Kẻ Ném Đá Giấu Tay
29-9-2015
Tôi nhận bài viết của tác gỉa Bùi Anh Trinh vào Sep 14, 2015
nhưng tôi quyết định giữ đến ngày hôm nay. Có thể bài viết đã được đăng trên
online.
—–
VTL September 14, 2015.
* Ngày 29-9 năm nay đã là ngày giỗ thứ 14 của Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu. Cho tới trước khi chết Ông vẫn cúi đầu nhận chịu trách nhiệm đã làm
cho mất nước, một lỗi lầm quá to lớn mà cá nhân một người không thể nào gánh
vác. Nếu có một người nào đó đứng ra nhận chịu thì quả là vô lý, thế nhưng Ông
Nguyễn Văn Thiệu đã làm.
Ⅰ – PHẢI CHĂNG MỸ BỎ RƠI?
Kể từ ngày lập quốc, nước Mỹ thực sự sụp đổ vào năm 1975 với 3
triệu cựu chiến binh tại chiến trường Việt Nam, 58 ngàn người đã chết, và 3.000
quân nhân còn mất tích. Xã hội Mỹ phân hóa trầm trọng với tranh cãi đổ lỗi cho
nhau.
Chính vì vậy mà những người quân nhân VNCH không bao giờ động
chạm tới nỗi đau của người bạn chiến đấu Mỹ, họ đã làm hết sức của họ rồi, họ
đã phải chết tới 58.000 người và đã hao tốn 300 tỉ USD, lại còn phải nuôi 3
triệu cựu chiến binh Mỹ mà người nào cuộc đời cũng tan nát do bị khủng hoảng,
bị thất bại vì không thể trở lại trường để làm lại cuộc đời.
Hai chữ “Bỏ Rơi” là do BBC và RFI dùng để xoa dịu sự oán hận của
người Việt sau khi Mỹ cắt ông tiếp huyết cho VNCH. “Bỏ Rơi Đồng Minh” khác với
“Phản Bội Đồng Minh”. Bỏ Rơi có nghĩa là tôi thích thì tôi giúp, khi thấy mệt
mõi quá thì tôi không giúp nữa. Còn Phản Bội là phỉnh gạt, lừa đảo. Cho nên
người Mỹ muốn nhận là họ Bỏ Rơi VNCH còn hơn là nhận Phản Bội VNCH.
Ⅱ – Frank Snepp, THÁNG 3 NĂM 1973.
Năm 1968 anh sinh viên Frank Snepp quyết định làm đơn xin đầu
quân vào CIA để tránh khỏi phải đi lính và chiến đấu tại VN. Năm 1969 Snepp bắt
đầu làm viêc tại chi nhánh CIA tại Sài Gòn trong tư thế một nhân viên mới vào
nghề. Năm 1971 ông trở về Trung tâm CIA tại Mỹ với nhiệm vụ phân tích những tin
tức thu thập từ báo chí của Bắc Việt.
Đến năm 1972 ông bị đày đi VN vì tội đã báo trực tiếp cho Tòa
Bạch Ốc một thông tin ông đọc được trên báo của Hà Nội mà không qua các xếp lớn
của CIA. Nhiệm vụ lần thứ hai của Frank Snepp tại Việt Nam là đọc báo và nghe
đài phát thanh của CSVN và VNCH để trình cho Polgar, trưởng CIA tại Sài Gòn,
những tin nào mà ông ta thấy đáng quan tâm.
Sau biến cố 1975 Frank Snepp quyết định viết thành sách về những
gì ông chứng kiến trong vai trò một nhân viên CIA làm việc tại VN trong giai
đoạn Hoa Kỳ cuốn cờ ra khỏi Việt Nam. Nhờ đó ông nhanh chóng trở thành nhân
chứng sống duy nhất dám tiết lộ những bí mật mà một nhân viên CIA không được
phép tiết lộ.
CIA đã đưa ông ra tòa vì ông đã hành động trái với lời tuyên thệ
khi ông bước chân vào tổ chức CIA. Tòa án đã phán quyết Frank Snepp không bị
tội tiết lộ bí mật nghiệp vụ nhưng cũng quyết định cho thu hồi quyển sách
“Decent Interval” của Frank Snepp. Tuy nhiên phán quyết này chỉ có hiệu lực
hình thức bởi vì cả thế giới đều đã đọc Decent Interval.
Theo Frank Snepp thì mọi chuyện đều bắt đầu từ khi ký kết Hiệp
Định Paris. Rồi 3 tháng sau khi ký kết Hiệp Định, Tổng Thống Nixon cử Martin
làm đại sứ Mỹ tại VN thay Bunker. Frank Snepp mô tả vai trò của Đại sứ Martin:
“Mỹ buộc phải bỏ khỏi Việt Nam trong tư thế đường hoàng, và muốn tạo được ấn
tượng như vậy thì cần phải có một chuyên gia về ảo thuật và kịch nghệ mà Martin
thuộc vào hạng sư phụ. (Trang 75, nguyên văn: “The United States was obliged to
crawl out of Vietnam standing up, and to foster that illusion required the kind
of conjuring and stagecraft at which Martin so adept”). Như vậy màn kịch bỏ rơi
Việt Nam đã được lên giàn từ tháng 4 năm 1973.
Ⅲ – Nixon THẤT HỨA VỚI Liên Xô, THÁNG 8 NĂM 1974.
Năm 1974 giữa năm, Tổng Thống Mỹ Nixon đệ trình Quốc Hội Mỹ bản
dự thảo hiệp ước giao thương giữa Mỹ và Liên Xô. Đến lúc này Quốc Hội Mỹ mới
biết rằng đây là cái giá mà Nixon đã trả cho việc Liên Xô ngưng cung cấp vũ khí
cho Hà Nội và ép Hà Nội phải ký hiệp ước ngưng bắn 1973. Dĩ nhiên khi đưa ra
trước Quốc hội, Nixon tin rằng sẽ được thông qua dễ dàng vì lợi ích chung của
cả hai nước, nhất là từng bước giải quyết chiến tranh lạnh là điều mà dân chúng
Hoa Kỳ mong chờ.
Tuy nhiên ông đã tính lầm, Quốc Hội Mỹ đoán rằng còn nhiều cái
giá khác nữa giữa Nixon và Liên Xô, Trung Quốc, Hà Nội vào năm 1972. Vì vậy
Quốc Hội bác bỏ thẳng thừng hiệp ước thương mại Xô – Mỹ để buộc Nixon phải lòi
ra những thỏa thuận khác. Dĩ nhiên là Nixon không đưa ra, ông dùng đặc quyền
hành pháp để từ chối.
Vì vậy Quốc Hội có một cách khác để moi ra những gì mà Nixon đã
cam kết với LX, TQ và Hà Nội vào năm 1972; đó là cách lợi dụng vụ Watergate để
triệu tập một Ủy ban điều tra đặc biệt về sai phạm của Nixon trong vụ nghe lén,
nhờ đó công tố viên của ủy ban điều tra có quyền bắt Nixon phải đưa ra tất cả
những cam kết ngầm với Bắc Kinh, Mạc Tư Khoa và cả Hà Nội.
Nixon chỉ còn có cách từ chức để né tránh Ủy ban điều tra bởi vì
ông và Kissinger đã có những thỏa thuận mật với đối phương mà không xin phép
Quốc Hội. Một khi ông từ chức thì những cam kết của ông trở thành vô hiệu lực.
Quốc Hội sẽ không còn cớ để truy xét.
Sau khi Nixon từ chức thì Quốc Hội Hoa Kỳ cho thông qua đạo luật
cấm HK buôn bán với các nước Cộng Sản vào cuối năm 1974 (Đạo luật
Jackson-Vanik). Sự trở mặt của Quốc Hội Mỹ đã khiến Liên Xô tức giận bởi vì
những cam kết của Nixon khi ông ta viếng thăm Liên xô vào năm 1972 đã không
được thi hành. Vì vậy, cuối năm 1974, Đại Tướng Kulikov của Liên Xô đến Hà Nội
để xúi Hà Nội đưa quân đánh chiếm Miền Nam, Liên Xô sẽ cung cấp vũ khí và chiến
phí.
Ⅳ – HÀ NỘI CAY ĐẮNG.
Theo như 7 mục, 23 điều khoản của Hiệp Định Paris thì Hà Nội
ngưng bắn vô điều kiện, trao trả cho Mỹ 591 tù binh Mỹ vô kiện, trao trả tù
binh VNCH để đổi lại VNCH trao trả 28 ngàn tù binh Bắc Việt. Trong khi đó Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu không phải từ chức, 38 ngàn tù chính trị của mặt trận
GPMN vẫn tiếp tục bị giam giữ.
Đặc biệt là “ngưng chiến da beo”, nghĩa là quân đội CSVN vẫn ở
trên rừng và quân đội VNCH kiểm soát thành thị và thôn quê Nam Việt Nam. Biên
giới hai miền Nam Bắc vẫn được tôn trọng theo như Hiệp Định Geneve 1954.
Nhìn bề mặt của Hiệp Định Paris quá vô lý cho nên giới quan sát
quốc tế thừa biết bên trong phải có một mật ước riêng. Quả nhiên sau này vào
năm 1977 Tổng Thống Jimmy Cater của Mỹ xác nhận có một mật ước riêng đằng sau
Hiệp Định Paris được Nixon ký với Hà Nội 4 ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris
1973. Vào tháng 10 năm 1988 Hà Nội cho công bố toàn văn bản mật ước Nixon &
Phạm Văn Đồng.
Theo đó thì Nixon hứa sẽ viện trợ tái thiết cho Bắc Việt 3,25 tỉ
USD và viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội 1,5 tỉ USD. Trong vòng 30 ngày
sau khi người tù binh HK cuối cùng rời khỏi VN thì hai bên sẽ thiết lập xong hệ
thống viện trợ tái thiết, và trong vòng 60 ngày sau đó thì lập xong hệ thống
viện trợ phát triển kinh tế.
Bản mật ước do đích thân Kissinger mang tới Hà Nội cho Phạm Văn
Đồng ký nhận. Từ đó Lê Duẩn ngày đêm trông chờ món tiền của Kissinger và đến
cuối năm 1974, Liên Xô cử tướng Kulikov sang Hà Nội xúi Lê Duẩn đánh chiếm Miền
Nam thì có nghĩa là Hiệp Định Paris coi như tờ giấy lộn. Rốt cuộc Hà Nội biếu
không 591 tù binh Hoa Kỳ mà chẳng nhận được đồng nào, suốt 10 năm chiến đấu
gian khổ, hằng triệu người chết, hằng chục tỉ đô la nợ chiến phí… đến nay chỉ
còn là con số không (sic).
Tướng Kulikov xúi Hà Nội phát động chiến tranh trở lại nhưng Lê
Duẩn và tập đoàn lãnh đạo CSVN thực sự trắng mắt. Dân chúng Miền Bắc đã kiệt
sức, trong 5 năm nhà nước đã đóng cửa tất cả 18 trường đại học và cao đẳng, bòn
vét nhân lực đến độ phải gọi lính ở tuổi 16, tại Miền Bắc chỉ còn một trời đàn
bà góa… thì lấy đâu để gây chiến tranh trở lại.
*(Theo hồi ký của tướng CSVN Hoàng Văn Thái thì cho tới năm 1974
Hà Nội đã động viên đến 16% dân số, không thể nào động viên thêm được nữa.
Trong khi Miền Nam là 5,88%)
Ⅴ – HẾT ĐẠN VÀ HẾT NHIÊN LIỆU.
Bắt đầu từ năm 1975 Đại Tướng Cao Văn Viên viết tường trình cho
Ngũ Giác Đài về những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam nhưng đến năm
1983 mới được in thành sách với tựa đề “The Final Collapse” và hai mươi năm
sau, 2003 The Final Collapse được nhà nghiên cứu sử Nguyễn Kỳ Phong dịch ra
tiếng Việt với tựa đề “Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa”. Trong sách có
kèm theo những chú giải mới nhất của Đại Tướng Cao Văn Viên. “Một sự thực không
thể chối cãi là quân đội VNCH sẽ hết đạn và nhiên liệu vào tháng 6 năm 1975…”
(Tài liệu của Ngũ Giác Đài: Cao Văn Viên, The Final Collapse, bản dịch của
Nguyễn Kỳ Phong trang 136).
Năm 1974 tháng Giêng, theo tài liệu của CIA: “Từ cuối tháng
12-1973 đến đầu tháng Giêng 1974 Tướng John Murray và ban tham mưu của ông đã
làm việc ngày đêm để cố gắng tìm đáp số cho bài toán viện trợ quân sự. Nhưng
mỗi lần họ tìm ra một giải pháp để giải quyết vấn đề thì lại phát sinh một vấn
đề khác mà kết quả cũng chỉ đưa tới bí lối” (Frank Snepp, Decent Interval,
trang 95).
Tướng John Murray là Tư Lệnh cuối cùng của quân đội Hoa Kỳ tại
Nam Việt Nam. Ông đến Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973, sang đầu năm 1974 ông
và Bộ Tham Mưu Hoa Kỳ tại Việt Nam phải tính toán sổ sách về viện trợ quân sự
cho Nam Việt Nam trong nửa cuối 1974 và đầu năm 1975. Tuy nhiên Ngũ Giác Đài đã
cho ông biết trước là có thể dưới 700 triệu đô la nhưng theo các chuyên viên
tham mưu của John Murray thì 700 triệu chỉ đủ giữ được Vùng 4.
Năm 1974 cũng theo Frank Snepp, ngày 16-8 John Murray họp buổi
họp chót với Đại Tướng Cao Văn Viên (Tổng Tham Mưu Trưởng), Tướng Đồng Văn
Khuyên (Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận) và một số tướng lãnh của Bộ TTM.
John Murray khuyên Tướng Viên nên liệu cơm gắp mắm, gấp rút lên kế hoạch sẵn
sàng bỏ Vùng 1, Vùng 2 và cả Vùng 3 để về cố thủ Vùng 4. Tuy nhiên “Tướng Viên
lẫn Tướng Khuyên đều nói rằng lên kế hoạch về quân sự thì được, nhưng về mặt
chính trị thì không thể nào thi hành nổi”. Sau buổi họp này thì John Murray
giải ngũ, trở về Hoa Kỳ.
Năm 1974 tháng 5, theo Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng (Bộ Trưởng Bộ Kế
Hoạch của VNCH) thì ông đã tình cờ trông thấy bản kế hoạch “Cắt Đất Theo Lượng
Viện Trợ” của Murray nằm trên bàn của Tổng Thống Thiệu vào tháng 5 năm 1974,
nghĩa là 2 tháng trước khi Nixon từ chức. Như vậy Murray chính là tác giả của
kế hoạch bỏ Vùng 1, Vùng 2 vào năm 1975, một kế hoạch mà cho tới 40 năm sau
người ta vẫn cho là sáng kiến (tối kiến) của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Sự
thực Tổng Thống đã bị báo chí Mỹ cố tình gieo tiếng oan mà lúc đó Ông không thể
lên tiếng thanh minh.
Năm 1974, ngày 24-12: Theo hồi ký của Đại Tá Phạm Bá Hoa “Ngày
24-12-1974, lúc quân CSVN đang tấn công Phước Long sang ngày thứ 10; một buổi
tiệc mừng Giáng Sinh được Tướng Đồng Văn Khuyên, Tham Mưu Trưởng Bộ Tổng Tham
Mưu, tổ chức trên lầu của Câu lạc Bộ trong BTTM”. Khách tham dự gồm có Tướng
Smith (Chỉ Huy Trưởng cơ quan quân sự HK tại VN; Tướng Quân Y Phạm Hà Thanh;
Tướng Công Binh Nguyễn Văn Chức; Đại Tá Phạm Kỳ Loan (Tổng Cục Phó Tiếp Vận);
Đại Tá Phạm Bá Hoa (Tham Mưu Trưởng Tổng Cục Tiếp Vận); Đại Tá Pelosky (Phụ Tá
của Tướng Smith); Trung Tá Nguyễn Đình Bá (Chánh Văn Phòng của Tướng Khuyên).
Thiếu Tướng Smith tiết lộ rằng: “Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ có kế
hoạch với ngân khoản dự trù hơn 300 triệu đollar để di tản sang Hoa Kỳ khoảng
40 ngàn sĩ quan và gia đình, nhưng thời gian thì chưa rõ” (Phạm Bá Hoa, Đôi
Dòng Ghi Nhớ, Bản in lần 4, trang 264). Khi sách của Phạm Bá Hoa phát hành thì
tất cả các nhân vật trong bữa tiệc đều còn sống mạnh khỏe nhưng không ai phản
đối, kể cả Tướng Smith; chứng tỏ chuyện này hoàn toàn có thật.
Như vậy là kịch bản bỏ rơi Miền Nam đã được lên giàn trước khi
mất Phước Long chứ không phải là sau khi mất Ban Mê Thuột. Người ta đã tính
toán sẵn kế hoạch để cho VNCH sụp đổ trước tháng 6 năm 1975, kể cả ước tính trước
ngân sách chi dụng cho kế hoạch.
Năm 1975, ngày 7-1: Phản ứng của Mỹ sau khi mất Phước Long là:
“Nhà Trắng nói rằng: Tổng Thống Ford không có ý vi phạm những điều cấm chỉ (của
Quốc Hội) về việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam” (Hồi ký của Tướng
CSVN Hoàng Văn Thái, trang 161). Khi vừa nghe tin này Phạm Văn Đồng tuyên bố:
“Cho kẹo quân Mỹ cũng không dám trở lại VN”(trang 146).
Ngay sau khi nhận được tin, Lê Duẩn chỉ thị cho Đại Tướng Tổng
Tham Mưu Trưởng Hoàng Văn Thái lên kế hoạch tiến chiếm miền Nam: “Một tháng sau
chiến thắng Phước Long, ngày 5 tháng 2, anh Văn Tiến Dũng lên đường vào Tây
Nguyên” (Hoàng Văn Thái, trang 172).
Ngày đó cơ quan USIS của CIA tung tin quân VNCH thua tại Phước
Long là do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cố tình bỏ Phước Long để thử xem phản
ứng của Mỹ. Sở dĩ CIA đổ cho Nguyễn Văn Thiệu là để Quốc Hội Mỹ có cớ biểu
quyết ngưng viện trợ quân sự cho VNCH.
Ⅵ – Và TÌNH HÌNH THỰC SỰ VÀO THÁNG 3
NĂM 1975:
-Tuần đầu của tháng 3 năm 1975. Trong một cuộc họp đầu tuần của
Bộ Ngoại Giao HK, Kissinger đã giải thích hành động viện trợ “Lấy Có” cho Cam
Bốt: “Chính Phủ Lon Nol đang trên đà sụp đổ, đây là nguyên do chính khiến chúng
ta phải tiếp tục viện trợ để cho sau này không ai có thể trách chúng ta vô
trách nhiệm”. (Frank Snepp, Decent Interval, trang 175). *(Nguyên văn: “…he
say, the Lon Nol Government was on the brink of collapse, it was essential to
keep open the aid pipeline so no one could later blame the United States for
the disaster”).
– Ngày 7-3-1975, Kissinger chỉ thị cho các viên chức Ngoại Giao
HK trước khi ông ta lên đường đi Trung Đông: “Hãy làm mọi cách để Quốc Hội tiếp
tục duy trì viện trợ (Lấy Có) cho Cam Bốt và Việt Nam. Không phải để cứu vãn
hai nước đó, mà vì không thể nào cứu vãn được hai nước đó” (Frank Snepp, Decent
Interval trang 176). *(Nguyên Văn: Do every thing possible to ensure that
Congress lived up our aid commitments to Cambodia and Vietnam- not because the
two countries were necessarily salvageable, but precisely because they might
not be).
Hai ngày sau khi Kissinger nói câu này thì Văn Tiến Dũng ra lệnh
tấn công Ban Mê Thuột.
Kissinger không muốn thiên hạ nghĩ rằng Việt Nam sụp đổ do không
còn viện trợ. Và với mức độ viện trợ nhỏ giọt thì đến ngày 30-6-1975 quân đội
VNCH sẽ không còn Gạo và không còn Đạn (Tài Liệu The Final Collapse của Đại
Tướng Cao Văn Viên). Vì thế Kissinger mong cho Quân đội VNCH tự tan rã trước
khi hết Gạo và Đạn trước tháng Sáu năm 1975. Lúc đó thiên hạ sẽ nghĩ rằng Quân
Đội Sài Gòn đã thua chạy trước sức tiến công vũ bão của quân Hà Nội.
Ⅶ – THẾ BẮT BUỘC của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu.
Năm 1975 ngày 11-3, một ngày sau khi mất Ban Mê Thuột. Theo Đại
Tướng Cao Văn Viên “Ngày 11-3 Tổng Thống Thiệu mời các Tướng Khiêm, Viên, Quang
ăn sáng tại Dinh Độc Lập và sau đó trình bày ý định muốn cắt bỏ bớt lãnh thổ
cho vừa với mức viện trợ quân sự của HK vào năm 1975”. Tướng Viên ghi lại cảm
nghĩ của ông lúc đó: “Quyết định của Tổng Thống Thiệu cho chúng tôi thấy đây là
một quyết định ông đã suy xét thận trọng. Hình như Tổng Thống Thiệu đã ngần
ngại về quyết định đó, và bây giờ ông chỉ thổ lộ cho ba người chúng tôi trong
bữa ăn sáng…”
*“… Tổng Thống Thiệu phác họa sơ: …Một vài phần đất quan trọng
đang bị Cộng Sản chiếm, chúng ta sẽ cố gắng lấy lại bằng mọi gía…Ban Mê Thuột
quan trọng hơn hai tỉnh Kontum và Pleiku nhập lại…” (Cao Văn Viên, The Final
Collapse, bản dịch của Nguyễn Kỳ Phong, trang 129-131).
“Ngay sau khi Phước Long bị tấn công, Hoa Kỳ không có một phản
ứng nào … . Một thực tế gần như hiển nhiên là Hoa Kỳ không muốn cuộc chiến tiếp
tục và biểu quyết viện trợ để VNCH đánh tiếp là chuyện sẽ không xảy ra. Đối với
Hoa Kỳ cuộc chiến Việt Nam đã kết thúc” (trang 132).
Các đoạn trích dẫn trên đây đã giải thích vì sao Tổng Thống
Thiệu phải bỏ Vùng 1 cũng như Vùng 2. Và vì sao Tướng Viên không nhiệt tình
tham gia kế hoạch của Tướng Thiệu.
Cuối cùng, sau 30-4-1975 Mỹ mở chiến dịch đổ tội làm mất nước
cho Tổng Thống Thiệu để cho người ta không oán hận Mỹ đã bỏ rơi VNCH. Giờ đây
đã 40 năm trôi qua, nếu người Mỹ không lên tiếng giải oan cho Tổng Thống Nguyễn
Văn Thiệu, thì cũng nên trả lại sự thật cho lịch sử.
+*+*+*+
+*+*+*+
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
Chào các bạn,
Tiếp theo quyển
==>>"Đôi Dòng Ghi Nhớ" kể lại một góc của VNCH trong giai
đoạn 1963 - 1975, hôm nay gởi tặng các Bạn quyển "Sau Ngày
Sụp Đổ" (hay là Ký Sự Trong Tù) kể chuyện trong tù 1975 - 1987 và
trong những năm (1988-1990) chờ sang Hoa Kỳ trong đợt HO 5 vào cuối tháng
3/1991, cũng dưới dạng Audio MP3 trong Link màu tím bên dưới. Còn Link màu xanh cũng
là quyển "Sau Ngày Sụp Đổ" nhưng là sách để đọc.
Xin chúc nhau sức khỏe.
Phạm Bá Hoa.
http://www.chinhnghiavietnamconghoa.com/HoiKyButKy/KySuTrongTu-PhamBaHoa-TacGiaDienDoc/index.html
https://drive.google.com/file/d/0B5d-vAkAHNPNQzZhZXdfUnJ2STA/view
https://drive.google.com/file/d/0B5d-vAkAHNPNQzZhZXdfUnJ2STA/view
Nhận được qua email
No comments:
Post a Comment