Những điều cần biết về tình trạng sa sút
trí nhớ
28-06-201611:03:06
Theo dự kiến, khi tuổi thọ trung bình của con
người tăng lên thì tỉ lệ người mắc bệnh sa sút trí nhớ cũng tăng theo.
Theo chuyên trang sức
khỏe NHS, dự kiến số lượng người Anh mắc chứng sa sút trí nhớ sẽ tăng lên
khoảng 1 triệu vào năm 2021. Có rất nhiều quan niệm sai lầm xung quanh loại
bệnh này, và chúng có thể gây nhầm lẫn cho những người đang muốn tìm hiểu rõ
hơn về hội chứng này. Sau đây là 10 lời đồn phổ biến về căn bệnh trên, cùng tìm
hiểu xem cái nào đúng, cái nào sai nhé!
1. Bệnh sa sút trí nhớ
giống như bệnh Alzheimer
Sa sút trí nhớ là một
thuật ngữ chung để chỉ các rối loạn nhận thức mãn tính có triệu chứng tương tự,
bao gồm cả mất trí nhớ, khó khăn trong giao tiếp, thay đổi tính cách, suy giảm nhận
thức và khả năng giải quyết vấn đề. Bệnh Alzheimer là dạng phổ biến nhất của chứng mất trí nhớ. Trong khi có mối
liên hệ rõ ràng giữa hai loại bệnh trên thì chứng sa sút trí nhớ không nhất
thiết là triệu chứng của bệnh Alzheimer.
2. Sa sút trí nhớ do gen di truyền
Người ta cho rằng gen
di truyền liên quan đến quá trình phát triển bệnh sa sút trí nhớ, và một
số đột biến gen được xác định có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh. Tuy nhiên,
sự xuất hiện đơn lẻ những đột biến này không phải là dấu hiệu rõ ràng rằng
người đó sẽ mắc bệnh sa sút trí nhớ, và cả việc không xuất hiện những loại gen
trên cũng không đảm bảo rằng bạn sẽ miễn nhiễm với loại bệnh này.
Việc trong gia đình
bạn có thành viên mắc chứng sa sút trí nhớ mức độ một được cho là có ảnh hưởng
đến mức độ gia tăng nguy cơ mắc bệnh của người đó lên tới 30%, mặc dù nguy cơ
này được giảm một cách đáng kể nếu thành viên trong gia đình mắc bệnh khi trên
85 tuổi. Yếu tố nguy cơ có ảnh hưởng nhất đối với chứng sa sút trí nhớ là tuổi
tác. Hút thuốc, béo phì, ít vận động, lượng cholesterol cao, huyết áp cao và
trầm cảm cũng liên quan đến sự phát triển của các triệu chứng bệnh sa sút trí
nhớ.
3. Luôn quên vị trí
mình đã để đồ, đó là khởi đầu của bệnh sa sút trí nhớ
Đãng trí gia tăng
thường gắn liền với tuổi tác, và tình trạng mất đi ký ức dẫn đến việc mất đồ
hoặc quên tên người lại không liên quan trực tiếp đến chẩn đoán bệnh sa sút trí
nhớ. Sa sút trí nhớ được định nghĩa là tình trạng suy giảm chức năng nhận thức
đáng kể cản trở khả năng thực hiện các hoạt động ngày thường. Trong các trường
hợp của bệnh sa sút trí nhớ, bệnh nhân không hề biết rằng trí nhớ của họ bị ảnh
hưởng, và thỉnh thoảng sẽ phủ nhận có điều gì bất thường xảy ra.
Thông thường người
đang lo ngại về tình trạng mất trí nhớ, họ không bị nhiễu loạn vì cuộc sống bị
ảnh hưởng, nhưng họ lại lo rằng họ có thể bị sa sút trí nhớ. Đãng trí có thể
xảy ra do nhiều nguyên do, và không có sự tương quan nào giữa chứng quên thông
thường với chứng mất trí. Nếu ai đó cảm thấy khó chịu về bất kỳ chức năng nhận thức nào của mình, họ nên tham khảo ý kiến bác sỹ để có thể
được bắt đầu quá trình đánh giá thích hợp.
4. Người mắc chứng sa
sút trí nhớ nghĩ rằng những người đã khuất vẫn còn sống
Quá khứ trở lại là một
biểu hiện thường gặp của bệnh mất trí nhớ và ảnh hưởng của việc này có thể bao
gồm tình trạng tin những người đã qua đời rồi vẫn còn sống. Đôi khi điều này có
thể gây đau khổ cho những người liên quan trong việc hỗ trợ bệnh nhân, tuy
nhiên các chuyên gia chăm sóc sức khỏe sẽ thường khuyến cáo người thân và những
người chăm sóc không tranh luận với bệnh nhân.
Đây thường được coi là
phương pháp tốt nhất để đối phó với niềm tin không đúng chỗ của bệnh nhân mắc
chứng sa sút trí nhớ, hãy chấp nhận rằng bệnh nhân đang sống ở một thực tế khác
trong giây lát, và hiểu rằng những nỗ lực chỉnh sửa hay phủ nhận những ngộ nhận
của họ chỉ có thể khiến tình trạng kích động của họ trở nên trầm trọng mà thôi.
5. Những người mắc
chứng sa sút trí nhớ không thể giao tiếp
Khả năng ngôn ngữ sa
sút thường gắn liền với chứng mất trí nhớ, và bệnh nhân thường gặp khó khăn
trong việc tham gia đối thoại. Tuy nhiên có một số bằng chứng cho thấy bệnh
nhân mất trí nhớ thực sự giữ lại được một số khả năng giao tiếp. Các phương
pháp nói chuyện mà các chuyên gia chăm sóc sức khỏe và người chăm sóc có thể sử
dụng các phương pháp đó để tận dụng mọi khả năng còn lại, chúng đang được
nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học lời nói và ngôn ngữ trị liệu.
Ngay cả khi bệnh nhân
có thể duy trì một cuộc hội thoại, việc giao tiếp với những người bị bệnh sa
sút trí nhớ vẫn có thể là một thách thức. Tuy nhiên, cá nhân người mắc bệnh
thường thật sự biết những gì họ muốn và thông qua quan sát cẩn thận về các kiểu
hành vi, kèm theo duy trì thái độ kiên nhẫn, thì người chăm sóc có thể hiểu
những gì bệnh nhân cần.
6. Không thể tránh
khỏi chứng sa sút trí nhớ khi ta về già
Sa sút trí tuệ phổ
biến nhất ở những người ở độ tuổi trên 65, và nguy cơ mắc bệnh sa sút trí nhớ
tăng lên khi chúng ta càng già đi. Tuy nhiên, quá trình lão hóa đơn thuần không
dẫn một người đến chứng sa sút trí nhớ, và mặc dù không có cách nào chắc chắn
ngăn chặn nó, một chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh có thể giúp ta giảm được
nguy cơ mắc bệnh.
Theo hiệp hội bệnh
Alzheimer, cứ 6 người trên độ tuổi 80 lại có một người mắc chứng sa sút trí
nhớ. Điều đó có nghĩa rằng đa số họ sẽ không mắc chứng sa sút trí nhớ, và hàng
triệu người 80, 90 tuổi không bị tình trạng suy giảm trí nhớ đáng kể nào.
7. Những người mắc
chứng sa sút trí nhớ có tính hung hăng
Chứng sa sút trí nhớ
ảnh hưởng đến con người theo nhiều cách, và không phải ai mắc bệnh này cũng trở
nên hung hãn. Tình trạng nhầm lẫn và thất vọng xuất phát từ việc không có khả
năng giao tiếp hiệu quả hoặc xử lý thông tin, có thể dẫn đến kích động, và
thường xuyên hung hăng là một dấu hiệu cho thấy người mắc bệnh trên đang trải
qua loại khó chịu nào đó.
Thông qua việc nắm bắt
hiểu biết về các triệu chứng của bệnh mất trí nhớ và thấu hiểu được những hoàn
cảnh xung quanh của mỗi trường hợp hành vi hung hăng, người chăm sóc có thể tìm
hiểu được cách đọc các tín hiệu của những bệnh nhân đang cố gắng giao tiếp. Sau
đó, họ sẽ được trang bị tốt hơn để quyết định những gì là sai lầm và sẽ có ý
thức hơn về việc làm thế nào để phản ứng với các dấu hiệu sớm của tính hung hăng,
vì thế mà tình trạng đó không trầm trọng thêm.
8. Rượu vang đỏ giúp
chống lại bệnh sa sút trí nhớ
Một số nghiên cứu dịch
tễ học cho thấy rằng uống rượu vang đỏ ở mức vừa phải liên quan đến tỷ lệ mắc
chứng sa sút trí nhớ thấp hơn. Các chất bảo vệ thần kinh có trong rượu vang đỏ
được cho là có sự xuất hiện của hợp chất polyphenol như là một chất chống oxy
hóa.
Tuy nhiên, bằng chứng
về tác dụng của rượu vang đỏ đã phá bỏ một số hoài nghi, và một số nhà khoa học
cho rằng sẽ không bao giờ có thể uống đủ lượng rượu vang đỏ để cung cấp lượng
chất chống oxy hóa cần thiết nhằm bảo vệ được bạn khỏi căn bệnh trên. Thông tin
đáng chú ý nữa là những người uống quá giới hạn cho phép có nguy cơ gia tăng
mắc chứng mất trí, và nghiện rượu trong thời gian dài có thể dẫn đến tổn thương não.
9. Tiếp xúc với nhôm
gây ra chứng sa sút trí nhớ
Nhôm là kim loại độc
hại có trong môi trường tự nhiên, và hàng ngày con người tiếp xúc với lượng
nhôm vô hại tính theo từng phút được tìm thấy trong nguồn thực phẩm và nước.
Nhiều năm trước đây đã dấy lên nghi ngại rằng việc tiếp xúc với nhôm từ các
nguồn như đồ nấu ăn và đồ uống đóng lon có thể gây ra chứng sa sút trí nhớ.
Người ta tin rằng tin đồn này xuất hiện sau khi có nhiều bệnh nhân lọc máu mắc
bệnh này là vì nhiễm độc nhôm.
Sau đó sự liên quan
giữa nhiễm độc nhôm và bệnh sa sút trí nhớ đã được điều tra kỹ lưỡng. Nhiều kim
loại bao gồm nhôm, xuất hiện tự nhiên trong não, và có bằng chứng cho thấy các
mức của những kim loại này làm trầm trọng một số bệnh thoái hóa thần kinh nhất
định. Đến tận bây giờ, các nghiên cứu đã không đưa ra được bất kỳ bằng chứng
thuyết phục nào ủng hộ quan điểm cho rằng tiếp xúc với nhôm theo bất cứ cách
nào liên quan đến việc mắc bệnh sa sút trí nhớ. Tuy nhiên, nghiên cứu về mối
quan hệ giữa nhôm và chứng bệnh này vẫn đang được tiếp tục tiến hành.
10. Chấn động não gây
nên chứng sau sút trí nhớ về sau
Về tỷ lệ sa sút trí
nhớ ở những người từng là vận động viên thể thao có tin đồn rằng các chấn động
trong quãng đời thời thanh niên có thể dẫn đến việc mất trí nhớ ở tuổi già sau
này. Bằng chứng cho luận điểm này mới chỉ dừng ở việc quan sát chứ hơn là dự
đoán, và chấn thương não nhẹ tái phát được coi là một yếu tố nguy cơ
mắc bệnh độc lập của bệnh sa sút trí nhớ ở tuổi già.
Quan sát cho thấy các
chấn động não mà các vận động viên trẻ từng trải qua có tiềm năng ảnh hưởng đến
nguy cơ mắc chứng mất trí sau này, điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
đảm bảo phục hồi hoàn toàn của từng cá nhân sau chấn động não, và củng cố sự
cần thiết về những quy định nghiêm ngặt trong các môn thể thao.
(Nguồn: Simplysupplements)
No comments:
Post a Comment