Bất cứ việc gì cứ rập khuôn theo VNCH sẽ thành công thôi! Âm nhạc cũng vậy! Phải rập theo nhạc vàng sẽ được "tỏa sáng"! Chứ âm nhạc mà cứ như nhạc đỏ thì chó nghe nó cũng tru lên phản đối huống hồ là người!
Nhạc Vàng và Bên
Thắng Cuộc!
Nhạc
vàng: Bên thắng cuộc
Quán
nửa khuya đèn mờ theo hơi khói…
Câu hát
đầu trong bài “Quán nửa khuya”của Tuấn Khanh & Hoài Linh, sáng tác năm
1961.
Đuốc
lồ ô bập bùng bên ánh lửa…
Câu hát
đầu trong bài “Tiếng chày trên sóc Bom-Bo” của Xuân Hồng, ra đời năm 1966.
Người
nghe nhạc tinh ý dễ nhận ra hai câu nhạc giống nhau trong hai bài nhạc cùng hợp
âm Mi thứ. Nếu có khác, bài “Quán nửa khuya” ghi thể điệu boléro, bài “Tiếng
chày trên sóc Bom-Bo” ghi “Nhịp nhàng, rộn rã”.
Nhạc sĩ
Tuấn Khanh, khi nhắc đến sự giống nhau của hai câu nhạc này, chỉ mỉm cười, lắc
lắc đầu. Cái lắc lắc đầu, mỉm cười của ông cho thấy, “nhạc đỏ” có khuynh hướng
theo chân “nhạc vàng boléro” từ nhiều năm trước chứ không phải đợi tới bây giờ.
Nhạc
đỏ, buồn ơi chào mi!
Cũng
không phải đợi tới bây giờ mà nhiều người yêu nhạc ở miền Bắc đã biết yêu, biết
tìm đến “nhạc vàng”miền Nam từ lâu lắm. Câu chuyện về Lộc “vàng”, chàng trai Hà
Nội thời chiến vì trót yêu nhạc vàng mà phải trả giá đến gần 10 năm tù tội.
Điều khá chua xót là ngày ra tù, trong lúc lang thang trên phố, tiếng nhạc vọng
ra từ những quán xá bên đường mà anh nghe được lại chính là những bản “nhạc
vàng”đồi trụy, phản động đã đưa anh vào ngục tù, chôn vùi cả một thời tuổi trẻ.
Câu chuyện Lộc “vàng”là câu chuyện của người dám sống và chết cho nhạc vàng,
nhất định chỉ yêu nhạc vàng chứ không yêu nhạc đỏ.
“Nhạc
vàng”, cái “từ” nàyở đâu ra và có nghĩa gì? Trước năm 1975, nhạc Việt không có
màu mè xanh, đỏ, tím, vàng chi cả. Danh từ “nhạc vàng”cũng ít được sử dụng.
Nhiều lắm chỉ có ban Nhạc Vàng của Đài truyền hình Sài Gòn do nhạc Phó Quốc Lân
phụ trách. “Nhạc vàng”trong chương trình ca nhạc này chỉ mang ý nghĩa những bài
nhạc hay, được tuyển chọn cho chương trình này. Trong khi đó, miền Bắc gọi
chung nhạc Việt miền Nam là “nhạc vàng”, được dán nhãn chính trị là nhạc “ru
ngủ”, “đồi trụy”và “phản động”.
Trong khi
đó, “nhạc đỏ”chính thức xâm nhập miền Nam Việt Nam kể từ ngày 30 tháng Tư năm
1975. Đâu đâu cũng trông thấy cờ xí ngờm ngợp và những biểu ngữ đỏ chói giăng
đầy đường phố, đâu đâu cũng nghe thấy vang vang những bài hát “cách mạng” nhịp
quân hành rầm rập, trong lúc loa phóng thanh liên tục mở hết cỡ phát đi những
khẩu hiệu ròn rã về “chiến công vĩ đại”, “cuộc kháng chiến thần thánh”, “đỉnh
cao chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc”…
Ít năm
sau đó, nhạc đỏ vẫn liên tục tra tấn đôi tai người dân tội tình từ những chiếc
loa phường treo máng trên những cột điện dây nhợ lằng nhằng. Vẫn là điệu nhạc
rất “đặc trưng”, nếu không rầm rập như bị ma đuổi thì cũng ồm ồm hay riu ríu,
lơ lớ tiếng Việt, thoạt mới nghe tưởng nhạc cách mạng… Tàu, đại để “Cô gái vót
chông”, “Cô gái mở đường”, “Cô gái Sài Gòn đi tải đạn”, “Chào em cô gái Lam
Hồng”, “Tiếng hát giữa rừng Pác Bó”, “Trường Sơn đông, Trường Sơn tây”, “Gặp
nhau trên đỉnh Trường Sơn”…
Hát mãi,
nghe mãi kiểu nhạc này thì cũng…chán, những tay chơi nhạc trong “phong trào văn
nghệ quần chúng” bèn ngồi lại với nhau, bàn bạc và lập ra những nhóm đàn hát ở
phường, xã, các xí nghiệp… gọi tên là “Nhóm ca khúc chính trị” theo mô hình phổ
biến của các nhóm nhạc nhẹ ở Liên Xô và Đông Âu. Các tiết mục, bài bản thường
là tự sáng tác, tự trình diễn, gọi là “tự biên, tự diễn”. Có thể kể ra ít “nhóm
ca khúc chính trị” quen tên như Mây Trắng, Rạng Đông, Đại Dương, Hải Âu, Phù
Sa, Bách Việt, Dây Leo Xanh… và một số ca khúc được quần chúng đón nhận, yêu
thích thời ấy như “Những lời em hát” (Từ Huy), “Ơi cuộc sống mến thương”, “Đi
qua vùng cỏ non” (Trần Long Ẩn), “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện),
“Em như tia nắng mặt trời” (Nguyễn Đức Trung)…
Các “nhóm
ca khúc chính trị” của thập niên 1980’s ấy là gạch nối dẫn đến sự nở rộ của các
tụ điểm ca nhạc thu hút lượng người xem ngày càng đông. Có thể kể tên những tụ
điểm quen thuộc ở Sài Gòn như sân khấu 126, Lan Anh, Trống Đồng, Đầm Sen, nhà
hát Thành Phố, nhà hát Hòa Bình…
Từ các tụ
điểm, phòng trà này, nhiều ca khúc dễ nghe và có giai điệu rất gần với “nhạc
vàng” của miền Nam lần lượt ra đời, như “Ngõ vắng xôn xao” (Trần Quang Huy), “Nha
Trang mùa thu lại về” (Văn Ký), “Hoa sữa” (Hồng Đăng), “Một đời người, một rừng
cây” (Trần Long Ẩn), “Em ơi, Hà Nội phố” (Phú Quang), “Hà Nội mùa vắng những
cơn mưa” (Trương Quý Hải & Bùi Thanh Tuấn)… Ngay đến cách đặt tựa bài hát
cũng mang phong cách “nhạc vàng”, như “Đêm thành phố đầy sao” (Trần Long Ẩn),
“Con đường có lá me bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), “Lời tỏ tình của
mùa xuân”, “Này người yêu nhỏ xinh” (Nguyễn Ngọc Thiện), “Giọt nắng bên thềm”
(Thanh Tùng), “Thơ tình cuối mùa thu” (Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh), “Ở
hai đầu nỗi nhớ” (Phan Huỳnh Điểu & Trần Đình Chính) , “Thành phố, tình yêu
và nỗi nhớ (Phạm Minh Tuấn & Nguyễn Nhật Ánh)…
Và người
ta bắt đầu được nghe những bài hát về tình yêu đôi lứa với điệu nhạc lời ca
tình tứ, lãng mạn, được kể là “hàng hiếm” thời bấy giờ.
Con
đường có lá me bay
Chiều
chiều ta lại cầm tay nhau về…
(“Con
đường có lá me bay”, Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền)
Những
ngày không gặp nhau
Biển
bạc đầu thương nhớ
Những
ngày không gặp nhau
Lòng
thuyền đau rạn vỡ
Nếu
từ giã thuyền rồi
biển
chỉ còn sóng vỗ
Nếu
phải cách xa em
anh
chỉ còn bão tố…
(“Thuyền
và biển”, Phan Huỳnh Điểu & Xuân Quỳnh)
Một dạng
“nhạc vàng” mới đã đi vào quần chúng yêu nhạc từ lúc nào.
Nhạc
vàng, thời hoàng kim của Boléro
Trên sân
khấu các tụ điểm văn nghệ ấy thỉnh thoảng có sự góp mặt của các ca sĩ miền Nam
được yêu chuộng một thời, là những giọng hát luôn ăn khách, thu hút lượng khán
giả đông đảo, như Duy Khánh hát “Tự nguyện” (Trương Quốc Khánh), Nhật Trường
hát “Hương thầm” (Vũ Hoàng & Phan Thị Thanh Nhàn), Anh Khoa hát “Trị An âm
vang mùa xuân” (Tôn Thất Lập)… Cũng phải kể thêm các giọng hát quen thuộc còn ở
lại trong nước, như Lệ Thu hát “Hà Nội niềm tin và hy vọng” (Phan Nhân), Thanh
Lan hát “Đi qua vùng cỏ non” (Trần Long Ẩn), Lan Ngọc hát “Con đường có lá me
bay” (Hoàng Hiệp & Diệp Minh Tuyền), Họa Mi hát “Quảng Bình quê ta ơi!”
(Hoàng Vân)… nghe được qua những băng nhạc, đài phát thanh, phát hình.
Thường
thì các ca sĩ này chọn hát những bài có nội dung “vô thưởng vô phạt” và nhạc điệu
gần gần với nhạc miền Nam.
Cứ thế,
cùng với những lần xét duyệt nhỏ giọt cho phép phổ biến những bài nhạc của miền
Nam trước năm 1975, nhạc vàng lần lần đi vào sinh hoạt ca nhạc trong nước, lần
lần đẩy lùi nhạc đỏ ra khỏi các sân khấu trình diễn. Nhạc đỏ, nếu không biến
mất thì cũng mờ nhạt, họa hoằn lắm được các “nghệ sĩ nhân dân ưu tú” biểu diễn
trong những hoạt động chào mừng các ngày lễ lớn và sự kiện lịch sử của nhà nước
cộng sản Việt Nam.
Nhạc
vàng, đến một lúc nào đó, không đợi nhà cầm quyền cho phép, trình diễn vô tư và
tràn lan trên các sân khấu ca nhạc ở cả hai miền Nam Bắc.
Những cố
gắng để cấm đoán, ngăn chận sự xâm nhập của nhạc vàng miền Nam chỉ là những cố
gắng vô ích và tuyệt vọng. Lạ một điều, bài nhạc nào càng bị cấm đoán thì càng
được người yêu nhạc tìm nghe. Người dân tự ý lựa chọn những món ăn tinh thần
nào mình yêu thích, hợp khẩu vị.
Không
ngạc nhiên chút nào khi mới đây, vào tháng 2/2019, lần đầu tiên kể từ ngày
“giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước”, nhà nước cộng sản ra nghị định
chính thức “bỏ quy định cấp phép ca khúc trước 1975”. Nghị định này được Cục
Nghệ thuật Biểu diễn giải thích như sau:
“Bỏ cấp
phép cho ca khúc nghĩa là ca khúc sáng tác ở thời gian, không gian nào cũng
bình đẳng như nhau, không có khoanh vùng đặc biệt để cấp phép. Trước hay sau
1975 đều như nhau.”
Lời giải
thích “có lý, có tình” này (tiếc rằng chỉ đến sau 44 năm) chỉ như hợp thức hóa
một sự đã rồi.
“Thánh nữ Boléro” Jang Mi
Nghị định
mở rộng cửa chào đón âm nhạc miền Nam trước năm 1975, cùng với sự tán thưởng nồng
nhiệt của giới yêu nhạc trong nước dành cho các ca sĩ tên tuổi miền Nam từ hải
ngoại về nước trình diễn, đánh dấu sự ra đi không hẹn ngày về của dòng “nhạc
cách mạng” hay “nhạc đỏ”, cho dù có là “nhạc đỏ trữ tình”.
Đến đây
không thể không nói tới sự lên ngôi của “dòng nhạc trữ tình Boléro”, nổi lên
như một hiện tượng lạ, tạo cơn lốc cuồng nhiệt, thống lĩnh mọi sinh hoạt văn
hóa văn nghệ trong nước. Những bài hát thể điệu Boléro xập xình, tiết tấu chậm
rãi, giai điệu luyến láy mùi mẫn, nhịp điệu kể lể, tự tình nỉ non, đi cùng lời
ca dễ hiểu, vừa dễ hát dễ nghe lại dễ đệm đàn với nhạc cụ thông dụng là chiếc
guitar thùng.
Nhạc
Boléro, vốn được xem là thể loại nhạc bình dân, đại chúng ở miền Nam, như thế
có đến hai đời sống, cách nhau đến gần nửa thế kỷ.
Nhiều bài
Boléro mà người miền Nam xếp vào dòng nhạc hoài niệm thì nay lại được người
miền Bắc và cả nước “phấn khởi hồ hởi” vực dậy, nâng niu, đắm đuối, gọi là
“tình khúc boléro”, “tuyệt phẩm boléro”. Nhiều ca sĩ “chuyên trị” boléro được
phong tặng những danh hiệu nổi đình nổi đám như “Nữ hoàng boléro” (những Lệ
Quyên, Bảo Yến, Thanh Tuyền, Giao Linh, Hương Lan…), “Ông hoàng boléro” (những
Chế Linh, Tuấn Vũ, Ngọc Sơn…), “Thánh nữ boléro” (Jang Mi), “Ngọc nữ boléro”
(Phương Anh), “Thần tượng boléro” và cả những “Thần đồng boléro”. Nhạc vàng
boléro đã hoàn toàn chinh phục giới yêu nhạc trong nước. Những thần tượng
boléro đã mê hoặc, hớp hồn bao nhiêu là tín đồ… boléro.
“Đó là
một loại âm nhạc có đẳng cấp,” ca sĩ Ánh Tuyết ở trong nước khẳng định khi nói
về những “tình khúc boléro”. Cô nói thêm, “Âm nhạc không có chuyện sang, sến mà
chỉ có hay hoặc dở.”
“Ông
hoàng boléro” Chế Linh tiếp lời, “Nếu âm nhạc là lời nói cất lên từ trái tim
thì Boléro chính là tiếng nói tình cảm nhất. Nó chan chứa, không bóng bẩy, đi thẳng
vào lòng người nghe.”
Chung
cuộc, nhạc vàng của người miền Nam, với thời hoàng kim của boléro, đã giải
phóng người dân miền Bắc thoát khỏi sự thống trị của nhạc đỏ trong sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ trong suốt bao nhiêu năm, để giành quyền tự do suy nghĩ, bày
tỏ cảm xúc, tâm tư tình cảm. Điều này thật ý nghĩa, vì đấy chính là quyền tự do
tư tưởng, là một trong những quyền tự do căn bản nhất của con người.
Nếu quả
“Âm nhạc có thể làm thay đổi thế giới vì nó thay đổi được con người” (Music
can change the world because it can change people. – Bono) thì
chúng ta có lý do để tin rằng, sự thay đổi về khuynh hướng và quan niệm thẩm mỹ
trong âm nhạc, nghệ thuật của người dân Việt sẽ ít nhiều tác động và dẫn đến
những đổi thay toàn diện về văn hóa, xã hội, chính trị cho đất nước mình. Sự
thắng thế của nhạc vàng miền Nam, hẳn là “xu thế tất yếu của thời đại”, như
cách nói của nhà nước cộng sản.
Không còn
nghi ngờ gì nữa, trong cuộc đọ sức với nhạc đỏ, nhạc vàng đã là “Bên thắng
cuộc”.
Lê
Hữu
No comments:
Post a Comment