Học
Thuyết Chính Trị và Nhiệm Kỳ của Một Tổng Thống
Trần
Trung Đạo
Hơn
ba chục năm trước, khi phỏng vấn vào quốc tịch Mỹ,
tôi trả lời sai câu hỏi “hiểm” sau đây nên nhớ
hoài: “Lý do nào TT Franklin Roosevelt được bầu làm tổng
thống tới bốn nhiệm kỳ chứ không phải là hai như các
tổng thống khác trước và sau ông ta?”
Thật
tình đó không phải là câu hỏi để thi vào quốc tịch.
Nếu có chắc là rớt hết. Chẳng qua do các câu hỏi khác
dẫn tới bất ngờ. Tôi tự tin về kiến thức chính trị
của mình nên thay vì trả lời “không biết” đã đoán
“trong thời điểm Thế Chiến thứ Hai, có thể quốc hội
đã cho phép TT Franklin D. Roosevelt tiếp tục làm tổng
thống để duy trì chính sách Mỹ trong thời chiến.”
Nhân
viên sở nhập tịch mỉm cười “Câu trả lời có lý
nhưng sai. Trước TT Franklin Roosevelt không có tổng thống
nào lãnh đạo quá hai nhiệm kỳ và sau thời kỳ
Franklin Roosevelt Tu Chính Án Thứ 22 cho phép một tổng
thống giữ quyền lãnh đạo hành pháp tối đa là hai
nhiệm kỳ.”
Dù
sao nhân viên sở nhập tịch cũng cho tôi đậu quốc tịch
nhờ trả lời đúng các câu trước.
Khi
mở trang Chính Luận, thỉnh thoảng tôi nhận được những
câu hỏi cầu tiến nên dù bận rộn tôi cố tìm cách trả
lời.
Một
câu hỏi tôi muốn dùng cho bài viết này: Một tổng thống
chỉ có thể lãnh đạo quốc gia dài nhất là tám năm thì
làm thế nào để có thể thực hiện hay hoàn thành một
chính sách đối ngoại cần nhiều năm của một cường
quốc như Mỹ?
Câu
trả lời vắn tắt là khác với nhiệm kỳ của một tổng
thống, học thuyết chính trị của Mỹ không giới hạn
bởi thời gian. Không ít học thuyết kéo dài hơn tám năm
và có khi kéo dài cả thế kỷ dù người phác họa ra học
thuyết chỉ chính thức làm tổng thống mỗi một nhiệm
kỳ.
Trong
chính trị học, có ba khái niệm căn bản mà các bạn trẻ
nên lưu ý: (1) Tư Tưởng Chính Trị (Political Ideology) định
hướng cho sự hướng phát triển của xã hội và các
phương pháp để đạt tới mục đích, ví dụ như tư
tưởng tự do, xã hội, Cộng Sản. (2) Học Thuyết
Chính Trị (Political Doctrine) đề ra các nguyên tắc lãnh
đạo hay vị trí của quốc gia đặt nặng trong đối
ngoại được biện hộ là đúng và đưa vào hoạt động,
và (3) Chính Sách (Political Policy) nhằm kế hoạch hóa các
tiến trình hoạt động của chính phủ trong một lãnh vực
nào đó.
Nhiều
tác giả dùng khá dễ dãi giữa Tư Tưởng Chính Trị và
Học Thuyết Chính Trị mặc dù hai khái niệm khác nhau.
Và
ngay trong cùng một Tư Tưởng Chính Trị cũng có nhiều tư
tưởng chính trị. Ví dụ, tư tưởng chủ nghĩa xã hội
(socialism) mà TT Trump thường nhắc là nhắm vào quan điểm
Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa (Democratic Socialism) của Thượng
Nghị Sĩ Bernie Sanders. Dân Chủ Xã Hội Chủ Nghĩa không
có liên quan gì đến “chủ nghĩa xã hội” của Tập
Cận Bình hay Nguyễn Phú Trọng. TNS Bernie Sanders rút lui
rồi nên có lẽ không bàn thêm nữa.
Trong
phạm vi bài này, chúng ta chỉ bàn đến Học Thuyết Chính
Trị (Political Doctrine).
Phần
đông các tổng thống đều có một học thuyết chính trị
gắn liền với tên tuổi nhưng chỉ có một số học
thuyết có tầm ảnh hướng lâu dài. Nổi tiếng và có
ảnh hưởng lâu dài nhất gồm James Monroe Doctrine “tách
biệt giữa Châu Âu và Châu Mỹ“, Harry Truman Doctrine
nhằm “bao vây và ngăn chận sự bành trướng của
chủ nghĩa CS”.
Học
Thuyết Monroe chủ trương chống lại sự can thiệp của
châu Âu đối với Mỹ và các nước Mỹ Châu bắt đầu
từ thời TT James Monroe vào năm 1823. Đây là một trong
những học thuyết chính trị có ảnh hưởng lâu dài nhất
trong lịch sử bang giao quốc tế của Hiệp Chủng Quốc
Hoa Kỳ.
Cho
tới cuối thế kỷ 20, học thuyết này vẫn còn được
giải thích một cách rộng rãi bởi nhiều tổng thống Mỹ
như TT John F. Kennedy trong biến cố Vịnh Con Heo, Cuba và TT
Ronald Reagan trong chiến tranh chống chế độ CS Sandinistas
tại Nicaragua.
Trong
giải thích đó, những thay đổi chính trị của các nước
Mỹ Châu có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi và
nền an ninh của Mỹ.
Thế
giới thay đổi nhiều sau thập niên 1990. Các chính sách
quân sự, đảo chánh hay lật đổ chính phủ thời Chiến
Tranh Lạnh không còn được áp dụng như đã dùng đối
với Chile 1973. Tuy nhiên, mục đích “lục địa Mỹ châu
của người châu Mỹ” xác định trong thuyết Monroe vẫn
còn được bảo vệ bằng nhiều cách.
Do
đó, không ngạc nhiên khi TT Donald Trump là lãnh đạo quốc
gia đầu tiên thừa nhận Juan Guaido, Chủ tịch Quốc Hội
Venezuela, như là lãnh đạo lâm thời của Cộng hòa
Venezuela. Sự ủng hộ nhanh chóng của Mỹ còn cho thấy
chính phủ Mỹ luôn đề cao giá trị dân chủ và một khi
các lực lượng dân chủ đủ mạnh để đứng lên lật
đổ chế độ độc tài và không làm phương hại đến
quyền lợi của Mỹ, chính phủ Mỹ luôn chọn đứng về
phía lực lượng dân chủ.
Một
chính sách đối ngoại thịnh hành của Mỹ sau thế chiến
thứ hai là “ngăn chặn”(containment). Một phần câu trả
lời dưới đây đã viết một cách chi tiết trong bài “Từ
Lý Thuyết ‘Ngăn Chặn Cũ’ (Old Containment) Chống Liên
Sô Sang ‘Ngăn Chặn Mới’ (New Containment) Chống Trung
Cộng” trong trang Chính Luận.
Tháng
2 năm 1946, George F. Kennan, nhân viên ngoại giao làm việc
cho tòa đại sứ Mỹ tại Liên Sô, gởi Bộ Ngoại giao Mỹ
một bản phân tích qua hình thức một điện tín dài
5.500 chữ, trong đó ông trình bày một cách chi tiết quan
điểm của Stalin về tương lai nhân loại, mục tiêu và
chiến lược của Liên Sô sẽ được áp dụng trên phạm
vi toàn thế giới, điểm mạnh và điểm yếu của chế
độ Cộng sản, đồng thời đề nghị một số biện
pháp cần thiết phải được áp dụng để ngăn chặn làn
sóng Cộng sản.
Bài
phân tích của George Kennan không có tựa đề nên chỉ
được biết ngày nay như là Bức Điện Tín Dài. Nếu bản
phân tích được gởi đến Bộ Ngoại giao Mỹ một năm
trước đó, có lẽ nó đã vào sọt rác hay đi thẳng vào
phòng lưu trữ vì Mỹ và Liên Sô còn đang liên minh nhau
tấn công Đức từ hai hướng Đông, Tây. Nhưng vào tháng
2 năm 1946, văn kiện đã làm Bộ Ngoại giao chú ý.
Chính
tổng thống Harry S. Truman chỉ thị thành lập một nhóm
nghiên cứu để phân tích bản tường trình của George
Kennan. Bức điện tín của George Kennan được xem như một
trong những văn kiện lịch sử bởi vì nó ảnh hưởng
đến toàn bộ chính sách đối ngoại của Mỹ trong gần
nửa thế kỷ, từ sau Thế chiến thứ Hai cho đến khi hệ
thống Liên Sô sụp đổ năm 1991.
Tổng
thống Harry Truman dựa vào các phân tích của George Kennan
và các diễn biến tại Châu Âu, đặc biệt tình hình của
Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ để xây dựng nên Truman Doctrine.
Chủ thuyết ngày nay mang tên ông được công cố chính
thức trong diễn văn đọc trước lưỡng viện Quốc Hội
Mỹ ngày 12 tháng Ba, 1947. Trong diễn văn đó, TT
Truman nhấn mạnh “Tôi tin rằng, chính sách của Hoa Kỳ
phải nhắm vào việc ủng hộ các dân tộc tự do đang
chiến đấu chống lại thiểu số võ trang đang âm mưu
chống lại họ, hay các áp lực bên ngoài.”
Suốt
chín đời tổng thống từ Harry Truman đến George Herbert
Walker Bush, tùy thuộc vào điều kiện chính trị quốc tế
trong mỗi giai đoạn, các chiến lược chiến thuật cũng
được thay đổi thích nghi nhưng đều không đi xa mục
tiêu chính là ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa
Cộng sản. Cuối cùng hệ thống Liên Sô kiệt quệ và
tan rã.
Cường
quốc đối đầu trong thế kỷ 21 của Mỹ không phải Nga
mà là Trung Cộng và Mỹ đang cần một học thuyết “ngăn
chặn mới” thích hợp với thời đại đa phương toàn
cầu hóa hiện nay. Học thuyết mới sẽ phải bao gồm cả
khu vực Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, và không chỉ
giới hạn đến mậu dịch, kinh tế mà quan trọng nhất
là an ninh. Học thuyết đó trước đây còn trong vòng thảo
luận của các chính trị gia, của các nhà phân tích đang
được đưa vào hoạt động. Hoa Kỳ đang tiến hành các
cải tổ hay thiết lập các cơ cấu thích nghi để thực
hiện học thuyết quy mô rộng lớn chưa bao giờ có đó.
Bằng
chứng, bộ chỉ huy hải quân Mỹ trách nhiệm khu vực Nam
Thái Bình Dương trước đây gọi là Bộ Chỉ Huy Thái
Bình Dương (Pacific Command) với 200 chiến hạm và 375 ngàn
quân và nhân viên phục vụ, ngày 30 tháng 5, 2018 đã được
đổi tên thành Bộ Chỉ Huy Ấn Độ -Thái Bình Dương
(Indo-Pacific
Command).
Dù
đứng ở góc một nước lớn như Mỹ, Trung Cộng,
Nhật Bản hay Ấn Độ hay nước nhỏ như Việt Nam đều
có thể thấy một trật tự mới đang hình thành tại Á
Châu. Trật tự mới trong ngắn hạn có thể tạo ra ít
nhiều xáo trộn nhưng về lâu dài là cơ hội cho những
nước nhỏ vượt qua các bế tắc, các khó khăn đang phải
đương đầu để vươn lên như một cường quốc trong
khu vực như trường hợp Nam Hàn, Singapore trong Chiến
Tranh Lạnh cũ hay Baltics, Đông Âu sau khi phong trào CS Châu
Âu tan rã.
Danh
tướng George Patton của Mỹ từng phát biểu “một đạo
quân chiến thắng không phải nhờ trang bị mà nhờ sự
chuẩn bị”. Khó có thể biết chính xác thời điểm và
hình thức bùng vỡ các xung đột Á Châu, nhưng chắc chắn
sẽ xảy ra. Các quốc gia vượt qua được và thành
công là những quốc gia có lãnh đạo khôn ngoan và biết
chuẩn bị kỹ lưỡng cho mọi tình huống kể cả những
tình huống xấu nhất có thể xảy ra cho đất nước
mình.
Trần
Trung Đạo
No comments:
Post a Comment