45 năm chính
sách “ triệt người ”
Mạnh Kim
Mạnh Kim
Trong
hồi ký Viết trên gác bút, nhà văn Nguyễn Thụy Long ( Cháu ruột
nhà văn Nguyễn Bá Học, người nổi tiếng với câu “ Đường đi khó, không khó
vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông ” ), kể
lại thảm cảnh một vụ tịch thu sách năm 1975 sau khi chính quyền mới tiếp quản
Sài Gòn: “ Một cửa hiệu chuyên cho thuê truyện tại đường Huỳnh Quang
Tiên bên cạnh nhà thờ Ba Chuông tại Phú Nhuận phát nổ khi đoàn thu gom sách
mang băng đỏ xâm nhập tiệm. Ông chủ nhà sách mời tất cả vào nhà. Rồi một trái
lựu đạn nổ. Chuyện xảy ra không ai ngờ. Đương nhiên là có đổ máu… Cả chủ tiệm
cũng mạng vong ”…
Câu
chuyện Ông chủ hiệu sách uất ức thà chết còn hơn nhìn “ băng đỏ ”
gom và ném sách đi đốt chỉ là một trong những bi kịch của miền Nam sau 1975.
Không chỉ đốt sách, con người cũng bị triệt, đến tận cùng. Nhà văn, nhà báo,
nhà giáo, bác sĩ, kỹ sư… đều bị tống đi học tập cải tạo. Miền Nam không chỉ đột
nhiên rơi vào tình trạng thống khổ cùng cực mà còn chứng kiến những cảnh không
thể tưởng tượng: phu nhân đại tá đi bán rong, vợ giáo sư buôn vỉa hè, thầy giáo
mưu sinh bằng xích lô, ký giả chạy xe lam, con sĩ quan xếp hàng mua từng ký
gạo…
Những
hình ảnh đã đột ngột làm biến dạng miền Nam sau 1975. Những câu chuyện trải dài
theo ký ức và nghe ( tưởng chừng ) “ phi thực tế ” đến nỗi
những thế hệ sau này khi được kể nghĩ chắc hẳn là chuyện bịa. Đã có cả trăm
quyển sách viết về những câu chuyện này, từ đi tù cải tạo đến vượt biên bỏ
mạng. Nhắc lại không phải “đào xới” chuyện cũ. Để thấy rằng, “ di sản ”
1975 đến giờ vẫn tiếp tục còn sau 45 năm. Chính sách triệt tiêu con người sau
1975 vẫn tồn tại. Đó mới là điều cần nói.
Trong
số “ đối tượng ” hứng chịu sự trả thù vô lý và nghiệt ngã có những
trí thức đỉnh cao mà trí tuệ họ xứng đáng đại diện cho dân tộc Việt. Có lẽ
không gương mặt nào trong Bộ Chính trị hoặc nhân vật nào trong “ nội các ”
hiện tại có thể so với những bậc trí thức VNCH về trình độ lẫn nhân cách. Điều
đáng tiếc nhất là một số trí thức này đã phải “ trả giá ” cho lòng
yêu nước, chỉ bởi họ quá yêu nước, khi họ chọn ở lại mà không đi nước ngoài sau
1975, với niềm tin ngây thơ vào chế độ mới và với nhiệt tâm đóng góp tái thiết
sau chiến tranh. Quê hương, với họ, là nước nhà; là đất nước và mái
nhà.
Sinh
năm 1929 tại Cần Thơ, giáo sư Phạm Hoàng Hộ có bằng Cử nhân khoa học, thủ khoa
Thực Vật học, Paris; bằng Cao học Vạn Vật học, Paris; bằng Thạc sĩ/Agrégé Vạn
vật học; bằng Tiến Sĩ Khoa học/Vạn Vật Học, Paris. Giáo Sư
Hộ từng là giám đốc Hải Học Viện Nha Trang; Khoa Trưởng
Đại Học Sư Phạm Sài Gòn; Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục;
Viện trưởng sáng lập Viện Đại Học Cần Thơ… Ông cũng là Hội viên Hội Thực
vật học Pháp; Hội viện Hội Tảo học Quốc tế; Hội viện Hội Viện trưởng Đại học
Quốc tế; Cố vấn Môi sinh Uỷ ban Quốc Tế Sông Mekong… Giáo sư Hộ chính là người
vận động cho bằng được việc thành lập ngôi trường đại học đầu tiên ở miền Tây
vào giữa thập niên 1960. Đó là Viện Đại học Cần Thơ, nơi canh nông trở thành
môn khoa học chính quy được đào tạo như một chuyên ngành đại học.
Sau 9
năm sống dưới chế độ mới, giáo sư Hộ, từ khát vọng, trở nên thất vọng. Môi
trường giáo dục bị thay đổi hoàn toàn. Nó bị cào xé rách nát để thay bằng chiếc
áo thô đính băng đỏ. Ý nghĩa và triết lý giáo dục khai phóng bị vất xó. Theo lời
kể của bác sĩ Ngô Thế Vinh, năm 1977, giáo sư Hộ phải học lớp chính trị 18
tháng về “ chủ nghĩa xã hội khoa học ”. Không chấp nhận
chương trình giáo dục bị “ đảng hóa ”, giáo sư Hộ phản đối quyết
liệt. Cuối cùng, năm 1984, khi được Chính phủ Pháp mời sang thỉnh giảng, giáo
sư Hộ quyết định ở lại Paris. Tại Pháp, ông vùi mình vào Viện Bảo Tàng Thiên
nhiên Quốc gia Paris ( thuộc hệ thống Đại học Sorbonne ), miệt mài
làm việc suốt sáu năm, bổ túc cho công trình Cây Cỏ Việt Nam của
ông – một công trình đồ sộ có giá trị đến mức giới thực vật học thế giới phải
nghiêng mình ngưỡng mộ.
Nhắc
đến giáo sư Hộ, không thể không nhắc đến giáo sư Nguyễn Duy Xuân. Không như
giáo sư Hộ, giáo sư Xuân có số phận cay nghiệt gấp nhiều lần. Từng được giáo sư
Hộ mời về Viện Đại học Cần Thơ thay mình ở ghế Viện Trưởng, giáo sư
Xuân tốt nghiệp Tiến Sĩ Kinh Tế tại Đại Học
Vanderbilt-Hoa Kỳ. Giáo Sư Xuân cũng là vị Tổng Trưởng Bộ Văn Hóa
Giáo Dục cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa. Một bài báo trên Thanh Niên (28-4-2015)
nhắc lại: “ Theo giáo sư Võ Tòng Xuân, trước ngày 30-4-1975, những
người nào có chức sắc ở Viện Đại học Cần Thơ đều được cấp một tấm giấy coi như
giấy thông hành để ra nước ngoài khi có biến cố. Với chức vụ tương đương bộ
trưởng, giáo sư Nguyễn Duy Xuân có thể ra nước ngoài bất cứ lúc nào nếu muốn
nhưng ông vẫn ở lại Việt Nam ”.
Không
chỉ không được trọng vọng, giáo sư Xuân còn bị tống đi tù, bị giam tại trại
Hà-Nam-Ninh. Cuối cùng, năm 1986, giáo sư Xuân bỏ mạng chốn thâm sơn cùng cốc.
Nhắc lại điều này, bác sĩ Ngô Thế Vinh không giấu được chua xót: “ Tôi
không thể không tự hỏi nếu không có 11 năm giam hãm đầy đọa độc ác và vô ích
của những người cộng sản thắng cuộc, nếu giáo sư Nguyễn Duy Xuân, một tiến sĩ
kinh tế tài ba và giàu lòng yêu nước, vẫn tiếp tục ở lại xây dựng Viện Đại học
Cần Thơ với nhịp độ 1966-1975 thì không biết Viện Đại học Cần Thơ và ĐBSCL sẽ
phát triển và tiến xa tới đâu ”…
Sẽ phát
triển và tiến xa tới đâu, nếu Việt Nam sau 1975 trân trọng trí tuệ và tài năng
của các trí thức như giáo sư Phạm Hoàng Hộ, giáo sư Nguyễn Duy Xuân, giáo sư Lê
Xuân Khoa, cụ Bùi Diễm, bác sĩ Ngô Thế Vinh, giáo sư Nguyễn Tiến Hưng, giáo sư
Nguyễn Mạnh Hùng, ông Đỗ Văn Thảo ( cựu Phó Tổng Thanh Tra Ngân Hàng Quốc
Gia; bị đi “ cải tạo” ), giáo sư Vũ Quốc Thông ( Khoa trưởng Đại
học Luật khoa Sài Gòn, cũng bị đi tù ) ?… Sẽ còn phát triển và tiến
xa tới đâu, nếu chế độ đang cai trị – luôn dễ bị “ kích động ” một
cách thái quá cái gọi là “ tự hào dân tộc ” – biết dùng hiền tài, để
sự tự hào có phần đóng góp của những trí thức đỉnh cao và trí thức đúng nghĩa ?
Trí thức chân chính là những người không chỉ “ thể hiện ” lòng yêu
nước bằng ngôn từ. Họ là những người không bao giờ ngưng bồn chồn lo lắng cho
sự tụt hậu nước nhà cùng sự lấn át ngoại bang.
Trong
bài viết trên tờ Một Thế Giới ngày 2-2-2017, tác giả Lê Học
Lãnh Vân thuật lại tâm sự của giáo sư Phạm Hoàng Hộ trong một lần gặp ông tại
Pháp giữa thập niên 1980: “ Nhiều người Trung Quốc từ đại lục và cả từ
Đài Loan, Singapore đã đến tìm học các bộ sưu tập thực vật Đông Dương của Pháp.
Tôi không biết họ có chủ trương gì đó không. Tài nguyên nước mình, mình phải biết.
Mình không biết mà người ta biết thì người ta xài hết của dân mình. Lãnh vực
nào cũng vậy riết rồi người ta áp chế mình, ăn trên ngồi trước còn mình cắm đầu
dưới đất, tiếng là có độc lập mà còn thua hồi thuộc Pháp ! ”…
Cách
đây hai năm, khi nghe giáo sư Lê Xuân Khoa vừa trải qua ca phẫu thuật ngặt
nghèo, tôi đã vào viện thăm. Ông nằm giữa đống dây nhợ gắn quanh gần như kín
người. Không thể nói vì miệng mũi còn vướng ống, ông ra hiệu cho cô con gái lấy
tấm bảng. Ông viết, chỉ một câu, nhưng nghe nặng trịch, mỗi chữ như một nhát
búa: “ Tôi lo mất nước về tay Tàu rồi ”. Và ông rươm rướm. Nằm trên
giường bệnh, thập tử nhất sinh, ông chẳng nghĩ gì khác ngoài quê hương. Ông
không lo gì khác ngoài cái lo “ mất nước ”, về sự lệ thuộc gần
như toàn diện của Việt Nam với Trung cộng. Bao nhiêu người trong hệ thống
lãnh đạo Việt Nam hiện tại có thể bị đánh thức lòng tự ti dân tộc bởi nhát búa
lương tri của một vị trí thức gần 90 tuổi như giáo sư Lê Xuân Khoa ?
Chưa ai
thống kê cho thấy hiện có bao nhiêu trí thức kiều bào vang danh nước ngoài
nhưng không được mời về hoặc họ không buồn về. Thậm chí có những người bị cấm
về, dù hệ thống tuyên truyền chế độ luôn ra rả về sự “ trân trọng đón chào ”
trí thức hải ngoại. Một số trí thức đã quyết định không về. Họ không tin và họ
có đủ bằng chứng để không tin nhà cầm quyền. Khi những Nguyễn Quang A, Nguyễn
Huệ Chi, Phạm Toàn, Chu Hảo… còn là “ thành phần phản động ” thì
không ai còn ngây thơ để ngộ nhận sự “ thành thật ” của nhà cầm quyền
đối với trí thức. 45 năm sau 1975, chế độ cai trị vẫn tiếp tục chính
sách “ triệt người ”, “ triệt ” cả chính người của
họ. Trí thức muốn đóng góp và xây dựng nhằm thay đổi chính sách đã và sẽ
không có cơ hội.
Một
trong những trí thức mà khi tiếp xúc, tôi luôn nhìn thấy sự nhiệt tình dữ dội
của Ông dành cho nước nhà. Nói chuyện với Ông có cảm giác như đang
ngồi trước một sinh viên tràn đầy nhiệt huyết, dù ông đã gần 80 tuổi. Đó là bác
sĩ Ngô Thế Vinh. Ông là một trong những người Việt Nam luôn nặng tình với miền
Tây, với đồng bằng sông Cửu Long, một cách bền bỉ, dù quê quán Ông ở Hà
Nội. Ông là tác giả quyển khảo cứu Cửu Long cạn dòng, Biển Đông dậy
sóng. Ông cũng là tác giả quyển Mekong, dòng sông nghẽn mạch…
Việt Nam không chỉ có dòng Mekong nghẽn mạch. Việt Nam đang bị nghẽn cả dòng
trí tuệ của các bậc trí thức minh tuệ-hùng tâm.
Mạnh Kim
No comments:
Post a Comment