Giáo
Sư Nguyễn Văn Lục
Vài nét tiểu sử:
- Giáo sư, nhà biên khảo
- Sinh năm 1938 tại Hà Nam, Bắc Việt
Vài nét tiểu sử:
- Giáo sư, nhà biên khảo
- Sinh năm 1938 tại Hà Nam, Bắc Việt
- Học ở Hà Nội cho đến ngày di cư vào Nam năm 1954.
- Cựu học sinh Chu Văn An, Sài Gòn
- Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, khoa Triết
- Dạy Triết ở các trường Võ Tánh (Nha Trang), Ngô Quyền (Biên Hòa), Văn Học (Sài Gòn) từ 1969.
- Định cư tại Montreal, Canada từ năm 1979 đến nay.
- Cộng tác các tạp chí Văn, Hợp Lưu, Tân Văn, Sài Gòn Nhỏ, Đàn Chim Việt, Một Góc Trời, Talawas, Art2all...
- Cựu học sinh Chu Văn An, Sài Gòn
- Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm Đà Lạt, khoa Triết
- Dạy Triết ở các trường Võ Tánh (Nha Trang), Ngô Quyền (Biên Hòa), Văn Học (Sài Gòn) từ 1969.
- Định cư tại Montreal, Canada từ năm 1979 đến nay.
- Cộng tác các tạp chí Văn, Hợp Lưu, Tân Văn, Sài Gòn Nhỏ, Đàn Chim Việt, Một Góc Trời, Talawas, Art2all...
Trường Hợp Lý Chánh
Trung
Giáo sư Nguyễn Văn Lục
Trong một bài biên khảo nhan đề: 20
năm giới trí thức miền Nam, tôi đã có dịp đề cập đến trường hợp Lý Chánh
Trung.. như một biểu tượng của trí thức thiên tả miền Nam trước 1975. Nhưng nay
ông vào tuổi xế chiều mà thời gian còn lại cho ông không còn bao nhiêu nữa.
Vinh danh và quyền lực của đảng cộng sản dành cho ông như chức tước cũng đã đến
lúc trắng tay.
Cuộc sống của ông hiện nay lúc cuối đời xem ra
thanh bạch, đạm bạc mà nhiều phần là túng thiếu.
Còn nhớ vào những năm tháng ấy, sau 1975-
quyền lực trong tay cũng có- vậy mà Lý Chánh Trung cảm động và khoe một cách
hãnh diện là vừa có học trò cho một bao gạo.
Bao gạo ấy đượm tình nghĩa thầy trò của người
miền Nam, nhưng nó tố cáo một cách gián tiếp chế độ bất nhân ấy.
Cái còn lại như chứng tích duy nhất của nền Đệ
Nhất Cộng Hòa để lại cho ông là căn nhà của ông ở làng đại học Thủ Đức, số 17
đường công lý, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, Sài gòn. Chính nơi đây con cái
ông lớn lên, được nuôi dưỡng ăn học và nay là cái mái che mưa nắng cho ông lúc
tuổi xế chiều[1]
Sự đãi ngộ ấy có thể ông không bao giờ muốn
nhìn nhận, có thể ông chỉ coi như một điều đương nhiên là như thế..
Nay được biết ông lại bị bệnh lãng trí
nặng, đi lang thang quên cả lối về nhà. Chắc nhiều bạn bè thương cảm và buồn
cho ông.
Buồn thì đúng rồi.
Nhưng với tôi, tôi nghĩ nó lại là cơ may, là
nguồn hạnh phúc cho riêng ông.
Nếu ông còn trí nhớ, còn biết vui buồn, còn
biết phân biệt thị phi nhìn thấy cảnh đất nước như ngày hôm nay- như trường hợp
luật sư Lê Hiếu Đằng- thì có khi đến chết ông cũng không nhắm mắt được.
Lý Chánh Trung hơn ai hết là một giáo sư triết
hiểu sự mất trí nhớ đôi khi lại là là con đường giải thoát cho riêng ông.
Mới đây nhất, cậu con trai út Lý Trung Dũng,
sinh năm 1970, phóng viên báo Tuổi Trẻ trước đây bị xe ô tô cán, sau nhiều năm
chữa trị đã qua đời ngày 22 tháng11-2013.
Cuộc sống vắn vỏi ấy kết thúc một cuộc đời-kết
thúc cả cuộc đời tuổi trẻ đến phi lý- phải chăng Lý Trung Dũng như một con
chiên làm vật hiến tế thay cho bố?
Tin chắc là ông buồn vô kể. Như một phần đời
của ông không còn nữa. Tôi còn nhớ, đến thăm ông, tiếng kêu của Dũng ở trong
nhà vọng ra ngoài phòng khách, ông làm như thản nhiên tiếp tục nói chuyện.
Khi buổi chiều ra về, lòng tôi chùng xuống một
nỗi buồn. Trên tay cầm cuốn: Một thời bom đạn, một thời Hòa Bình. [2]
Lý Chánh Trung trước 1975, khi viết thường
luôn luôn kết án chế độ tư bản bóc lột, đã làm tha hóa con người. Theo ông,con
người bị vong thân trở thành những công cụ. Đó là hình ảnh của những con
sen, thằng ở, cô vũ nữ, anh bồi, anh tài xế.. những người lao động là nạn nhận
nằm trong mối tương quan :ông chủ- thằng ở.
Hoàn cảnh ấy so với người trí thức miền Nam
trở thành công cụ cho chế độ cộng sản thì có khác gì? Nghĩ tới hoàn cảnh người
trí thức miền Nam, miền Bắc- hoàn cảnh của một Lý Chánh Trung hiện nay thì
cũng chỉ là một công cụ của chế độ? Nói huỵch tẹt là một thứ nô lệ tệ hơn
nô lệ. Bảo sao thì phải nói vậy.
Có bao giờ Lý Chánh Trung nghĩ rằng chính ông
hiện đang vong thân, tự đánh mất phẩm tính, nhân cách con người, trở thành
những con vẹt biết nói?
Vì thế, tôi thiết nghĩ cần có một bài viết đầy
đủ về ông- như một nhân chứng sáng giá nhất cũng như bi kịch nhất- của một trí
thức miền Nam đã tự vong thân cho cộng sản và nếu không nói bây giờ thì
còn có dịp nào để nói?
Một lần nữa, tôi muốn đi lại hành trình trí
thức cũng như những hoạt động thời VNCH và thời sau 1975 của ông.
Đó là hai thời kỳ, hai chặng đường của một
người trí thức tiêu biểu của miền Nam.
Hai thời kỳ ấy, ông đã diễn dịch và phân định
bằng hai biểu tượng là: Một Thời đạn bom. Một thời Hòa Bình.[3]
Một thời đạn bom được hiểu là một thời oan
trái do bom đạn Mỹ gây ra. Và một thời Hòa Bình, thời sau 1975 mà dân chúng
được hưởng tự do, an bình, hạnh phúc, ấm no.
Thật là mỉa mai quá. Thời bom đạn vì ai nên
nỗi. Và thời Hòa Bình, hạnh phúc nơi mô? Hòa bình kiển nào, cho ai sau 1975?
Sự phân hai thời kỳ của Lý Chánh Trung đã giản
dị hóa đến cùng cực thực tế đau buồn của cả hai thời kỳ. Nó chỉ còn là những
tuyên truyền đầy cảm tính.
Cuộc chiến được tô vẽ như một bên thật
giầu, thật lớn, thật mạnh, một bên thật nghèo, thật nhỏ, thật yếu. Một bên thả
bom, một bên hứng bom. Một bên đi giầy, một bên chân không, một bên mập lù, một
bên ốm nhách. Một bên cỡi máy bay, một bên chạy bộ…Và cứ thế, trong năm năm
trời, không bên nào thắng bên nào..
Và ông có một giấc mơ được huyễn hoặc:
Trên đỉnh núi Sọ, trơ vơ một cây thập giá.
Trên cây Thập giá, có một người bị đóng đinh đang hấp hối.. Chung quanh người
bị đóng đinh vần vũ một bầy kên lông trắng, lông vàng với những cái cánh bao la
che kín mặt trời..
Tôi đến dưới chân Thập giá, ngước mắt nhìn
lên.
Đọc những dòng trên, tôi có cảm tưởng Lý
Chánh Trung chả thua gì một Tố Hữu ngoài Bắc.
Tôi không nói oan cho ông đâu. Những Lê Hiếu
Đằng, những ông Hồ Ngọc Nhuận, những Lý Quý Chung cũng đã từng là những con vẹt
biết nói tiếng người như thế cả. Trách ai bây giờ?
Lý Quý Chung trong một dịp trả lời phỏng vấn
của Alain Ruscio nhận xét :
‘ Như phần đông những người bạn tôi ở đây, tôi
đã sống nghiệm trải hai chế độ báo chí..Trước đây chúng tôi đã là những người
thợ bửa củi, còn bây giờ, chúng tôi là những người thợ mộc. Thái độ đã hoàn
toàn khác. Bây giờ chúng tôi lao mình vào việc xây dựng. Bây giờ tôi cảm thấy
mình có ích cho xã hội hơn cho Việt Nasm, cho dân tộc tôi, liên hệ gắn bó với
dân tộc, trách nhiệm hơn’.[5]
Hãy cứ hỏi 700 tờ báo hiện nay ở VN họ là thợ
bửa củi hay họ là thợ mộc?
Chính vì làm báo kiểu thợ mộc Lý Quý Chung mà
khi giáo sư Trần Văn Giàu đến thăm tòa báo Tin Sáng lần đâu tiên đã đưa
ra lời nhận xét khen mà mỉa mai như sau :
‘ Các anh làm báo cộng sản Như… Cộng sản
Lần sau ông đến khen nhiều hơn :
Lời khen này nếu hiểu ra thì quả thực Trần Văn
Giàu quá hiểu cộng sản cũng như quá hiểu những kẻ nịnh cộng sản.
Có nghĩa là các anh nịnh giỏi quá.
Vì thế, Hồ Ngọc Nhuận khi viết cuốn Hồi Ký
Đời, đã ghi chú thêm : Chuyện về những người tù của tôi Những
người tù ở đây là ai? Là Nguyễn Ngọc Lan, là Lý Chánh Trung, là Lê Hiếu Đằng,
là Ngô Công Đức, là Dương Văn Ba, là Nguyễn Hữu Hiệp mặc dầu họ chưa đi tù một
ngày nào trong chế độ mới.
Nói chung, đọc hết các sách của Lý Chánh Trung
như Tìm Về Dân tộc, Tôn Giáo và Dân Tộc, Những Ngày Buồn Nôn.
Tôi chỉ thấy những lời nguyền rủa và xưng tụng.
Nó thiếu vắng một nụ cười .
Để cho việc vẽ lại chân dung và diện mạo cũng
như hành trình nhận thức hay hành trạng cuộc đời Lý Chánh Trung được đầy đủ,
xin chia bài viết làm hai phần:
- Lý Chánh Trung trước 1975- Thời đạn bom
- Lý Chánh Trung sau 1975- Thời Hòa Bình
1.- Cuộc đời Hoạt động của ông trước 1975
Lý Chánh Trung và những người trí thức công
giáo
Ông đã tự vẽ chân dung của mình là khi từ Bỉ
về nước, ông đã về quê ở Vĩnh Bình và dạy cho một trường học là cơ sở của Cách
mạng. Một thời gian ngắn sau ông lên Sài Gòn..Năm 1955, ông từ bỏ Vĩnh Bình-
quê ông- và gia nhập vào trong nhóm trí thức công giáo Pax Romana với các quý
ông như bs Nguyễn Văn Ái, lm Nguyễn Bình An( qua đời rất sớm vì bệnh
cancer) bs Nguyễn Văn Thơ, luật sư Nguyễn Văn Huyền, các giáo sư Phạm Thị Tự,
Phó Bá Long, Trần Long, các chuyên viên như Lâm Võ Hoàng, Anh Tôn Trang, Võ
Long Triều, Đoản Thanh Liêm vv
Nhóm này đã tổ chức’ Tuần lễ Hội Học công giáo
‘ và và cho ra ‘ Tủ sách Đạo và Đời »
Đây là giai đoạn hiền lành và trong sáng nhất
của một người trí thức như ông. Nó tiêu biểu cho giới trí thức công giáo thành
thị mà phần đông du học ở ngoại quốc về.
Sau đó do sáng kiến phần lớn của Nguyễn Đình
Đầu để thể hiện tinh thần Công đồng Vatican 2, ông cùng với Nguyễn Văn Trung
Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn Trang chủ trương tờ tuần báo Sống Đạo. Trụ
sở tờ báo là mượn văn phòng xã hội của linh mục Parrel, trên đường Nguyễn Du,
cạnh nhà thờ Đức Bà.
Tổ chức tờ báo có hai bộ phận. Bộ phận viết
bài chủ lực là Nguyễn Văn Trung, Lý Chánh Trung, Nguyễn Đình Đầu, Anh Tôn
Trang., Bộ phận phát hành do các anh em trong phong trào Thanh Sinh Công, do
anh Phong trách nhiệm đi các giáo xứ. Anh Phong đã ra đi rất sớm khi còn trẻ .
Thật đáng tiếc một con người hoạt động xông xáo, lúc nào cũng vui vẻ nhanh
nhẹn. Tinh thần của anh Phong là phục vụ-. phục vụ cho xã hội, cho con
người- và cũng là vâng theo Chúa của anh.
Sau đây, xin trích dẫn vài bài báo của Lý
Chánh Trung đã được đăng trên Sống Đạo vào các tháng 7,8,9 năm 1962 như :
·
Thân Phận tôi đòi
·
Ông chủ xe hơi và cô
thư ký-
·
Hai giới thanh niên
·
Những gót chân non
Các bài viết của Lý Chánh Trung trong thời kỳ
này đã có những ám ảnh mà chủ yếu đặt nặng vấn đề Công Bằng Xã hội- một đề tải
quen thuộc và được ông khai thác nhiều lần-. Nó phản ánh một phần các tư
tưởng xã hội của chủ nghĩa Mác Xít trong đó có các vấn đề Cần Lao, vấn đề Vong
Thân, vấn đề Bạo động tranh đấu giai câp, vấn đề Bóc lột giữa chủ và
thợ ..vv..
Những ý tưởng then chốt về công bằng xã hội sẽ
là những bước mở đường cho Lý Chánh Trung một ngày không xa đến thực sự với
cộng sản.
Nói như thế chỉ là hoàn cảnh đặc biệt dành cho
Lý Chánh Trung thôi.. Những sinh viên nào ngồi trên ghế nhà trường đã bước qua
cổng trường của Platon thì không có gì xa lạ với những chủ đề xã hội trên
Tôi còn nhớ, lúc bấy giờ Báo Sống Đạo bán rất
chạy, gây được tiếng vang lớn. Ai cũng hăng say tin tưởng từ anh em viết bài
chủ lực, đến các sinh viên và đến anh em phụ trách phát báo.. Phản ứng của độc
giả thì nhiều- đủ loai khen chê tức giận cũng có, đôi khi cấm bán báo nữa.-
Phần Lý Chánh Trung được đề nghị làm chủ bút.
Nhưng ông thừa biết, bọn trí thức Bắc Kỳ công giáo làm hết mọi chuyện:-Từ sáng
kiến cũng do họ- tổ chức do họ- phương tiện vật chất do họ tự liệu- viết cũng
do họ. Nhưng họ vẫn đẩy ông ra làm người đứng đầu.. Sau này cũng thế khi làm
các tờ Hành Trình, ông vẫn giữ vai trò chủ bút. Nguyễn Văn Trung vai chủ nhiệm.
Việc thì người khác làm, danh xưng thì ông nhận.[7]
Và nhóm trí thức này cũng đã tổ chức
được một tuần lễ Hội học xã hội dưới nhan đề: Lương tâm công giáo và
công bằng xã hội vào năm 1963, do nhóm Trí thức công giáo Sài gòn. Điều
hành và tổ chức cũng do tụi công giáo Bắc Kỳ làm hết. Nhưng bài thuyết trình
khai mạc cũng dành cái vinh dự đó cho ông..Với sự góp mặt của Lý Chánh Trung,
Trần Văn Toàn, Trần Long, Anh Tôn Trang, Võ Long Triều, Mai Văn Lễ, Lm Nguyễn
Bình An, Nguyễn Văn Trung.
Lý Chánh Trung với bài tham luận khai
mạc: Sự phát triển của ý niệm Công Bằng trong lịch sử. Nguyễn Văn
Trung là người kết thúc tuần lễ hội thảo với:Trách nhiệm hiện tại của người
công giáo. [8]
Xin lưu ý là trong tuần lễ Hội thảo này, ban
tổ chức đã chỉ mời giới chưc lãnh đạo tôn giáo như TGM Nguyễn Văn Bình, cả Khâm
sứ tòa Thánh.. Nhưng đã không mời đại diện chính quyền như ông Trần Kim Tuyến
hay Ngô Đình Nhu..
Điều đó muốn nói lên tính cách độc lập của
buổi Hội thảo. Và họ củng thừa biết rằng, dù có mời, ông Ngô Đình Nhu cũng
không đi dự vì ông không muốn dính dáng vào sinh hoạt của tôn giáo…
Cặp Nguyễn Văn Trung- và Lý Chánh Trung
Ông Lý Chánh Trung là một trong số những người
công giáo hiếm hoi gốc Nam Kỳ. Những người khác phần đông gốc Bắc như
Nguyễn Văn Trung, Nguyễn Đình Đầu, Nguyễn Huy Lịch, bác sĩ Nguyễn Văn Ái. Cũng
vì thế nên dân gốc Bắc đã không ngần ngại đề cử ông làm chủ bút tờ Sống Đạo..Có
lần tức mình ông nói huỵch tẹt ra: tụi bay làm hết đem tao ra làm cái
bung xung thôi..
Mọi người đều cười xòa. Để ông làm chủ bút là
điều chí phải. Nhưng bên trong là Nguyễn Đình Đầu điều động từ A tới Z.
Bước mở đầu, ông và họ gây được tiếng vang và
sự chú ý của giới trí thức công giáo và ngoài công giáo.. Phạm vi hoạt động của
họ mang tính giới thiệu mở đường theo tinh thần Công Đồng Vatican hai, gợi ý đề
nghị, trình bầy và chưa có dấu tích một ẩn ý chính trị của phe phái nào.
Giữa Nguyễn Văn Trung và Lý Chánh Trung dù là
một cặp, nhắc tới người này là nhắc tới người kia. Nhưng Lý Chánh Trung chẳng
hiểu sao được mọi giới trân trọng.
Có thể nói thêm cả công giáo, Phật giáo và
người cộng sản miền Bắc đều phê phán Nguyễn Văn Trung.. Hà Nội qua giáo sư Trần
Văn Giàu và một số cây viết phê bình văn học như Thái Kế Toại, Phong Hiền, Tam
Thanh, Trần Trọng Đăng Đàn đã chỉ chĩa mũi dùi vào một mình Nguyễn Văn Trung mà
thôi.
Bây giờ thì chúng ta hiểu rằng bị cộng sản
miền Bắc xúm vào chửi chưa hẳn đã là điều xấu, có thể là ngược lại. Họ chửi vì
nhiệm vụ bổn phận phải làm. Không lạ gì khi vào miền Nam sau 1975, việc đầu
tiên của giáo sư Trần Văn Giàu là đi tìm Nguyễn Văn Trung để nói chuyện.
Lúc gặp nhau như thế Trần Văn Giàu mới là Trần
Văn Giàu.
Sống trong chế độ cộng sản, thường người nào
cũng mang hai nhân cách, hai cách thể hiện. Một nhân cách xã hội để chường ra
cho mọi người biết mà thường là nhân cách giả, không thật.- Nhân cách kịch-.
Một nhân cách thứ hai là nhân cách con người
sống thực với lòng mình. Và cũng thật khổ cho con người cùng một lúc phải đóng
hai nhân cách.
Mặc dù dư luận VN không mấy thiện cảm với
Ngyuển Văn Trung- trừ giới sinh viên trí thức-.
Nhưng đối với trí thức Tây Phương hay
Việt Nam tại Paris hay trí thức Mỹ thì Nguyễn Văn Trung được đón nhận với trân
trọng nhiều hơn. Một số sinh viên trí thức trẻ Việt Nam coi các tờ Hành Trình
của Nguyễn Văn Trung như căn bản lý thuyết để hội thảo hay tranh luận như một
thứ Table Ronde(Hội nghị bàn tròn). Họ gửi tiền về cho Nguyễn Văn Trung để ông
gửi tài liệu sách báo sang Pháp cho họ đọc.
Trong số những người quý mến và trân trọng
Nguyễn Văn Trung, xin nhắc tên một người : Đó là giáo sư Tạ Trọng Hiêp,
nhà nghiên cứu Hán Nôm, học trò Hoàng Xuân Hãn ở Paris. Ông thường làm sứ giả
trung gian gửi những tài liệu, báo chí của Nguyễn Văn Trung về Hà Nội và ngược
lại gửi những thư từ tài liệu có liên quan đến Nguyễn Văn Trung từ Hà Nội về
Sài Gòn. Ông cung cấp tin tức, trao đổi tài liệu của Pháp hoặc những tác giả
người Pháp mà Nguyễn Văn Trung không có dịp biết tới và góp ý kiến về những bài
viết của Nguyễn Văn Trung.[9]
Đó là đường giây’buôn lậu Văn Hóa’ giữa
hai miền Nam-Bắc trong thời kỳ chiến tranh mà ít người được biết đến.[10]
Trường hợp khác là chủ bút tờ Esprit, ông J.M
Domenach lúc bấy giờ, địa chỉ 19 rue Jacob viết bài tranh luận và trao đổi với
Nguyễn Văn Trung trong một bài viết của Nguyễn Văn Trung nhan đề : Sự
thất bại của Chủ Nghĩa Nhân vị.( Échec du Personnalisme).
Cuộc tranh luận giữa hai người trí thức
Việt-Pháp này ở miền Nam cũng ít ai được biết, trừ một thiểu số nhỏ giới trí
thức Việt Nam ở Paris như Tạ Trọng Hiệp.
Có những sinh viên Mỹ như David G. Marr, sau
này là nhà sử học với cuốn sách đáng nể viết về Việt Nam : Viet
Nam 1945, The Quest for power.[11] David Marr có
sang Việt Nam mấy tháng và có dịp đọc một số bài viết của Nguyễn Văn
Trung qua trung gian một số bạn sinh viên trẻ như Nguyễn Quốc Thái, Đặng Tiến.
Những người này đã giới thiệu David Marr về Nguyễn Văn Trung và tờ Hành Trình
và có thể họ đã dịch những bài tham luận của Nguyễn Văn Trung sang tiếng
Mỹ cho David Marr. Khi về Mỹ, ông đã trao đổi với các giáo sư của ông, họ hoan
hỉ phổ biến các bài viết đó nơi các giới sinh viên và giáo sư Đại Học Mỹ,
phổ biến trên các tập san Journal of Asian Studies và Asian Survey.. và phổ
biến tại đại học Berkeley, California, nơi David Marr theo học.
Các bài báo ấy cũng được người Mỹ đăng lại
trên tờ America, do các cha dòng Tên, chủ bút là linh mục Donald Campion,
địa chỉ 106 W. 56th St, New York, 10019.[12]
Trong khi đó, Lý Chánh Trung được cả giới lãnh
đạo công giáo và Phật giáo quý trọng, tin tưởng. Đại học Đà Lạt qua linh mục
viện trưởng Nguyễn Văn Lập là một tỉ dụ.
Khối Phật giáo Ấn Quang cũng là nơi lui tới
thường xuyên của Lý Chánh Trung trong các buổi hội họp, cầu siêu, mít tinh.
Chẳng những thế, ông cũng có thể được coi như người tin cậy của khối Phật giáo
Ấn Quang như TT. Trí Quang.
Họ thật sự chỉ hoạt động chung với nhau từ
thời gian 1962 đến 1968 là cùng.
Từ 1955 đến 1960, Nguyễn Văn Trung đã viết
nhiều về văn học nhất là triết học hiện sinh. Viết có vẻ dễ dàng, dễ đọc và lôi
cuốn, cộng tác với các báo như Sáng Tạo, Bách Khoa và đã có tiếng tăm nơi giới
trì thức trẻ. Các tập Nhận Định I, Nhận Định II và Nhận Đinh III gây được nhiều
tiếng vang tốt trong giới trí thức Sài Gòn. Ông được coi như người mở
đường cho Triết Học chủ nghĩa Hiện Sinh vào miền Nam. Ngoài ra ông còn là tác
giả các tác phẩm như : Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, Lược khảo Văn
Học I. Tổng cộng ông có hơn 20 đầu sách biên khảo về Văn Học, Triết học đã được
nhiều sự hưởng ứng của giới trẻ thành phố Sài Gòn.
Trong khi đó, giai đoạn 1955-1960, Lý
Chánh Trung hầu như chưa viết được mấy và ông chỉ thực sự có tiếng tăm khi bắt
đầu cộng tác viết cho Sống Đạo..
Cuốn sách xuất bản đầu tiên của ông Cách
Mạng và Đạo Đức (1966) không gây được tiếng vang bao nhiêu. Nội
dung cuốn sách thật ra chỉ là in lại một cours Triết trong chứng chỉ Luận
Lý và Đạo đức của ông.
Sau khi ông Diệm bị lật đổ, ông viết
cuốn Ba năm xáo trộn(1967). Cuốn tìm về Dân Tộc ( 1967) bộc lộ
một quan điểm chính trị tìm một giải pháp cho vấn đề VN.. Nhưng hầu hết nội
dung cuốn sách gom góp các bài báo ông đã viết.
Tiếng tăm của Lý Chánh Trung nay được mọi
người chú ý.
Sau này, dù cho có hoạt động chung trên Đất
Nước, Hành Trình, Trình Bầy.. Sự chọn lựa của Lý Chánh Trung đi theo
MTGPMN cho thấy những bài viết ấy chỉ phản ánh quan điểm riêng của ông..
Muốn biết quan điểm chính trị của ông thì phải
đọc những bài ông viết cho tờ Tin Sáng, gồm 50 bài trong vòng một
năm trời. Đây là thời điểm Lý Chánh Trung đã dứt khoát chọn đứng về phía bên
kia và chắc hẳn viết theo chỉ thị hay đơn đặt hàng. Tất cả những bài ấy sau này
được gom lại trong một tuyển tập nhan đề: Những ngày buồn Nôn, in
năm 1971.
Tóm lại giữa Nguyễn Văn Trung-Lý Chánh Trung-
mặc dầu có một số quan điểm đồng thuận.. Nguyễn Văn Trung vẫn là một nhà biên
khảo, nhà nghiên cứu với một một văn phong lý luận sắc bén và thuyết phục.
Lý Chánh Trung hơn ai hết là một nhà báo một
người hành động.- Lối viết của ông dựa trên sự việc và đượm cảm tính gây ấn
tượng và tạo được sức lôi cuốn không nhỏ nơi người đọc.
Hai người ấy- mỗi người một văn phong- một tài
hoa- cộng lại thì phải nói là rất tốt. Họ bổ túc cho nhau. Và nếu có
nhiều người – nhất là bạn đoc- tưởng nhầm họ là những đôi bạn chí thân, đồng
hành thì điều ấy không hẳn là sai.
Nhưng bổn phận của tôi thấy cần phải nói ra là
không hẳn đúng như vậy. Bạn chí thân của Lý Chánh Trung có thể là những người
trong nhóm Tin Sáng. Ngay cả dù có nhận như thế, tôi cũng nhận ra thêm một
điều,là những người bạn của Lý Chánh Trung chỉ có tính cách giai đoạn. Mỗi giai
đoạn hoạt động là mốt kết nối, và mỗi giai đoạn là một loại bạn
Nhìn lại những năm tháng ấy, phải nhìn nhận
họ đã ảnh hưởng nhất định trên giới trí thức trẻ miền Nam. Riêng Nguyễn
Văn Trung được coi là người đi hàng đầu lôi kéo nhiều trí thức, nhà văn cộng
tác với ông trên tờ Đất Nước, Hành Trình và Trình Bày.
Trong số ấy, phải kể đến Nguyên Sa, Trần Bích
Lan –mặc dù là một nhà thơ nổi tiếng-, ông đã chia sẻ những quan điểm chính trị
của Nguyễn Văn Trung và là cây bút quan trọng nhất trên tờ Đất Nước cùng với
Thảo Trường.
Mặc dù không phải là bạn như trong giới văn
Nghệ sĩ, thường sinh hoạt chung. Nhưng đụng có chuyện là Nguyên Sa trở thành
cây bút đao búa, đập bất cứ ai đung đến Nguyễn văn Trung. Trường hợp
Duyên Anh phê bình Nguyễn Văn Trung, Nguyên Sa đã để cả tháng trời đả kích
Duyên Anh- một cây Thương Sinh của báo Con Ong- Cho đến khi chính Duyên Anh
phải lên tiếng ngỏ lời xin lỗi.[13]
Sau này, ở Hải ngoại, Nguyên Sa xếp Nguyễn Văn
Trung vào một trong bốn dòng văn học chính ở miền Nam…
Tuy nhiên, về mặt chính trị, Cả Nguyễn Văn
Trung và Lý Chánh Trung lúng túng trong những quan điểm và những chọn lựa thật
sự không rõ ràng, có thể gây nhiều ngộ nhận và có thể đã tạo ra những ảo tưởng
tai hại tới khôn lường.
Chẳng hạn, họ đề ra một lập trường chính trị
ảo tưởng- không chọn bên này bên kia- một lập trường đứng giữa, khi mơ
ước một Xã Hội chủ nghĩa không cộng sản!
Nhưng lịch sử đã định cho mỗi người một hướng
đi. Sự chọn lựa cách dấn thân nhập cuộc biến thành hai số mệnh đời họ..
Sau 1975, Nguyễn Văn Trung ngồi tù tưởng sẽ
tiêu tan cuộc đời rồi cuối cùng được con bảo lãnh- ra được hải ngoại, sống cuộc
đời còn lại thảnh thơi và thông thoát..
Lý Chánh Trung chọn con đường đi theo đảng
cộng sản- tưởng rằng đó là tất cả lý tưởng đời minh.
Ở một thời điểm nào đó, người ta tưởng lầm
rằng chủ nghĩa Mác xem ra có tác động lôi cuốn, có sức tác động vào lịch
sử..có khả năng giải thoát cho con người, giải quyết mọi mâu thuẫn xã hội!!!
Tưởng như thế là nhầm.
Vì thế, ngày nay đã rất nhiều người hoài nghi
điều ấy. Và họ muốn tách ra khỏi quỹ đạo Đảng vốn được coi là cội nguồn cũa những
thất bại về kinh tế cũng như xa đọa đạo đức con người. Sự xa đọa ấy đến ngoài
sự suy nghĩ của mọi người. Như cảnh tượng con đâm mẹ ngoài đường phố, trò đánh
thầy, thầy lợi dụng học trò con gái đi làm điếm
Trước đây Proudhon đã từng nói: Toute
synthèse est gouvernementale. (Mọi tổng hợp đều có tính cách chính quyền-
nghĩa là dộc đoán-.
Mà chủ nghĩa cộng sản là thu tóm, tổng hợp và
vì thế nó là độc đoán.
Tham vọng ấy sẽ tự hủy chế độ cộng sản vì nó
chống lại bản tính con người.
Lý Chánh Trung- một trí thức vào cuối đời dã
nếm đủ tưởng rằng chẳng những sinh mệnh chính trị của ông bị tiêu hủy mà chính
cái mạng sống của ông cũng không giữ được trước lời đe dọa bóng gió của Nguyễn
Văn Linh sau vụ Bão tố tận diệt mầm mống phản động của những phần tử trong nhóm
nhóm Những người Kháng chiến cũ.. Ông đã vội vã viết thư phân trần, giải thích
gì đó. Nội dung không ai biết được.
Theo lời luật sư Đoàn Thanh Liêm khi đến thăm
Lý Chánh Trung, Ông Trung đã khoe bức thơ Nguyễn Văn Linh gửi cho ông nhằm mục
đích trấn an ông.[14].
Bức thơ ấy như lá bùa hộ mạng ông, giúp ông
yên tâm sống nốt cuộc đời còn lại.. Nhớ lại trong 20 năm miền Nam, ông bất
mãn, ông phê phán, ông miệt thị đủ người từ ông tổng thống trở xuống.
Ông chửi mà không sợ, vì biết rằng chế độ miền
Nam không dùng bạo lực, không đưa ông đi tù, không ám hại người trí thức.
Trên con đường từ Sài Gòn về cư xá làng Đại
học Thủ Đức, sau một ngày vật lộn tranh đấu, mít tinh, xuống đường, đối đầu với
lựu đạn cay và hàng rào kẽm gai, đối đầu với Nguyễn Ngọc Loan và sau này với
Trang Sĩ Tấn, ông bình thản lái xe về nhà vì biết chắc không hề sợ có kẻ ám
toán, giết hại ông.
Nay chỉ cần một lời đe dọa bâng quơ bóng gió
đủ làm ông sợ rét run.
Nhất là lúc cuối đời xem ra ông không khỏi có
nhiều điều ân hận không nói ra được.
Nói tóm gọn thì cả hai lúc cuối đời đều đã để
lại hai nhận xét thời danh đáng ghi nhớ :
·
Phần
Nguyễn Văn Trung nói : Tham gia Cách mạng là tham gia vào một quá
trình tự tiêu diệt chính mình sau này.
·
Phần Lý Chánh Trung,
phát biểu: Về một môn học mà thầy không muốn dậy, trò không muốn học.
(Còn tiếp)
[1] Làng Đại Học Thủ
Đức được thành lập là do một dự án của ông Ngô Đình Nhu muốn đưa một số phân
khoa Đại học lên Thủ Đức như một thứ Campus của Tây Phương. Nhưng chỉ mới xây
dựng bước đầu làng Đại Học cho các giáo sư thì ông bị thảm sát năm 1963. Chương
trình tốt đẹp ấy giống như nhiều chương trình xã Hội khác bị bỏ dở. Khu đất
làng Đại Học là do đất mua lại của nông dân với giá rẻ. Các giáo sư được
cho vay một số tiền rồi được tùy ý xây cất theo ý thích của mỗi người.
[2] Lý Chánh Trung,
Một thời đạn bom, Một thời Hòa Bình. Nxb Đồng Nai. Đây là cuốn sách được xuất
bản sau 1975 được chính quyền cộng sản cho xuất bản cùng với cuốn Hồi Ký của Lý
Quý Chung. Các cuốn Hồi Ký khác của Dương Văn Ba và Hồ Ngọc Nhuận bị cấm
xuất bản. Nhưng Hồ Ngọc Nhuận vẫn cho in chui, dưới dạng photocopy. Tôi có được
một ấn bản này.
[3] Nội dung cuốn
sách chắc được xào nấu kỹ càng chỉ có hai mặt : Chê và khen.. Chê miền Nam
trước 1975 và khen chế độ XHCN sau 1975 với nhiều phần sai sự thật, lấp liêm,
bất công nếu không nói là xuyên tạc.
[4] Lý Chánh Trung,
Những ngày buồn nôn, bài : Bầy kên kên và cây thập giá, trang 160
[5] Alain Ruscio,
Vivre au Viet Nam, trang 177
[6] Hồ Ngọc Nhuận,
Hồi Ký Đời, bản thảo, trang 73
[7] Tở Hành Trình,
tuy chỉ xuất bản được mười số, Nhưng lại gây tiếng vang nhiều nhất. Một bản tin
của A.F.P, ngày 12-11-1965 đã đưa tin như sau : Son dernier reproduit un
article de revue littéraire mensuelle ‘Itinéraire’ qui semble etr le
porte-parole des milieux univertsitaires et intellectuels. (Số ra cuối cùng của
tờ báo(chỉ tờ sinh viên Huế) đã in lại một bài bài báo Hành Trình, một tờ báo
được coi như phát ngôn viên cho giới Đại Học và trí thức)
[8] Trích Tuần Lễ
Hội Học 1963. Nhóm Trí thức công giáo sài Gòn. Lương Tâm Công Giáo và Công Bằng
Xã Hội, dưới sự bảo trợ của Tổng Giám Mục giáo khu Sài Giòn, nxb Nam Sơn
[9] Đáng nhẽ, Tạ
Trong Hiệp đã nhận lời mời của Nguyễn Văn Trung về dạy tại Đại hoc Văn Khoa Sài
Gòn. Nhưng ông bị một ký giá báo Tiền Tuyến viết xuyên tạc về ông ngày
16-10-1969. Ông bỏ ý định về dạy học. Ông đã qua đời năm 1996
(1933-1996).[9]
[10] Tờ Hợp Luu đã
dành một số báo, số 34 tháng 4&5- 1997 để tưởng niệm học giả Tạ Trọng Hiệp,
một trong những trí thức hiếm hoi về văn học cỏ mà tiếc thay rất ít người biết
tới. Số người biết về ông ngoài một số nhà nghiên cứu Hán- Nôm ở Hà Nội như quý
ông Ngô Đức Thọvv và một ít oi trí thức tại Phápvv
[11] David Marr,
Viet Nam, 1945, The Quest for Power là một cuốn sách biên khảo rất quan trọng
về giai đoạn Việt Minh lên nắm Chính quyền trong bối cảnh tranh chấp giữa
Pháp, Nhật và tình thế lúc bấy giờ.. Sau mấy chục năm David Marr vẫn còn giữ sự
trân trọng ấy với Nguyễn Van Trung, Ông tìm cách liên lạc với bà sử gia
Sophie Queen-Judge, tác giả cuốn sách viết về Hồ Chí Minh, The missing years.
David Marr gửi chút tiền mọn biếu Nguyễn Văn Trung..
[12] Trích Hồ sơ Hành
Trình, Sài Gòn 1964-1965, nxb Nam Sơn, 2000
[13] Nguyễn Van
Trung, Nhận Đinh X- Nguyên Sa , một người bạn, trang 148
[14] Đoàn Thanh
Liêm, Nỗi khó xử của Giáo sư Lý Chánh Trung,, danchimvietonline.net, 25-08-2013
© Nguyễn Văn Lục
© Tác Giả Gởi Bài Dến Ban
Biên Tập
© Diễn Đàn Người Dân Việt Nam
No comments:
Post a Comment