Mạnh
Kim
Lượt
xem: 28578
“…ngày
càng bị hút mạnh vào sự lệ thuộc kinh tế Trung Quốc?
Lý do là gì? Phiên bản nhỏ hơn bị lỗi nhiều hơn, kém
chất lượng hơn, hay bị cố tình làm cho hỏng nhiều
hơn? Và ai là thủ phạm?...”
Báo
chí thế giới vẫn tràn ngập tin tức về Trung Quốc.
Không ưa Trung Quốc đến mấy cũng phải thừa nhận Bắc
Kinh đang tiến rất nhanh trên con đường cạnh tranh quyền
lực với Mỹ. Các cảnh báo về thủ đoạn và âm mưu
Trung Quốc trên con đường ngoi lên vị trí cường quốc
vẫn không làm cho doanh nghiệp phương Tây ngưng hợp tác
với Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp Mỹ lẫn châu Âu phải
nhượng bộ rất nhiều trước những yêu cầu và luật
lệ trói buộc khi làm ăn tại Trung Quốc.
Nhìn
lại sự trỗi dậy Trung Quốc, có thể rút ra vài điểm:
1/
Trung Quốc đang chi cực mạnh cho các thương vụ đầu tư
khắp thế giới, đặc biệt Mỹ và châu Âu. Theo hãng
nghiên cứu tài chính Rhodium Group, chỉ trong năm 2016, đầu
tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc vào Mỹ là
45,6 tỷ USD (gấp ba so với năm 2015); và FDI của họ vào
châu Âu là 35,1 tỷ euro;
2/
Trung Quốc đang thiết kế nhiều mô hình cùng lúc, từ
“Một vành đai, Một con đường” đến Ngân hàng đầu
tư hạ tầng châu Á (AIIB), để từng bước tạo ra một
trật tự thế giới mới mà họ là trung tâm;
3/
Trung Quốc xây dựng “nhuyễn lực” (quyền lực mềm)
bằng công cụ truyền thông rộng khắp thế giới và bằng
các chương trình “viện trợ” cho những quốc gia mà
thời điểm hiện tại có thể phục vụ lợi ích chính
trị của họ (Campuchia chỉ là một ví dụ rất nhỏ). Họ
cũng đầu tư mạnh vào sản phẩm văn hóa, như điện
ảnh, để xuất khẩu và truyền bá “tư tưởng Trung
Quốc” và “tinh thần nhân bản Trung Quốc”;
4/
Trung Quốc áp dụng chính sách ngoại giao gây hấn và lấn
chiếm biển Đông không chỉ để thỏa mãn và đạt được
tham vọng bành trướng muôn thuở mà còn để lấy lòng
người dân trong nước như một trong những phương thức
trị an;
5/
Trung Quốc làm mạnh các chiến dịch lobby ở các nước
thông qua các tổ chức lobby chuyên nghiệp trong đó có Mỹ
(đề tài này xin được viết riêng thành một bài khác),
để đánh bóng hình ảnh Trung Quốc cũng như tìm được
đúng cửa để gõ cho các dự án đầu tư vào quốc gia
bản địa;
6/
Trung Quốc tổ chức một hệ thống “dư luận viên cấp
cao”, gồm nhiều giáo sư, học giả, nhà báo…, để
giao chiến trên mặt trận truyền thông (bằng tiếng Hoa
lẫn tiếng Anh), thậm chí ngay trên các chuyên san ngoại
giao uy tín của Mỹ (như Foreign Policy) hoặc trên các tờ
báo chính trị khu vực quen thuộc như The Diplomat;
7/
Trung Quốc đầu tư mạnh vào kỹ thuật quân sự và hiện
đại hóa quân đội không chỉ cho tham vọng bá chủ tương
lai mà còn để hù dọa các nước khu vực thời điểm
hiện tại;
8/
Trung Quốc đầu tư mạnh vào một số kỹ thuật như công
nghệ robot và các lĩnh vực liên quan trực tuyến chẳng
hạn điện toán đám mây, viễn thông và không gian, để
tạo ra sức mạnh riêng (trong khi nhiều lĩnh vực khác họ
bỏ lỏng vì không đủ thực lực và nền tảng kiến
thức lẫn kinh nghiệm, chẳng hạn kỹ thuật y học);
9/
Trung Quốc áp dụng chính sách bảo hộ mậu dịch để
củng cố sức mạnh doanh nghiệp bản địa;
10/
Trung Quốc tiếp tục ủng hộ (ngầm) chủ trương ăn cắp
công nghệ-kỹ thuật thế giới để tiếp cận và sở
hữu công nghệ tiên tiến một cách nhanh nhất.
Có
thể còn nhiều điểm chưa nêu hết nhưng nhìn chung vẫn
phải thừa nhận “mô hình” mà Trung Quốc đang theo đuổi
đã giúp họ trở nên mạnh và mạnh hơn rất nhiều lần
so với chính họ cách đây chỉ một thập niên. Trung Quốc
đang chứng minh, ít nhất với người dân họ, rằng mô
hình chính trị và phát triển kinh tế của họ, là thành
công. Tuy nhiên, sẽ còn rất lâu Trung Quốc mới có thể
bắt kịp các nước tiến bộ, về an sinh xã hội, tự do
báo chí, giáo dục, lẫn môi trường. Không có mô hình
phát triển nào là toàn bích tuyệt đối và mô hình Trung
Quốc càng rất bất toàn. Trung Quốc đã phải trả giá
rất đắt cho sự chọn lựa giới hạn bắt buộc trong
các mục tiêu phát triển của họ.
Có
thể liệt kê một danh sách dài về mặt trái phát triển
Trung Quốc: môi trường tan nát, giáo dục nhếch nhác,
dịch vụ công tồi tệ, tham nhũng tràn lan, đạo đức
xuống cấp, và cả chính trị phe nhóm. Sau nhiều năm
“bùng nổ phát triển”, thành phố Bắc Kinh từng có
lúc như phải “đóng cửa” trước tình trạng ô nhiễm
nghiêm trọng; người Trung Quốc phải sống trong sự khủng
hoảng an toàn thực phẩm; giới có tiền phải đưa con đi
tỵ nạn giáo dục; công nhân bị đối xử như tầng lớp
thấp nhất xã hội; đất nước vẫn như một nhà tù
khổng lồ đối với những người hoạt động lên tiếng
đòi hỏi một xã hội liêm chính và một nền chính trị
cởi mở…
Thật
trớ trêu là tất cả mặt xấu của tấm huy chương phát
triển Trung Quốc đều có một bản sao gần như không sai
chệch một ly ở một phiên bản nhỏ hơn: Việt Nam - dù
sự phát triển Việt Nam còn lâu mới có thể so với
Trung Quốc; bất chấp rằng mô hình chính trị Việt Nam
là một phiên bản sao y của Trung Quốc. Có những câu
chuyện xảy ra ở hai nước giống nhau đến mức chỉ
khác biệt ở tên người và địa danh, từ chuyện đầu
độc thực phẩm; xếp hàng tranh chỗ vào lớp một; thi
cử rối ren; bệnh nhân đánh bác sĩ; sự lộng hành của
nhân viên trật tự đô thị (Trung Quốc gọi là “thành
quản”); mua bằng bán cấp; mua quan bán tước; con ông
cháu cha; hối lộ quan chức; công an đánh chết dân; hình
thức chủ nghĩa; trưởng giả làm sang; đến cả các
phương pháp theo dõi, bắt bớ và “xét xử” những bản
án dành cho giới hoạt động xã hội. Điều gì khiến
Trung Quốc và Việt Nam trở thành một ngoại lệ hiếm
hoi trong lịch sử thế giới trong đó hai quốc gia giống
gần như hệt nhau, trừ ngôn ngữ?
Yếu
tố địa lý có thể là nguyên nhân. Địa lý là một
trong những lý do gần như luôn được nêu lên đầu tiên
trong các bài viết phân tích và lý giải về sự khó khăn
trong việc “thoát Trung”. Cùng với địa lý là văn hóa,
với những tương đồng trong văn hóa hai nước. Tuy nhiên,
cả địa lý lẫn văn hóa, dù mang lại ít nhiều ảnh
hưởng, vẫn không phải là thủ phạm. Nhật Bản vẫn là
Nhật Bản dù văn hóa Nhật có nguồn gốc ít nhiều từ
Trung Quốc; và Kanji là một trong những chữ viết có
nguồn gốc Hán tự nhiều nhất thế giới – nói về văn
hóa và ảnh hưởng văn hóa. Singapore vẫn là Singapore dù
74,3% dân số nước này là người gốc Hoa. Nói về địa
lý, đã có một Do Thái biết cách tạo ra được một
“căn cước dân tộc” đủ mạnh để không bị đồng
hóa và chịu ảnh hưởng văn hóa của khối Arab vây kín
gần như bít bùng. Địa lý và văn hóa không là thủ
phạm. Chính trị và mô hình chính trị tương đồng mới
là yếu tố chính, trong trường hợp Trung Quốc và Việt
Nam.
Nếu
Việt Nam được lãnh đạo bởi một mô hình chính trị
và được điều hành bởi một mô hình kinh tế như
Singapore hay Hàn Quốc thì liệu Việt Nam có còn giống
Trung Quốc nữa không? Câu hỏi này xin nêu ra như một gợi
mở chứ không phải kết luận. Dù vậy, như được thuật
trong “Why Nations Fail: The Origins of Power, Prosperity, and
Poverty” (tác giả Daron Acemoglu), vai trò điều hành và
cách thức điều hành mới là yếu tố quyết định cho
phát triển, bất chấp địa lý lẫn văn hóa. Ví dụ được
nêu trong “Why Nations Fail” là thành phố Nogales được
ngăn chỉ bởi một cái hàng rào – một bên thuộc Santa
Cruz, bang Arizona, Mỹ; bên kia thuộc bang Sonora, Mexico.
Nogales-Mỹ có thu nhập hộ dân trung bình khoảng 30.000
USD/năm; đa số người trưởng thành tốt nghiệp trung
học, người dân được hưởng nhiều dịch vụ phúc lợi,
đời sống an toàn, xã hội không trộm cắp, tham nhũng,
và họ được bầu thị trưởng, nghị sĩ địa phương…
Trong
khi đó, hầu hết người trưởng thành tại Nogales-Mexico
không có bằng trung học, nhiều thiếu niên bỏ trường,
các bà mẹ lo lắng tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, cướp
bóc giật dọc nhan nhản… Giữa cái hàng rào, không có
khác biệt gì về địa lý, văn hóa, khí hậu hoặc thậm
chí các loại dịch bệnh vì vi trùng chẳng phải đối
mặt với rào cản hay biên giới nào để gây bệnh. Sự
"thiếu may mắn” của người Nogales-Mexico là họ
không được sống trong một thể chế chính trị ổn định
và quốc gia không được điều hành bằng một nền chính
trị minh bạch (Mexico là một trong những nước có tình
trạng tham nhũng tồi tệ nhất thế giới). Rõ ràng yếu
tố địa lý lẫn ảnh hưởng văn hóa không hẳn là
nguyên nhân của vấn đề, khi nói đến Trung Quốc và
Việt Nam. Hãy thử nhìn sự khác biệt trong văn hóa sống
của người Hong Kong với người Hoa lục sẽ có thể thấy
thêm không ít điều.
Trả
lời phỏng vấn Đài tiếng nói Việt Nam (VOV) trong chuyến
đi Quảng Tây giữa tháng 9-2017, Trương Hòa Bình (phó thủ
tướng) nói: “Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng
giềng gần gũi…, mối tình hữu nghị truyền thống “vừa
là đồng chí, vừa là anh em” được Chủ tịch Hồ Chí
Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông cùng các thế hệ tiền
bối dày công gây dựng…, đã trở thành tài sản chung
quý báu của hai đất nước, hai dân tộc…”.
Những
phát biểu tương tự lặp đi lặp lại, năm này qua năm
kia, như được rã ra từ một cuộn băng ghi âm sẵn, đã
gần như xác quyết mối quan hệ bất di dịch giữa hai
nước. Tuy nhiên, khi Hà Nội “kiên định” với con
đường và lựa chọn của họ, có bao giờ họ tự hỏi
tại sao họ “chọn đúng” nhưng đất nước vẫn “đi
sai” và không thể phát triển theo cách tương tự Trung
Quốc; rằng trong khi mô hình Trung Quốc đang lớn dần
nhưng phiên bản nhỏ hơn của nó lại ngày càng èo uột,
và tệ hơn, ngày càng bị hút mạnh vào sự lệ thuộc
kinh tế Trung Quốc? Lý do là gì? Phiên bản nhỏ hơn bị
lỗi nhiều hơn, kém chất lượng hơn, hay bị cố tình
làm cho hỏng nhiều hơn? Và ai là thủ phạm?
Không
người dân nào có thể biết chính xác đằng sau quan hệ
Việt-Trung hiện tại là gì, nhưng gần như ai cũng thấy
rằng sự chọn lựa của Hà Nội đang mang lại cái giá
quá đắt cho đất nước và cho nhiều thế hệ.
Mạnh
Kim
No comments:
Post a Comment