Càng Học Càng Ngu / Dủ học dủ ngu
Nguyễn Đức Lập
(Nguyễn Đức Lập, con trai của Bà
Tùng Long.. thân phụ NĐL là Cụ Nguyễn Đức Nhuận, cũng là bào huynh thi sĩ Trạch
Gầm, NĐTrạch ở Nam Cali)
Nghe cái câu “Dủ học dủ ngu”, càng
học càng ngu, dễ mấy ai tin được. Càng học thì phải càng khôn ra, cũng như
gừng, quế, “dũ lão dũ tân”, càng già càng cay, mới phải cho chớ.
Hồi nhỏ, tôi học chữ Nho với thân
phụ. Cha thì dạy nghiêm túc, nhưng thằng con thì học lơ là, lại thêm cái tánh
rắn mắt, cắc cớ đã quen. Nên nhiều khi nó cố tình cắt nghĩa những câu chữ Nho
học được theo ý của nó để cười chơị.
Học tới câu “Dủ học dủ ngu”,
tôi đã dám ngồi xếp bằng chễm chệ, đã nói là cái tánh rắn mắc cắc cớ đã quen
mà, cắt nghĩa cho thằng em tôi như vầy:
–“Dủ học dủ ngu”, là “càng
học càng ngu”, thành ra, trò học ít thì trò ngu ít, trò học nhiều thì trò
ngu nhiều, mà trò không học thì trò không ngu.
Thằng em gật đầu khoái trá, ai dè
được mà cha tôi đứng ở sau lưng. Tôi bị 5 roi quắn đít và học 1 bài học nhớ đời
: “chữ nghĩa thánh hiền không thể đem ra mà đùa giỡn được”.
Không biết ông Mai Thảo có học 1
bài học để đời như tôi vậy chăng, nhưng ông cũng nói y như vậy, chỉ có điều ông
không dùng “chữ nghĩa thánh hiền”, mà ông dùng 2 chữ “văn chương”.
Ông nói : “Đối với văn chương phải
nghiêm túc, không đùa giỡn được”. Ông có thể lơ ngơ thất thiểu ngoài đường
phố, đi bộ mà cũng bị cảnh sát công lộ phạt về tội vi phạm luật lưu thông. Ông
có thể lè nhè nơi tiệc rượu khiến cho con nít giỡn mặt. Nhưng, khi viết, ông
viết rất nghiêm túc, không bao giờ đùa giỡn với văn chương.
Bị đòn, bị học 1 bài học để đời,
nhưng với tuổi trẻ háo thắng, tôi không bao giờ tin rằng “càng học càng ngu”.
Tin làm sao được khi con đường học vấn cứ thẳng tắp, lấy hết văn bằng này tới
văn bằng kia và ra trường với 1 nghề vững chắc, trong khi mặt còn non choẹt,
còn búng ra sữa, phải xin phép cha để râu mép, cho được gìa dặn thêm 1 chút
(phải xin phép để râu vì cha tôi quan niệm rằng : “Cha chưa chết, con không
được để râu”).
Cho đến khi lăn lộn ngoài đời, tôi
mới biết rằng có rất nhiều điều mà sách vở và học đường không hề dạỵ Học đường
học chợ, học trên báo chí, nghe lóm những bậc trưởng thượng, thấy rằng kiến
thức của mình “thiên bất đáo, địa bất chí”, càng học càng thấy ngụ.
Chưa cần nói tới những chuyện trời
cao, đất rộng, biển thẳm, núi cao, sông dài chi cho xa, chỉ những câu ca dao,
những câu hát ru em huê tình, tai vẫn nghe hoài, miệng cũng có khi hát, tưởng
rằng đã hiểu cháo chan, ai dè biết ra, không hiểu 1 cái gì hết.
Hồi nhỏ, chị tôi ru em, vẫn thường
hát câu :
Chim quyên ăn
trái ổi tàu
Xứng đôi mẹ gả,
ham giàu mà chi
Tôi nghe câu này tới thuộc lòng mà
không hề thắc mắc. Dễ quá mà, “ổi tàu” là giống ổi ở bên Tàu chứ còn cái gì
nữạ.
Giống ổi ở bên Tầu, dĩ nhiên, phải
lớn hơn, phải ngon hơn ổi bên mình, cũng như con ngựa to lớn thì gọi là ngựa
Bắc Thảo, con gà, con vịt to con, được gọi là gà Tàu, vịt Tàu …
Không hề thắc mắc như vậy, cho mãi
tới hơn nửa đời người, đọc 1 bài của ông Võ Phiến, mới biết rằng “ổi tàu” ở
trong câu hát không phải là giống ổi bên Tàu, mà là 1 loại cây hoang, mọc thành
từng lùm từng bụi ở mấy vùng đất gò miền Trung, cây này ở miền Bắc gọi là hoa
cứt lợn, còn ở cái xứ “chó ăn đá, gà ăn muối” của tôi thì gọi là bông ngũ sắc.
Tôi đã từng hái trái của nó, lớn chỉ bằng hột tiêu để ăn, đã từng hái những cái
bông của nó để hút chất mật ngọt ở cuống bông, mà đâu biết tên của nó là
ổi Tàụ.
Mẹ tôi vẫn thường hái bông ổi tàu
này, chưng với đường phèn cho anh em tôi uống mỗi khi bị họ
Có 1 câu hát ru em nữa, mà tôi cũng
nghe đi nghe lại hoài:
Trách ai ăn giấy
bỏ bìa
Khi thương,
thương vội, khi lìa, lìa xa
Câu này thì tôi có thắc mắc, giấy
thì làm sao mà ăn ? “Ăn giấy bỏ bìa” là làm sao ? Tại sao hạng người “ăn giấy
bỏ bìa” khi thương lại thương vội, khi lìa lại 1 mạch lìa luôn theo kiểu “hạ
thủ bất lưu tình” ?
Tôi đem những thắc mắc này hỏi
nhiều người, kể cả những ông thầy dậy Việt Văn, nhưng không có ai trả lời nghe
xuôi tai được.
Cho mãi tới sau khi đổi đời, “giả
dại qua ải” (mà chút xíu nữa thành dại thiệt), về ở rẫy, tôi mới được nghe giải
thích thỏa đáng câu hát nàỵ.
Người dạy tôi là bà Ba Thờị Bà này,
cạo đầu, ăn chay trường, tu tại gia, không ăn trầu, nhưng hút thuốc phun khói
còn hơn là đầu máy xe lửạ
Bà có biệt tài chữa bệnh bằng
phương pháp cắt lể rất mát taỵ
Nhiều người, trong đó có tôi, nhờ
bà chữa trị mà lành bịnh được.
Đặc biệt bà có 3 con dao để lể, 1
cái bằng vàng, 1 cái bằng bạc, 1 cái bằng đồng, cái nào cũng chỉ lớn bằng cây
móc taị Tùy theo con bịnh nặng nhẹ mà bà dùng con dao nào để lể. Bà, người nẩm
thấp, hơi nới về chiều ngang, mấy ngón tay mũm mĩm no tròn như nải chuối cau,
nhưng cắt lể cho bịnh nhơn, bà làm coi bộ gọn gàng nhặm lẹ khéo léo lắm. Tôi
khoái nhất là cái màn được bà se se mấy sợi tóc, rồi giựt nghe cóc cóc.
Đọc tới đây xin độc giả đừng vội
lên án tôi là tuyên truyền đề cao cho những phương pháp chữa bệnh thiếu khoa
học. Chuyện thiếu khoa học hay đúng theo khoa học, biết làm sao mà nói cho
cùng. Tôi viết ra đây là theo những điều chính tôi đã từng trải qua, theo kiểu
“thấy mà tin”, chớ không hề thuyết phục ai phải tin theo mình cả.
Hồi 77, 78 trong nước bị khủng
hoảng kinh tế nặng, một trăm thứ bệnh đều chữa bằng xuyên tâm liên, sống ở rẫy,
nếu không có những người như bà Ba Thời, bà Tám Thông, có lẽ tôi đã ấm mồ xanh
cỏ từ lâụ.
Bà Tám Thông cũng chuyên về giác lể
như bà Ba Thời, nhưng hành nghề chính thức. Mỗi ngày, bà quẩy gánh, đem đồ nghề
ra chợ Phú Mỹ (nằm trên quốc lộ 15, đường SG-Vũng Tàu), giác lể, ăn tiền.
Bà Ba Thời chỉ cắt có 1 vết nhỏ,
rồi nặn ra 1 chút máụ. Bà còn dùng bông gòn sạch, tẩm dầu tràm, chặm lên vết
thương đàng hoàng.
Còn bà Tám Thông sau khi cắt, dùng
bầu thủy tinh giác hơi để hút máụ. Bà nào làm ăn cũng rất bầy hầỵ. Bà dùng 1
nùi giẻ rách bươm, lau máu lau vết thương cho bịnh nhơn. Không biết 1 năm bà
giặt được mấy lần, nùi giẻ dơ hầy, hôi rình.
Bởi lối chữa bịnh của bà Tám Thông
làm mất máu nhiều quá, trong thời buổi ăn khoai mì cầm hơi, 1 gịot
máu còn quí hơn vàng và bởi cái lối làm ăn của bà thiếu vệ sinh quá, nên tôi
chỉ nhờ bà ra tay có 1 lần.
Độ ấy, cứ chiều chiều là tôi cảm
thấy ớn lạnh, tay chân bải hoảị. Bịnh kéo dài cả tháng không hết. Một người
hàng xóm, là thím Sáu Liệt, nói tôi bị trúng nước, nếu không chữa trị cho sớm,
để lậm vô phổi, thì chỉ có “bà cứu nị”. Và thím giới thiệu tôi tới bà Tám
Thông.
Vừa nằm dài, đưa lưng trần cho bà
cắt, giác, mà tôi nhờm gớm cái gì đâụ. Tôi nhủ thầm là tự hậu, không bao
giờ tới bà lần thứ 2. Quả thiệt như vậy, tôi không tới gặp bà lần nào nữa, vì
chỉ 1 lần chữa trị đó, bịnh hết hẳn.
Mấy chuyện như vậy , biết sao mà
nói cho cùng.
Cái chuyện cắt lễ khiến cho tôi nói
sang đàng, xin trở về đề tài “ăn giấy bỏ bìa”.
Bữa ấy, tôi ráng lội qua nhà bà Ba
Thời để nhờ bà trị cho cho cái chứng Thiên Đầu Thống, đau đầu có 1 bên.
Bà lấy cây kim vàng ra lể.
Nói không phải để quảng cáo cho bà, bà chữa bịnh đâu có nhận tiền thù lao, chỉ
cứu nhân độ thế mà thôi, vả chăng, bà mất đã 10 năm có lẻ, cát bụi trở về với
cát bụi lâu rồi, đâu cần tôi phải quảng cáo, bà cắt lể, giựt tóc nghe cóc cóc
cho tôi 1 hồi, bịnh 10 phần nhẹ hết 8, 9.
Bà chỉ vô cái võng treo tòng
teng ở góc nhà, biểu tôi: “Thằng Tám mày nằm đó, đánh 1 giấc đi, ngủ 1 giấc,
mày sẽ hết nhức đầu luôn.”
Nằm trên võng, chưa ngủ được, tình
cờ mà tôi học được thế nào là “ăn giấy bỏ bìa”.
Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời
trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi
chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữạ. Bà dùng dao rọc
theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn
giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói :
– Rọc giấy như vậy kêu
bằng ăn giấỵ. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều
người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc
ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu
nào đáng điếu nấy, hút mới đã.
Không chờ không đợi mà tôi còn mừng
hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga :
Trách ai ăn giấy
bỏ bìa
Khi thương,
thương vội, khi lìa, lìa xa.
Bà cắt nghĩa liền
– Thằng Tám mày thấy không? giấy
quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn
giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữụ. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này
chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí
phạm bạc hẳn không ai bằng.
Bà ngậm ngùi ngang :
– Tao khổ gần 1 đời cũng vì ba cái
quân “ăn giấy bỏ bìa” này đây… bị, hồi đó, tao nghèo quá …
Té ra, giấy ở đây là giấy
quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô
miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được
tại sao cái kẻ “ăn giấy bỏ bìa” lại “khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”.
Khi tôi cảm ơn vì đã học được, đã
được giải thích tường tận những điều thắc mắc ôm ấp từ lâu, thì bà Ba Thời
cười, khoe hàm răng ám khói vàng khè.
– Tao mà dạy cái gì? Chữ nghĩa của
tao vừa đủ để ký tên. Đây là tay tao làm, miệng tao nói, cho vui vậy thôi …
Có người sẽ trách rằng tại làm sao
mà tôi lại chấp nhận lời giải thích của 1 người phụ nữ quê mùa ít học 1 cách dễ
dàng như vậỵ. Trách tôi thì tôi chịụ. Thú thật, tôi vẫn còn đem
thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ bìa” ra hỏi nhiều người lắm, có người là nhà
ngữ học lừng danh nữa, nhưng không có ai giải nghĩa được hết.
Có 1 lần, đọc trên 1 tờ báo, nơi
mục giải đáp thắc mắc, tôi thấy có người cũng thắc mắc về cái câu “ăn giấy bỏ
bìa”.
Hỏi rằng giấy làm sao mà ăn
được? Người giữ mục giải đáp đã trả lời rằng câu đó sai rồi, phải sửa lại
là “trách ai đượcgiấy bỏ bìa” mới đúng.
Đọc tới đó tôi bỗng ngậm ngùi, vì
phải ai cũng có cơ duyên gặp được bà Ba Thời như tôi vậy đâụ. Bà bây giờ, đã ra
người thiên cổ, 1 chữ cũng là thầy, huống hồ bà còn dậy cho tôi nhiều điều khác
nữạ
Có lần, bà mời tôi hút thuốc, bà
nói thuốc ngon lắm.
Thuở đó, chuyện hút thuốc, tôi còn
là trong mơ, cứ tưởng thuốc ngon là thuốc nhẹ lâng lâng, như kiểu thuốc vàng
sợi ở Lạng Sơn.
Nào dè, thuốc của bà, mới rít vô 1
hơi, tôi đã muốn bể phổi, ho sặc sụạ. Té ra, thuốc ngon là thuốc nặng, có biết
như vậy rồi, mới hiểu được tường tận ý nghĩa câu “thuốc ngon nửa điếu”. Trời
ơi, thuốc ngon cỡ như thuốc của bà Ba Thời, mà chỉ còn có phân nửa, quến nhựa
của nửa điếu thuốc trước thì… ngon kể gì.
Tôi có cơ duyên may mắn được gặp bà
Ba Thời và có gặp được bà rồi mới biết mình còn ngu nhiều lắm.
Có nhiều câu thành ngữ, nghe người
ta nói, hay đọc trong báo chí, sách vở, riết rồi quen, tôi cũng nói y theo như
vậy, không cần biết trúng trật, không cần nghiệm coi nó có hợp lý hay
không.
Thí dụ như câu “Một kiểng hai
quê”.
Câu này, người ta vẫn thường nói và
tôi vẫn nói theo, để chỉ người đàn ông có 2 vợ..
Một dịp tình cờ, tôi nghe chị Mũ Đỏ
Vũ Thị Vui nói khác, chị Vui là 1 phụ nữ, có 1 thời ngang dọc, là 1 sĩ quan nổi
tiếng trong binh chủng Nhảy Dù. Chính chị làm quan, chứ không phải
làm quan tắt. Chị bày tỏ ý kiến 1 cách nhẹ nhàng, không cần thuyết phục người
nghe:
– Phải nói là “Một kiểng hai
huê” mới đúng.
“Huê” là “hoa”, vì kiêng tên bà
Hồ Thị Hoa là vợ vua Minh Mạng, nên chữ “hoa” phải đọc là “huê”, ở miền Trung,
có nơi còn đọc là “ba”, miền Nam thì nói là “bông”.
Bữa chị Vui nói đó, có mặt cả nhà
thơ Lê Giang Trần.
Nhà thơ này có nghĩ gì không,
tôi không biết, riêng tôi, nghe xong, tôi giật mình. Té ra, bấy lâu nay mình
quen miệng nói theo người ta, trật lất mà mình không biết. 1 chậu kiểng mà
trồng 2 loại hoa khác nhau, để chỉ người đàn ông 2 vợ là phải quá rồi.
Từ cái câu “Một kiểng hai huê”, mới
hợp với câu ca dao :
“Một bồn một
kiểng tuổi xanh
Một chàng, hai
thiếp khổ anh nhiều bề”.
Tại sao mà khổ dữ vậy?
Tại vì :
“Một chàng, hai
thiếp, anh xử hiếp tôi rồi,
Tối, buồng ai nấy
ngủ; gạo, hai nồi nấu riêng.”
Đó, như đã nói, có nhiều câu nhiều
chữ, nói riết thành quen, rồi hiểu cũng theo 1 thói quen, không cần tìm tới tận
gốc cái nghĩa đích thực của nó.
Hồi nãy, tôi nói tới chữ “ổi tàu”,
bây giờ, xin nói tới “thịt kho tàu”.
Hồi trước, chỉ có người miền Nam
mới biết món thịt kho tàụ. Ăn với dưa giá trong mấy ngày tết. Bây giờ, bất
kỳ là Bắc, Trung, Nam, không mấy người là không biết món thịt kho tàụ. Kho làm
sao, không ướp hành ướp tiều gì hết, mà vẫn thơm tho? Kho làm sao mà miếng thịt
mềm rục nhưng không nát, Kho làm sao mà không bỏ nước màu, nước thịt vẫn tươi
màu nâu đỏ, trong khe? Mấy điều này, xin hỏi mấy bà nội trợ lành nghề.
Tôi chỉ biết về điều tôi học được
về “thịt kho tàu”.
Ăn món thịt kho này từ hồi mới mọc
3 cái răng cửa, tới hơn nửa đời người, tôi vẫn cứ đinh ninh món này là món của
người Tàu.
Thịt kho tàu là món thịt kho của
người Tàu, chắc nhiều người cũng nghĩ như tôi vậỵ.
Nghĩ riết như vậy rồi quen, không
hề thắc mắc rằng trong các tiệm ăn do chính người Tàu làm chủ và làm đầu bếp
chính, kể cả các tiệm ăn bình dân, không hề có món thịt kho tàu, ghi trong thực
đơn. Mà thiệt, gẫm cho cùng, bên Tàu, xứ lạnh, làm gì có cây dừa, để có nước
dừa tươi đổ vô nồi thịt kho.
Mãi cho đến khi đọc 1 bài
của ông Bình Nguyên Lộc, viết cho các em thiếu nhi, mới hiểu rằng chữ
“tàu”, ở đây, theo nghĩa của người “miền dưới” là “lạt”, như sông Cái Tàu
Thượng, sông Cái Tàu Hạ là 2 con sông nước lợ.
Té ra, kho tàu là kho lạt lạt chứ
không phải là kho theo kiểu người Tàụ
Cũng nói quen miệng mà không cần
tìm hiểu là “cây lẻ bạn”.
Lẻ bạn là loại cây giống như cây
thơm, cây dứa, nhưng thấp hơn, nhỏ hơn, cao độ hai tấc, hai tấc rưỡi là cùng.
Tàu lá lẻ bạn màu tím than, bông mục ra ở dưới gốc, giống như 2 cái vỏ sò khép
lạị Khi bông nở, hai mảnh hé ra, nhụy là những hột trắng tươi.
Ở miền Nam, người ta thường trồng
cây lẻ bạn ở những gò mả, ngụ ý sự thương tiếc ngậm ngùi, người sống cũng lẻ
bạn, người chết cũng lẻ bạn.
Đó là tất cả những gì mà tôi biết,
tôi hiểu về cây lẻ bạn. Tôi chưa 1 lần trồng cây lẻ bạn bên mộ của ai, nhưng
tôi thích cái ý nghĩa nàỵ.
Nào dè tôi biết, tôi hiểu trật lất.
Đọc sách cụ Vương Hồng Sển mới biết
cây này tên của nó không phải là cây “lẻ bạn”, mà là “lão Bạng”, lấy từ
câu “lão Bạng sanh châu” (con trai, con sò già, sanh ra ngọc). Sở dĩ cây gọi
làm vậy là vì bông của nó giống như 2 vỏ sò úp lại và khi nở bày nhụy trắng
tinh bên trong như những hạt minh châụ
Cụ Vương còn cho biết ở vùng núi
Ngũ Hành Sơn ở Quảng Nam, cây Lão Bạng mọc làng khang.
Biết thêm 1 điều gì, đỡ ngu thêm 1
chút, nhưng trường hợp của cây Lão Bạng này, tôi nghĩ thà là không biết còn
hơn. Bấy lâu, tôi vẫn thấy bụi cây màu tím đó, mọc bên cạnh 1 ngôi mộ, là 1
hình ảnh nên thơ, nói lên 1 ý nghĩa thương tiếc ngậm ngùị “Lẻ bạn” bỗng trở
thành “Lão Bạng”, hình ảnh nên thơ, chan chứa tình cảm đó, bỗng nhiên biến mất
…
Tôi, bây giờ, ai “đem tiêu
muối rải lên đầu” rồi, mà muối đã nhiều hơn tiêu, ngồi mà tiếc lại thời
gian đã qua, bỏ lỡ nhiều dịp may để mà học. Nhưng, tiếc là tiếc vậy thôi chứ
làm sao níu kéo lại được thời gian.
Thế giới càng ngày càng văn minh
tấn tớị Khoa học kỹ thuật tiến triển mau lẹ tới mức theo không kịp, tôi vẫn
nuôi tham vọng muốn học nhiều, nhưng ngày giờ có chừng, sức người có hạn, học
làm sao cho hết. Bà Ba Thời đã về với cát bụi, các ông BNL, VHS cũng không còn,
nhưng các bạn trẻ tấn lên, cái kiến thức về KHKT của họ, học biết bao giờ rồi?
Đức Khổng Tử dạy rằng: “Vi
nhơn nan” (làm người thì khó). Nội cái chuyện học làm sao để sống cho
ra con người, xứng đáng là 1 con người, cũng đã hụt hơi.
Tôi lớn lên trong phong trào Hướng
Đạo, Luật phong trào dạy: “trong sạch từ tư tưởng, lời nói tới việc làm”. Cho
tới ngày giờ này, điều luật vẫn làm tôi lao đao, chỉ biết cố giữ câu châm ngôn
“gắng sức” của sói con, để cho ngựa đừng trở chứng đạp rào.
Đức Phật là người đi mà không đến. Cái
học của tôi cũng vậy, học thầy, học bạn, học sách, học báo, học đường, học chợ,
học chỉ để mà học. “Dủ học dủ ngu”.
Ngày xưa, thầy Tử Lộ hỏi Đức Khổng
Tử khi nào thì chấm dứt sự học. Vị Vạn thế Sư Biểu đã trả lời rằng :
– Khi huyệt đã đào nhẵn nhụi rồi,
đất đã đắp chắc chắn rồi, người đi đưa đã quay chưn lui gót rồi, lúc đó mới hết
học.
Và, cái học khó nhứt vẫn là học làm
sao để sống cho ra con người
Tự Truyện Nguyễn Đức Lập
No comments:
Post a Comment