Cựu Tổng
trưởng Hoàng Đức Nhã: Đồng minh bội ước
Nam Nguyên,
phóng viên RFA
2015-04-09
2015-04-09
Cuộc
chiến ý thức hệ quốc-cộng ở Việt Nam kết thúc ngày 30/4/1975 với sự chiến thắng
của miền bắc cộng sản. Tại sao chế độ VNCH đã đứng vững 21 năm lại nhanh chóng sụp
đổ như vậy. Nhân đánh dấu 40 năm ngày chiến tranh Việt Nam kết thúc, Nam Nguyên
phỏng vấn ông Hoàng Đức Nhã, cựu tổng trưởng Dân vận Chiêu hồi, cựu bí thư Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu để tìm hiểu một số khía cạnh liên quan. Ông Hoàng Đức
Nhã 73 tuổi hiện cư trú tại Chicago tiểu bang Illinois Hoa Kỳ.
Nam
Nguyên:
Cảm ơn ông Hoàng Đức Nhã đồng ý trả lời phỏng vấn của Đài RFA. Thưa ông
sau 40 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam, nhiều tài liệu của Chính phủ Hoa Kỳ
đã được giải mật cho thấy Hoa Kỳ đã có ý định không can thiệp vào VNCH nữa từ
rất sớm và có mục đích chỉ là để rút lui an toàn. Là người thân cận của Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu, ông nhận định gì khi có ý kiến cho là các nhà lãnh đạo
và toàn bộ chế độ VNCH bị động, không chuẩn bị việc tự lực cánh sinh hay phải
sớm tìm kiếm một con đường khác để VNCH có thể tồn tại.
Ông
Hoàng Đức Nhã:
Chính quyền của Tổng thống Thiệu lúc đó hiểu rõ mục đích của Tổng thống Nixon,
khi ông ta bắt đầu chính sách gọi là “Việt Nam hóa” có nghĩa là Hoa Kỳ rút và
hứa sẽ giúp VNCH trên phương diện quân sự và kinh tế để bảo tồn toàn vẹn lãnh
thổ và xây dựng đất nước. Nói chính quyền VNCH lúc đó bị động là hoàn toàn sai,
vì mình đã có rất nhiều thành quả. Những người viết sách về Việt Nam không hề
đề cập tới khía cạnh này, Đệ nhị Cộng hòa một mặt chống lại xâm lăng Bắc Việt,
một mặt xây dựng đất nước, tạo dựng một chế độ pháp trị có quyền tự do cá nhân.
Khi tôi đề cập điểm đó cũng là để nói lên là khi chúng ta chống Bắc việt và
người đồng minh dần dần rút đi, họ tìm cách thương thuyết và ký kết một hiệp
định trên đầu chúng ta, cũng như người Pháp đã làm hồi 1954… lúc đó chính quyền
Đệ nhị Cộng hòa quyết định ngồi vào và tìm đủ mọi cách để tạo những điều kiện
tối thiểu để chúng ta tiếp tục cuộc tranh đấu để bảo vệ và phát triển đất nước.
Nam
Nguyên:
Nhưng VNCH không còn nguồn viện trợ nữa, đạn dược vào tháng 3/1975 như Đại
tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên có nói là chỉ còn đủ dùng 30 ngày. Tại
nhiều bệnh viện vào lúc đó đến bông băng cũng phải giặt đi xài lại…không có
viện trợ…người ta nói bị động là không tìm nguồn viện trợ thay thế mà phải
chuẩn bị rất là lâu dài mới có thể đương cự được với làn sóng quân cộng sản
được Liên Xô, Trung Cộng hỗ trợ rất nhiều và họ đã đánh xuống. Họ nói bị động
là như vậy, xin ông có thể làm rõ chỗ này?
Tôi
muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris 27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự
sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp
đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước
Ông
Hoàng Đức Nhã:
Khi mà chúng ta biết Hoa Kỳ đã rút lui, người đồng minh chính đã tài trợ cho
chúng ta và giúp chúng ta rất nhiều. Khi VNCH thấy cần thêm, mình đã gởi mấy
phái đoàn đi cầu viện ở mấy quốc gia khác, nhưng không có quốc gia nào thậm chí
đến mấy quốc gia đông nam á chỉ nói mồm thôi không bao giờ cho viện trợ quân
sự, viện trợ kinh tế không có bao nhiêu, trong khi Liên Xô Trung Cộng giúp đỡ
Bắc Việt tích cực. Đó là một thực trạng mà chính quyền VNCH phải đối phó. Ngay
cả đối với Hoa Kỳ lúc đó mình biết là không còn sự viện trợ như mấy năm trước.
Chúng ta cũng đã đề nghị xin vay, nhưng lúc đó người Hoa Kỳ nhất là chính quyền
Nixon bị bối rối và Quốc Hội dưới quyền kiểm soát của Đảng Dân Chủ muốn tránh,
muốn chấm dứt các đợt viện trợ.
Nam
Nguyên:
Hiệp định Paris 27/1/1973 được cho là một tiền đề dẫn tới việc sụp đổ của Nam
Việt Nam. Theo ông và trong vai trò của mình là người thân cận của Tổng thống,
Bí thư Tổng thống và cựu Tổng trưởng nữa thì ông nghĩ là VNCH sẽ phải đối phó
như thế nào, chúng ta đã rút được bài học vừa qua. Tổng thống cũng có nói vào
năm 1990 là vì bị lệ thuộc viện trợ mà cuối cùng phải ngồi vào bàn hội đàm. Giả
dụ bây giờ lịch sử lập lại, ông nghĩ là VNCH có thể làm gì khác?
Ông
Hoàng Đức Nhã:
Câu hỏi này rất quan trọng đấy, tôi muốn nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris
27/1/1973 không phải là tiền đề đưa tới sự sụp đổ của VNCH. Đó là một căn bản
để cho người Mỹ rút quân và VNCH với sự giúp đỡ của người Mỹ tiếp tục công cuộc
bảo vệ và xây dựng đất nước. Giả sử mình trong hoàn cảnh lúc đó từ 69 đến 73 và
phải ký Hiệp định, thì sẽ phải làm như thế nào? lúc đó mình đâu có thể nào nói
với đồng minh là ông tìm cách thương thuyết trên đầu của chúng tôi. Mình đâu
thể nói vậy, cũng như anh ra trận đá banh rồi anh nói thôi tôi không chơi nữa
vì không thích cái luật lệ, rồi mình lấy trái banh và đi về. Mình phải tiếp tục
ngồi vào và tranh đấu để đừng có những điều kiện quá xấu cho tương lai đất
nước. Thành thử lúc đó hành động của chính phủ VNCH, với sự hỗ trợ của
tất cả cơ quan lập pháp hiến định, đã tìm mọi cách để đừng có chấp nhận một
hiệp định coi như là đầu hàng.
Nói
rằng mình sẽ phải làm như thế nào khác. Lúc đó mình biết rằng phải tự lực cánh
sinh, phải củng cố. Lúc đó biết rằng tới giai đoạn phải đấu tranh chính trị với
cộng sản để thực thi hiệp định, nó có những điều khoản là hai bên phải gặp nhau
để nói về tương lai chính trị. Lúc đó VNCH cũng đã cho tất cả các đảng phái
quốc gia biết thực trạng đó để chuẩn bị. Đó là điểm thứ hai riêng về chính trị.
Điểm thứ ba về xây dựng kinh tế và xây dựng đất nước, mình có rất nhiều chương
trình phát triển nông thôn có nhiều thành quả dân trí ấm no phồn thịnh. Nhưng
mà những điều đó không ai nói đến, người ta cứ nhìn vấn đề Việt Nam và cho là
mình không có làm gì cả, theo tôi đó là sự sai lầm lớn.
Có
thể nói là nỗi lòng của mình là quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên
phương diện chính trị khi một người Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao
lại không tin
Ông Hoàng Đức Nhã
Nam
Nguyên:
Nhưng thưa ông thực trạng lúc đó là không có tiền nữa, không có tiềm lực kinh tế,
quân sự súng đạn không có nữa. Ngay Tổng thống lúc đó cũng nhìn nhận là viện
trợ giảm đi rất nhanh và rồi thì những mật ước của Tổng thống Nixon… nó chỉ là
mật ước trên phương diện pháp lý không có giá trị, có thể nói cũng chỉ là để
đánh lừa thôi?
Ông
Hoàng Đức Nhã:
Cái thực trạng lúc đó là một người đồng minh sau khi hứa mà bội hứa, mình không
thể thay đổi thực trạng đó được. Như tôi đã nói mình đã gởi các phái đoàn đi
cầu viện các quốc gia khác, thậm chí đến các nước Trung Đông như là vương quốc
Saudi Arabia chẳng hạn. Tuy nhiên cái việc có thể nói là nỗi lòng của mình là
quá tin tưởng người đồng minh; thật sự trên phương diện chính trị khi một người
Tổng thống của một cường quốc hứa thì sao lại không tin. Nhưng mà sau này các
tài liệu giải mật cho thấy là vì Hiệp định Paris không được Quốc hội Hoa Kỳ phê
chuẩn nên Quốc hội không bị ràng buộc theo điều khoản của Hiệp định. Đó là thực
trạng mà mình không thay đổi được và VNCH tiếp tục chiến đấu đến khi không còn
súng đạn.
Nam
Nguyên:
40 năm sau khi chấm dứt chiến tranh, ông nghĩ gì về nước Việt Nam hiện tại và
khả năng về con đường dân chủ sắp tới?
Ông
Hoàng Đức Nhã:
Tôi không có hy vọng chế độ cộng sản ở Việt Nam thực thi nền dân chủ đúng như ý
nghĩa của chữ dân chủ. Thứ nhất khi mà độc đảng thì làm sao mà có dân chủ được.
Điểm thứ nhì, tự do căn bản của con người không được tôn trọng và điểm thứ ba,
hố sâu giữa người giàu giữa con ông cháu cha của chế độ và người nghèo nó quá
sâu. Từ 1975 tới giờ tôi chưa về Việt Nam nên không có những dữ kiện chính
xác. Tuy nhiên bao nhiêu thống kê của ngân hàng quốc tế, những cơ quan quốc tế
cho thấy rõ sự xung đột giữa mức sống và sự phát triển cần thiết của nhân dân
mà theo tôi là chưa có được. Dĩ nhiên khi chưa có dân chủ thì không thể san
bằng hố sâu giàu nghèo. Cá nhân tôi không thấy dân chủ trong tương lai, ít nhất
trong cuộc đời của tôi.
Nam
Nguyên:
Thưa ông nhiều người đã viết hồi ký, thí dụ ông Nguyễn Tiến Hưng. Về phần ông
cũng là một nhân vật của lịch sử, đóng góp rất nhiều vào Đệ nhị Cộng hòa, xin
hỏi là ông có định xuất bản hồi ký của mình hay không?
Nguồn: http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/exclu-interw-vn-formr-minis-04092015061915.html
No comments:
Post a Comment