôi nhìn theo những cánh tay chỉ
trỏ. Một người đẩy xe lăn từ từ về phía tôi. Khoảng cách chừng năm mét, tôi kịp
nhìn thấy anh. Đúng, đúng là anh rồi. Đôi mắt ấy, đôi mắt ẩn dấu một nét buồn
thăm thẳm. Cũng bộ lễ phục Võ Bị ngày xưa, nhưng bây giờ, anh phải ngồi trên
chiếc xe lăn thay vì đứng hiên ngang dưới bầu trời cao rộng. Tôi chạy ùa về
phía anh. Tất cả mọi người im lặng. Không gian như chùng xuống. Những cảm giác
trái ngược nhau, vừa đớn đau, vừa hạnh phúc đang tràn về trong tôi. Tôi quỵ
xuống trước mặt anh, trước mặt mọi người… Đôi tay của tôi bỗng hụt hẫng không
có điểm tựa và tuột dài xuống đất. Anh đã không còn đôi chân. Tôi nghe tiếng
gào đau đớn từ trong tiềm thức ‘Trời ơi!” rồi ôm choàng lấy thân thể anh. Anh
cứ ngồi yên mặc dù đôi tay vẫn cử động được bình thường. Anh im lặng nhìn tôi,
ánh mắt ấy vẫn trong sáng như ngày nào. Sự im lặng của anh như một lời thú tội
của người thua cuộc. Ngày xưa, anh cũng im lặng như thế, nhưng sự im lặng của
chào thua số phận. Tôi hiểu ra điều ấy và nói lớn trước mặt mọi người: “Anh
Hoàng, Em yêu anh, mãi mãi em vẫn yêu anh, người con Võ Bị”.
Hoan
hô! Hoan hô! Những tràng pháo tay vang lên liên tục không ngừng nghỉ kèm với
tiếng chúc mừng… chúc mừng… Những bó hoa lần lượt được trao đến tận tay
chúng tôi. Anh nở nụ cười. Lần đầu tiên tôi thấy nụ cười hạnh phúc trên đôi môi
anh.
(1) “Bài
Alfa Đỏ Cuối Cùng”
(2) “Bài
Kỉ Vật Cho Em” nhạc của Phạm Duy phổ thơ Linh Phương
San Jose, 30-1-2017
Tinh co doc duoc bai nay. Rat hay.
ReplyDeleteNien Truong Tran Hoang cua khoa 28 that khong?
Khoa 28 va 29 ra troung duoc khoang 10 ngay thi mat nuoc.
that buon thay cho Nien Truong Hoang.