Hiệu quả gì từ dự án
Đường sắt Cát Linh – Hà Đông?
RFA
2018-08-14
2018-08-14
Dự án đường sắt Cát
Linh – Hà Đông tại thủ đô Hà Nội vừa chạy thử nghiệm nhưng đã có những quan
ngại về tính hiệu quả khi dự án được đưa vào khai thác thương mại, dự định vào
cuối năm nay.
Thực hư thế nào?
Lỗ nặng vì đội vốn và vỡ tiến độ thi công
Sau 10 năm thi công
với 6 lần điều chỉnh tiến độ, dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông tại thành phố
Hà Nội vào ngày 11 tháng 8 vừa qua cũng được đưa vào chạy thử nghiệm và dự kiến
cuối năm nay đưa vào khai thác thương mại. Dự án này từ trước đến nay đã gây
nhiều ồn ào trong dư luận vì tiến độ thi công chậm và tổng vốn đầu tư bị đội
lên quá cao.
Những tác động của nó
rất lớn, nhưng đằng sau mình phải nhìn nhận là những sự ưu tiên đối với nhà
thầu Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc.
-Nhà báo Đỗ Cao Cường
-Nhà báo Đỗ Cao Cường
Nhà báo Đỗ Cao Cường,
nguyên phóng viên tờ Pháp Luật trong nước cho rằng những bất cập của dự án gây
ảnh hưởng đến cảnh quan đô thị, ngân sách nhà nước, tiền thuế của người dân.
Anh đề cập đến vấn đề văn hóa ‘phong bì’ ngay từ những ngày đầu đối với các dự
án có vốn đầu tư của Trung Quốc, và cho rằng những người trong cuộc đã trực
tiếp gây ra thiệt hại trên.
Ở đâu mà để xảy ra
tình trạng này thì mình phải nhìn nhận trách nhiệm thứ nhất là của chính chính
quyền Việt Nam về quản lý, giám sát; cho đến chủ đầu tư. Những tác động của nó
rất lớn, nhưng đằng sau mình phải nhìn nhận là những sự ưu tiên đối với nhà
thầu Trung Quốc, chính quyền Trung Quốc.
Dự án đường sắt Cát
Linh – Hà Đông được thực hiện theo Hiệp định ký kết năm 2008 giữa Việt Nam và
Trung Quốc và khởi công năm 2011 với vốn đầu tư ban đầu khoảng 550 triệu USD,
trong đó vốn vay viện trợ phát triển (ODA) của chính phủ Trung Quốc là 419
triệu USD.
Đến năm 2014, dự án bị
đội vốn lên 40%, tức khoảng 891 triệu USD, đồng nghĩa với khoản tiền chủ đầu tư
Việt Nam nợ phía Trung Quốc tổng cộng khoảng 700 triệu USD.
Một giải pháp giúp giảm tắc nghẽn giao thông
Báo Tiền Phong hôm
3/4/2018 trích số liệu của Bộ Tài chính cho biết ước tính mỗi ngày Việt Nam
đang phải trả cho Trung Quốc 2,4 tỷ đồng tiền lãi phát sinh cộng với nợ gốc của
dự án đường sắt Cát Linh – Hà Đông. Bên cạnh đó, khoản chi phí vận hành tuyến
đường sắt này được đánh giá là khá cao với sự tham gia của 681 nhân sự mỗi
ngày, theo số liệu Ban Quản lý Dự án Đường sắt. Mặt khác, giá vé tàu mỗi lượt
chỉ 10 ngàn Việt Nam đồng cộng với số lượng hành khách chưa được thống kê khiến
giới chuyên môn có nhiều nghi ngại về tính hiệu quả khi dự án này được đưa vào
hoạt động thương mại.
Tiến sĩ Lê Đăng
Doanh, nguyên Viện trưởng Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, nhận định dự án sẽ
khó có lãi.
Bây giờ dự án đã đầu
tư rồi thì phải hoạt động thôi, còn việc lỗ lã như thế nào thì có lẽ phải chờ
quyết toán và phải có báo cáo công khai với Hội đồng Nhân dân Hà Nội để xem
xét. Nhưng rõ ràng là cho tới nay thì với số lượng hành khách dự kiến và chi
phí đội vốn quá cao so với dự toán ban đầu thì dự án này khó có thể có lãi.
Chúng tôi đặt câu hỏi
về giải pháp nào để bù lỗ cho khoản nợ đầu tư dự án, nhưng tiến sĩ Doanh từ
chối đưa ra kiến nghị vì ông cho rằng đây là việc của bên liên quan.
Còn với quan điểm hiệu
quả kinh tế - xã hội phải được đánh giá dựa trên nhiều yếu tố khác nhau, tiến
sĩ Nguyễn Quang A chia sẻ ông không bi quan vào việc vận hành tuyến đường sắt
Cát Linh – Hà Đông. Ngược lại, ông bày tỏ mong đợi của mình khi tuyến đường sắt
này được đưa vào vận hành.
Nếu mà nó giải tỏa
được sự tắc nghẽn giao thông thì cái đó cũng góp phần vào hiệu quả của đường
sắt, chứ không chỉ tính đến chuyện là bán được bao nhiêu vé, số vé đó có bù
được cho các khoản đầu tư, khoản lãi của tiền vay hay không. Thậm chí phải tính
cả chuyện bớt ô nhiễm môi trường. Cái đấy làm cho sức khỏe người dân vùng đó
tốt hơn, đỡ tốn chi phí y tế… Nếu tính toán hiệu quả kinh tế xã hội thì
phải tính rộng ra cả như thế.
Phụ thuộc và lạc hậu sau Trung Quốc
Trong ngày chạy thử
nghiệm tuyến đường sắt Cát Linh – Hà Đông hôm 11/8, trên mạng xã hội xuất hiện
hình ảnh được cho là vé lên tàu in song ngữ Việt – Trung, trong đó chữ
Trung Quốc in to và đặt phía trên chữ Việt. Vài tuần trước đó, tại các nhà ga
của tuyến đường sắt này cũng xảy ra tình trạng tương tự ở các biển hiệu tên ga
in tiếng Hoa. Dư luận sau đó phản ứng khiến Ban Quản lý dự án Đường sắt tổ chức
cuộc họp ngay hôm 12/8 được nói để ‘chấn chỉnh’ và ‘nghiêm khắc phê bình’ tổng
thầu vì tự ý thực hiện các vụ việc trên.
Rõ ràng là cho tới nay
thì với số lượng hành khách dự kiến và chi phí đội vốn quá cao so với dự toán
ban đầu thì dự án này khó có thể có lãi.
-Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
-Tiến sĩ Lê Đăng Doanh
Đứng dưới góc độ một
người quan sát xã hội, nhà báo Đỗ Cao Cường thể hiện sự bất bình với phía nhà
thầu Trung Quốc.
Chỉ thông qua một buổi
chạy đầu tiên như vậy mà mình có thể khẳng định rằng nó làm ăn ở Việt Nam mà nó
không hề tôn trọng pháp luật Việt Nam. Nó coi thường chính quyền, coi thường
người dân Việt Nam. Những người dân Việt Nam khôn ngoan, có nhận thức, có lòng
yêu nước thì người ta sẽ tẩy chay hoàn toàn nó, phải lên án, phản đối, phải
chấm dứt ngay những nhà thầu Trung Quốc. Nhưng mà khổ nỗi đằng sau câu chuyện
nhà thầu Trung Quốc, câu chuyện Cát Linh – Hà Đông là những câu chuyện về nợ
công, bị phụ thuộc vào Trung Quốc bằng những khoản nợ, bằng thể chế, bằng mối
quan hệ thâm giao Việt Nam – Trung Quốc, bằng chế độ.
Thực tế, nhiều dự án
vốn đầu tư Trung Quốc từ trước đến nay đều mang lại những tác động tiêu cực về
tài chính và môi trường cho phía Việt Nam như Sân vận động Mỹ Đình, Dự án mở
rộng nhà máy luyện thép Thái Nguyên, Nhà máy cán thép Lào Cai, Dự án Bauxite
Tây nguyên, các dự án xử lý rác, nhà máy dệt… Nhà báo Đỗ Cao Cường cảnh báo về
nguy cơ Việt Nam bị ‘lún sâu’ vào nền kinh tế Trung Quốc.
Nếu mình không nhìn
nhận vấn đề và đưa ra một giải pháp triệt để và giải quyết thực sự mạnh mẽ thì
tất nhiên càng ngày mình càng lún sâu vào nó. Khoản vay, khoản nợ của mình thì
càng cao mà chất lượng công trình càng không đạt chất được. Người Việt
Nam phát triển đã lạc hậu rồi mà lại còn phải lạc hậu theo sau Trung Quốc.
Tiến sĩ Nguyễn Quang A
thì cho rằng Việt Nam không hoàn toàn bị phụ thuộc vào kinh tế Trung Quốc cũng
như ông không quá bi quan với những con số gọi là ‘bề mặt’ của quan hệ kinh tế
Việt – Trung. Ông dẫn chứng bằng lượng hàng nhập khẩu từ Trung Quốc nhưng có
thể là gốc của Mỹ, Nhật hay EU và cho biết thêm.
Các con số về xuất
nhập khẩu mà được những nhà kinh tế quan niệm từ những năm 40 – 50 của thế kỷ
trước không phản ánh thực chất lắm bức tranh của một nền kinh tế đã được toàn
cầu hóa như bây giờ. Trong thế giới toàn cầu hóa như bây giờ thì sự tương thuộc
lẫn nhau của các nền kinh tế là một chuyện không thể tránh khỏi.
Tuy vậy, tiến sĩ
Nguyễn Quang A nhấn mạnh việc cân đối xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung
Quốc cũng như nỗ lực tìm cách ít lệ thuộc hơn vào Trung Quốc là điều mà chính
phủ Việt Nam luôn phải cân nhắc.
No comments:
Post a Comment