Kinh nghiệm kinh tế
1975
Nguyễn Xuân Nghĩa
2018-04-25
2018-04-25
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng
Nguyên Lam xin kính chào chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa. Thưa quý thính
giả, chúng ta lại bước vào cuối Tháng Tư khi nhiều người kỷ niệm biến cố 30
Tháng Tư năm 1975 cho nên Nguyên Lam xin đặt lại biến cố đó vào khung cảnh thời
gian để yêu cầu chuyên gia kinh tế Nguyễn-Xuân Nghĩa nói về hiện tại. Là một
viên chức kinh tế tài chính cao cấp của Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tại Sàigòn
ở trong Nam, ông nghĩ sao về biến cố này?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Có lẽ ta cần nhìn
vào hai trục không gian và thời gian lâu dài thì mới đánh giá cho đúng. Ngược
dòng thời gian, sau khi bị Pháp đô hộ từ năm 1883, khi Đệ nhị Thế chiến kết
thúc năm 1945với sự tan rã của bộ máy thực dân Pháp và sự thất trận của Nhật,
Việt Nam có lại nền độc lập lần đầu tiên với Chính phủ Trần Trọng Kim. Nhưng
vào giai đoạn đầy biến động ấy, chính phủ độc lập đầu tiên kể từ năm 1883 lại
bị lật đổ qua vụ Việt Minh cướp chính quyền vào Tháng Tám 1945. Sau đó, vào năm
1955, Việt Nam lại có nền độc lập trên hai nửa lãnh thổ, là Việt Nam Cộng Hòa ở
trong Nam và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tại miền Bắc. Nhưng 20 năm sau là biến
cố 1975 mà nhiều người đang kỷ niệm. Nói về miền Nam thì nhìn từ lịch sử người
ta có một nền tự do non trẻ tồn tại được 21 năm trước sức ép của miền Bắc cộng
sản và cả khối Cộng Sản quốc tế.
Kinh tế thời Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng Hòa
Nguyên Lam: Thế hệ của Nguyên Lam chưa thể biết hết
những khúc mắc kinh tế vào thời kỳ đó. Là chuyên gia kinh tế, xin ông đánh giá
nền kinh tế của miền Nam trong giai đoạn 1955-1975, gồm Đệ Nhất và Đệ Nhị Cộng
Hòa. Cụ thể là thách thức và thành tựu 20 năm đó là những gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Vì thời lượng có hạn, tôi cố trình bày
ngắn gọn bài toán và các thành quả kinh tế của miền Nam từ năm 1955 đến 1975.
Người ta phải tái thiết và xây dựng lại một nền kinh tế lần đầu tiên có độc lập
ngay trong thời chiến, với hai đợt di cư và di tản vào các năm 1954 và 1972
trên một nền tảng dân chủ còn phôi thai.
Đấy là bài toán thực
tế gây khó khăn cho giới quản lý kinh tế vì phải dung hợp với điều kiện của
nước cấp viện là Mỹ, giải quyết được nạn khan hiếm và lạm phát dễ xảy ra vào
thời chiến mà vẫn tôn trọng tinh thần dân chủ và quy luật thị trường.
-Nguyễn Xuân Nghĩa
-Nguyễn Xuân Nghĩa
- Tôi xin bắt đầu với
nền kinh tế của Đệ nhất Cộng Hòa, từ sau 1954, với các nan đề mà nhiều người
quên rồi. Thứ nhất, phân nửa lãnh thổ trước kia là thuộc địa của Pháp, được
khai thác cho nhu cầu của Pháp, có chừng 15 triệu dân và bộ máy hành chánh do
Pháp để lại, đột nhiên nhận được ít ra hai triệu người di cư từ miền Bắc vào.
Làm sao tổ chức lại nền sản xuất và phân phối ấy? Đã vậy, vài năm sau là miền
Nam lại bị chiến tranh phá hoại và sinh hoạt kinh tế tất nhiên bị cản trở.
- Vậy mà miền Nam vẫn
định cư và khẩn hoang lãnh thổ để bảo đảm cuộc sống cho mọi người trong một nền
kinh tế đang ra khỏi hình thái tập trung của Pháp và hồi phục sau 10 năm chiến
tranh, từ 1945 tới 1955. Nổi bật là kế hoạch Cải cách điền địa năm 1956 và sự
xuất hiện của nền kỹ nghệ nhẹ và dịch vụ, trong khi ít ai biết sự thật bi đát
của việc cải cách ruộng đất tại miền Bắc. Tôi cho rằng đời sau nên nhớ lại việc
miền Nam đã tư hữu hóa cho người dân có phương tiện canh tác riêng, trong tinh
thần có làm thì có hưởng chứ không bị bóc lột. Duy trì được tôn chỉ đó trong
thời chiến là khó.
Nguyên Lam: Bây giờ xin ông chuyển qua bài toán và
thành quả kinh tế của nền Đệ nhị Cộng Hoà từ 1967-1975. Người ta cho là kế sách
đầu tư từ thời Đệ nhất Cộng Hòa đã đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế thị
trường. Qua nền Đệ nhị Cộng Hòa thì cũng là lúc chiến cuộc gia tăng và Hoa Kỳ
đổ quân vào ngày một đông kể từ 1965. Thưa ông, khi ấy bài toán kinh tế của
miền Nam là gì và có những thành tựu gì là đáng nhớ?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Những nan đề và giải pháp của miền Nam
khi ấy là gì?
- Thứ nhất, việc an
ninh bị đe dọa gây vấn đề cho kinh tế vì phá hoại thì dễ, chứ đầu tư sản xuất
và gieo trồng cho một dân số cỡ 18 triệu người mới là khó. Vậy mà vào hoàn cảnh
đó, miền Nam vẫn cố gắng phát triển kinh tế thị trường và hữu sản hóa người
dân. Thứ hai, một thách đố mới là sự hiện diện của quân đội Mỹ, nếu có tạo thẻm
cơ hội kinh tế cho cư dân thành phố thì cũng gây nan đề xã hội và đe dọa khả
năng ổn định kinh tế và vật giá trên toàn quốc. Trong hoàn cảnh ấy, thành tựu
đáng kể nhất của miền Nam là đạo luật Người Cày Có Ruộng ban hành ngày 26 Tháng
Ba năm 1970 và những áp dụng của chương trình Lúa Thần Nông. Đấy là kế hoạch
hữu sản hóa và cải tiến nông nghiệp ngay thời chiến, trên một vùng lãnh thổ
thường xuyên bị phá hoại. Sự thật thì chỉ cần sáu tháng không giao tranh là
Việt Nam đã có thể tự tức về lương thực và một năm sau sẽ là một nước xuất cảng
gạo đáng kể của Đông Nam Á.
Thách đố lớn cho kinh tế trước 1975
Nguyên Lam: Sau năm 1975, chính là thành tựu về canh
nông của miền Nam mới làm dân chúng so sánh và thất vọng với việc hợp tác hóa
nông nghiệp của chế độ mới. Thưa ông, phải chăng vì vậy mà hơn 10 năm sau Việt
Nam mới tìm lại vị thế xuất cảng gạo kể từ 1987?
Nguyễn-Xuân
Nghĩa: - Tôi cho rằng lực đẩy
ấy là kinh tế của miền Nam. Ngoài ra, miền Nam trước 1975 còn nhiều thành tựu
khác về sản xuất kỹ nghệ nhẹ và hàng tiêu thụ và Chính quyền còn muốn giải tư
một số công ty quốc doanh để phát triển tư doanh nữa. Trong khi ấy, ta khó quên
được tình hình chiến sự với vụ Mậu Thân 1968 và nhất là Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972
khiến cả triệu người di tản từ miền Trung vào các thành phố ở trong Nam. Việc
cứu trợ, định cư và kiếm việc làm cho bà con là một thách đố rất lớn.
Sau một thời gian cộng
sản cai trị dài gấp đôi cả hai nền Cộng Hòa ở trong Nam, là điều chưa từng có
trong cả thế kỷ, Việt Nam đã có thay đổi khả quan hơn trên cái trục thời gian.
Nhưng trên cái trục không gian là nếu so với các xứ khác thì Việt Nam vẫn là
nước nghèo và thua các lân bang cùng kích thước.
-Nguyễn Xuân Nghĩa
-Nguyễn Xuân Nghĩa
Nguyên Lam: Thưa ông, Hoa Kỳ có đóng vai trò lớn với
nền Đệ nhị Cộng Hòa ở trong Nam qua hai việc, là đổ quân trực tiếp tham chiến
tại Việt Nam kể từ năm 1965 cho đến 1973; thứ hai là viện trợ kinh tế trong cả
chục năm rồi sau cùng lại cắt cả viện trợ quân sự lẫn kinh tế khiến Việt Nam
Cộng Hòa sụp đổ trước đà tấn công của Bắc Việt, lúc đó được Liên Xô và Trung
Cộng cố vấn và yểm trợ. Vào hoàn cảnh phức tạp đó, giới làm kinh tế trong Nam
phải đối phó và quản lý nền kinh tế như thế nào, và viện trợ Mỹ giúp được gì
và gây ra vấn đề gì?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Có lẽ ta phải làm một chương trình riêng
thì mới nói hết nhược điểm của viện trợ Mỹ như ta thấy ngày nay tại nhiều nơi
có chiến tranh. Về đại thể, viện trợ Mỹ cho miền Nam, chừng 6-700 trăm triệu đô
la một năm, là để bù vào thiếu hụt sản xuất do chiến tranh gây ra, chứ cả hai
nền Cộng hoà đều ý thức nhu cầu tự túc để tự lập chẳng khác gì Đài Loan hay Nam
Hàn. Các chuyên gia kinh tế trong Nam đều cùng trình độ với giới chuyên gia của
hai xứ đó và thường xuyên cộng tác và học hỏi với nhau.
- Thứ hai, Hoa Kỳ là
xứ dân chủ và viện trợ của Hành pháp vẫn do Quốc Hội chấp thuận hàng năm và
kiểm soát theo luật lệ của Mỹ vì quyền lợi của nước Mỹ. Tương tự như trong lãnh
vực quân sự, khi tham gia thì Hoa Kỳ tổ chức lại quân đội của Việt Nam Cộng Hòa
và cũng muốn tổ chức lại hệ thống kinh tế miền Nam theo quy cách của họ. Đấy là
bài toán thực tế gây khó khăn cho giới quản lý kinh tế vì phải dung hợp với
điều kiện của nước cấp viện là Mỹ, giải quyết được nạn khan hiếm và lạm phát dễ
xảy ra vào thời chiến mà vẫn tôn trọng tinh thần dân chủ và quy luật thị
trường.
Nguyên Lam: Chưa kể rằng cộng sản càng tấn công thì
càng đẩy kinh tế miền Nam tới chỗ nương tựa vào viện trợ mà người dân thành phố
lại không biết trong khi chính quyền phải lo cho binh lính, công chức và nông
dân ở mọi nơi. Thưa ông, có phải như vậy không?
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngẫm lại thì ngoài nhiều lý do khác,
miền Nam và Hoa Kỳ không thể thắng được chính là vì nguyên nhân kinh tế. Tôi
xin thu hẹp vào chuyện lúa gạo như một thí dụ. Vì chiến cuộc, miền Nam thiếu
gạo và phải nhập khẩu và trông chờ vào viện trợ Mỹ. Nhưng miền Nam cũng theo
chế độ tự do kinh tế và dân chủ chính trị, nên không thể ban bố tình trạng khẩn
cấp để trưng thu lúa gạo hầu ưu tiên cung cấp cho các đơn vị tác chiến ngoài
tiền tuyến khi ấy đã lan rộng và các chiến binh đang thiếu gạo chứ chẳng thiếu
có súng đạn xăng nhớt. Nếu trưng thu như vậy thì ta hãy tượng tượng ra phản ứng
của báo chí và truyền thông!
- Nếu cưỡng bách công
nhân bốc rỡ gạo cũng là vi phạm quyền tự do đình công và gặp phản ứng chống đối
chính đáng của các nghiệp đoàn. Phải lo gạo cho lính, cho dân, cho thành phố,
phải thu mua tồn trữ và ổn định giá cả trong khi vẫn phát huy vai trò của tư
nhân chứ không thể quốc hữu hóa và lập ra chế độ khẩu phần và tem phiếu được!
Nền kinh tế sau 1975
Nguyên Lam: Bây giờ, Nguyên Lam xin mời kinh tế gia
Nguyễn-Xuân Nghĩa nói về kinh tế Việt Nam sau 1975, nhìn từ một khía cạnh rộng
lớn hơn, bao trùm lên chính trị.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Ngẫm lại thì ta thấy ra ba giai đoạn
của nền kinh tế thống nhất dưới chế độ cộng sản. Thứ nhất là “xây dựng xã hội
chủ nghĩa” với hàm ý cải tạo và xóa bỏ những gì không thuộc chủ nghĩa xã hội,
lại còn lồng vào 10 năm chiếm đóng Kampuchia khiến sản lượng bị mất chừng 5%
mỗi năm. Kết quả là khủng hoảng và lãnh đạo biết là sai, nhưng thế nào là đúng
thì chưa biết, hãy đọc các văn kiện của Đại hội 6 thì chúng ta hiểu. Thứ hai là
năm năm đổi mới có tính tự phát để người dân bung ra làm ăn, từ dưới lên,
là thời 1987-1991. Thứ ba, khi Liên Xô tan rã năm 1991 thì lãnh đạo Việt Nam
ngả theo Bắc Kinh, và đổi mới từ trên xuống theo kiểu Trung Quốc, là nới lỏng
kiếm soát kinh tế mà vẫn tăng cường kiểm soát chính trị trong chế độ gọi là
“trưng thu”. Kết cuộc thì người dân có dễ thở hơn trước, nhưng đảng viên cán bộ
mới làm giàu mạnh trên một xứ gần trăm triệu dân và họ củng cố chế độ vì quyền
lợi của họ.
Nguyên Lam: Nguyên Lam biết là không thể trình bày
hết ngần ấy vấn đề trong một chương trình có hạn, nên xin đề nghị ông tổng kết
qua vài nét chính.
Nguyễn-Xuân Nghĩa: - Sau một thời gian cộng sản cai trị dài
gấp đôi cả hai nền Cộng Hòa ở trong Nam, là điều chưa từng có trong cả thế kỷ,
Việt Nam đã có thay đổi khả quan hơn trên cái trục thời gian. Nhưng trên cái trục
không gian là nếu so với các xứ khác thì Việt Nam vẫn là nước nghèo và thua các
lân bang cùng kích thước. Cụ thể là lợi tức bình quân vẫn còn quá thấp và chưa
ra khỏi trình độ làm gia công cho thiên hạ. Đấy là một lãng phí oan uổng sau
mấy chục năm giết nhau vì ý thức hệ sai lầm.
Nguyên Lam: Ban Việt ngữ đài Á Châu Tự Do cùng Nguyên Lam
xin cảm tạ kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa về bài phân tích kỳ này.
Nguồn: https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/EconomicForum/the-1975-event-04252018070224.html
No comments:
Post a Comment