BÀI 70: CÁC TỔNG THỐNG MỸ VÀ VIỆT NAM (Phần II)
Vũ Linh
Tuần này, chúng ta bàn qua phần hai của bài nhận định về vai trò
của các tổng thống Mỹ trong việc mất trọn miền Nam VN vào tay VC.
Ba tổng thống Johnson, Nixon, và Ford sẽ được bàn qua trong phần
này.
4. TT Johnson. Dân Chủ 1963 – 1968
TT Kennedy bất ngờ bị ám sát chết ba tuần sau khi TT Diệm bị giết.
Nhiều người tin dị đoan sẽ gọi là ‘quả báo’? TT Johnson lên thay thế,
một năm sau ông ra tranh cử và đắc cử, làm tổng thống chính danh chứ không còn
là ‘tổng thống ngáp’ sau khi TT Kennedy chết, nhưng 4 năm sau đó, quyết định
không ra tranh cử nữa.
TT Johnson, dân ‘cao bồi’ Texas thứ thiệt, chủ trương cứng rắn hơn
TT Kennedy. Ngay từ đầu, ông muốn tiếp tục hậu thuẫn TT Diệm, phản đối lại mọi
đề nghị đảo chánh, chống ngay cả những áp lực đẩy cố vấn Nhu ra ngoài vòng
quyền lực. Ngay sau khi nhậm chức, ông đã muốn can dự mạnh, nhưng vì phải ra
tranh cử cuối năm 1964,nên phải dè dặt, tuyên bố sẽ không cho “thanh
niên Mỹ chết trong đồng ruộng Á Châu” và đả kích mạnh thái độ ‘diều hâu’ cực
đoan của ứng cử viên CH ông Barry Goldwater.
Sau khi đắc cử, ông mau mắn lật ngược chính
sách, can thiệp mạnh vào nam VN, nhất là sau khi tình hình VN suy xụp mau chóng
qua các ‘chỉnh lý’ không ngừng của các tướng lãnh.
TT Johnson quyết tâm sẽ không là tổng thống
Mỹ đầu tiên thua trận hay bỏ rơi đồng minh. Trong thời gian đầu, ông được hậu thuẫn
của đảng DC khi đó nắm đa số tại cả Hạ Viện lẫn Thượng Viện. Đảng CH diều hâu
cũng hậu thuẫn tuy họ đòi hỏi những biện pháp can thiệp còn mạnh hơn nữa. Quốc
hội biểu quyết cho TT Johnson toàn quyền đánh BV sau vụ tàu Maddox bị tàu VC
bắn, qua Nghị Quyết Tonkin –Tonkin Resolution- chỉ có đúng 2 phiếu chống so với
98 phiếu thuận tại Thượng Viện, với 0 phiếu chống và 416 phiếu
thuận tại Hạ Viện. Mở màn cho các chiến dịch dội bom Bắc Việt kéo dài qua
tới thời TT Nixon.
Cái nhức răng cho TT Johnson là ông là người
có khuynh hướng cấp tiến nặng, có tham vọng lớn muốn thay đổi xã hội, tung ra
các chương trình cấp tiến để thực hiện cái mà ông gọi là Great Society, nhưng
kẹt chiến tranh VN, vừa tốn tiền quá mức, vừa gây phân hóa lớn trong chính
trường cũng như trong dư luận quần chúng, là những cản trở vĩ đại cho giấc mộng
Great Society.
Sau vài năm đầu thậm thụt leo thang từng
bước, đưa đến việc hơn nửa triệu quân Mỹ tham gia cuộc chiến mà vẫn không thấy
‘ánh sáng cuối đường hầm’, ông tìm cách ‘tháo chạy’ nhưng không tìm ra lối
thoát.
Những cố gắng mở đường nói chuyện với VC qua
nhiều ngã đều thất bại. Ngay cả sau khi Mỹ và VC thỏa thuận gặp nhau tại Paris
tháng 5/1968
sau khi VC thảm bại trong vụ tổng công kích Mậu Thân, hai
bên cũng chẳng đi đến một thỏa thuận nào hết, tranh cãi cả mấy tháng trời về
những chuyện lẩm cẩm như hình thù cái bàn họp. Thật ra, VC cố tình trì hoãn để
đợi bầu cử tổng thống Mỹ cuối 1968. Khi hai bên chuẩn bị nói chuyện cũng là lúc TT Johnson đã
công khai tuyên bố ông không ra tranh cử lại, trong khi các ứng cử viên tổng thống
của đảng DC, trong đó có các thượng nghị sĩ Eugene McCarthy, George McGovern và
Robert Kennedy, đều công khai muốn Mỹ rút khỏi VN.
TT Johnson là người chịu trách nhiệm mang hơn nửa triệu quân Mỹ
vào VN, ‘chiếm’ quyền trực tiếp điều hành cuộc chiến từ quân sự đến chính trị,
với những hậu quả tốt cũng như xấu. Tốt vì hiển nhiên đã cứu miền Nam khỏi một
đại bại ngay từ những năm 65-66 khi quân lực VNCH gần như tan hàng vì những
chỉnh lý của các tướng, chỉ lo đánh lẫn nhau chứ không lo đánh VC nữa. Xấu vì đúng
như TT Eisenhower và TT Diệm đã lo ngại, việc Mỹ can thiệp trực tiếp quá mạnh,
đã khiến VNCH mất chính nghiã, tặng cho VC một vũ khí tuyên truyền vô giá là
“lính da trắng Mỹ chỉ là thay thế lính da trắng Pháp thôi”.
Qua việc TT Johnson can thiệp mạnh, nhiều người nghe theo tuyên
truyền của CS cho rằng việc đó thể hiện tính ‘đế quốc’ của Mỹ. Thật ra, nếu
hiểu người Mỹ rõ thì sẽ biết quyết định can thiệp mạnh của TT Johnson chẳng qua
là đúng theo tính người Mỹ, làm gì cũng muốn mình là người lấy quyết định trọn
vẹn, không tin người khác có khả năng làm được việc, nhất là khi thấy cấp lãnh
đạo VNCH, từ TT Diệm đến các tướng lãnh, đều đã đi từ thất bại này đến thất bại
khác.
Đáng tiếc thay, chính quyền Mỹ cũng không khá hơn, đã đưa ra hết
chiến lược sai lầm này đến chính sách trật bét nọ, luôn đi theo VC nhưng chậm
hơn một bước. Ban đầu, Mỹ chờ đợi một cuộc chiến quy ước lớn kiểu Bắc Hàn xâm
lăng Nam Hàn, thì VC chơi du kích chiến. Khi Mỹ chuyển qua chống du kích trong
rừng thì VC tổng công kích thành phố. Khi Mỹ lo bảo vệ thành phố và lùng du
kích VC trong núi, thì VC xua thiết giáp tràn qua biên giới.
TT Johnson coi cuộc chiến như một cuộc đấu võ chính trị trong
đó quân sự chỉ là công cụ. Tất cả các chiến dịch quân sự lớn, tất cả các cuộc
đánh bom BV, đều phải được Tòa Bạch Ốc ô-kê dựa trên tính toán chính trị, từ
nhu cầu, ý nghiã, đến hậu quả. Rồi lại còn phụ thuộc vào phân tích thống kê
điện toán –computer data analysis- theo kiểu tỷ lệ địch chết so với số lượng
đạn bắn, số làng đã bình định so với số bom đã thả,... Nhiều chuyên gia đã nhận
xét không sai là cuộc chiến không phải do các tướng bốn năm sao điều hành trên
chiến trường, mà là do các sinh viên vừa tốt nghiệp đại học, chuyên gia tranh
cãi lý thuyết chính trị và phân tích thống kê, làm việc trong phòng lạnh tại
Tòa Bạch Ốc hay Ngũ Giác Đài, chỉ nhìn thấy những con số thống kê, chưa bao giờ
thấy một giọt máu hay nghe một phát súng nổ.
Mỹ thua vì không hiểu mà cũng chẳng bao giờ muốn tìm hiểu những
yếu tố tâm lý chính trị đặc thù của VC nói riêng và VN nói chung, mà chỉ trông
cậy vào hỏa lực. Lý luận của người Mỹ: Mỹ đã diệt tan cả Đức lẫn Nhật, luôn cả
Trung Cộng tại Bắc Hàn, mà đâu có cần tìm hiểu tâm lý của Hitler, Hirohito hay
Mao gì đâu, sao bây giờ phải thắc mắc chuyện mấy ông nông dân Việt nghĩ gì?
Ngay cả các tướng tá, sĩ quan VNCH nghĩ gì, Mỹ cũng chẳng cần biết.
Cái sai lầm của lập luận này là Đức, Nhật và Trung Cộng đều dùng
hỏa lực của họ chống lại hỏa lực của Mỹ, và họ thua; trong khi VC không dùng
hỏa lực mà dùng chiến tranh gặm nhấm. Vũ khí chính của VC là lấy lòng dân bằng
đủ cách, từ dụ dỗ ngon ngọt đến lừa gạt xảo trá nhất đến khủng bố và giết thẳng
tay, tùy đối tượng. Với mục đích kéo dài cuộc chiến, gặm nhấm vào tính kiên
nhẫn của dân Mỹ. Trong khi HCM nói chuyện “100 năm trồng người” thì người Mỹ
chỉ nhìn thấy 4 năm nhiệm kỳ một tổng thống.
Dĩ nhiên là VC cũng phải dùng hỏa lực, nhưng chỉ để ‘dứt điểm khi
thời cơ chín mùi’. Ở đây ta thấy ngay cái sai lầm của cấp lãnh đạo VC, quá chủ
quan, quá tin tưởng vào tuyên truyền của chính mình, tưởng ‘cơ hội dứt điểm’ đã
tới với Mậu Thân 68 và Mùa Hè 72, để rồi cả hai lần đều ôm đầu máu, chết lính
như rạ. ‘Cơ hội dứt điểm’ chỉ thực sự đến với VC năm 75 khi
quốc hội DC Mỹ đã cắt đứt cuống rốn cung cấp bom đạn và xăng nhớt cho QLVNCH.
Chính sách của TT Johnson tiêu biểu cho chính sách đối ngoại cũng
như quân sự của các tổng thống của đảng DC: bao đồng muốn can dự nhưng lại nhát
tay, vừa đánh vừa run vì sợ TC nhẩy vào. Khi TT Johnson được mật báo
có cả ba trăm ngàn lính TC ở BV, ông tiếp tay VC dấu nhẹm tin này vì sợ đụng độ
lớn với TC.
5. TT Nixon. Cộng Hòa 1969 – 1974
TT Johnson không ra tranh cử lại, đảng DC đưa PTT Hubert Humphrey
ra chống lại cựu PTT Richard Nixon. Ông Nixon thắng.
Ông Nixon khi ra tranh cử bảo đảm ông đã có “kế hoạch bí mật” để
chấm dứt chiến tranh VN. Sau này, kế hoạch bí mật đó được bật mí và mọi người
thấy đó là giải quyết cuộc chiến VN bằng cách nói chuyện thẳng với các đàn anh
đang đỡ đầu VC là Liên Xô và Trung Cộng, trao đổi quyền lợi dựa trên tính toán địa
chính trị toàn cầu, trong khi chỉ điều đình với VC về chi tiết đình chiến, rút
quân, và trao trả tù binh.
TT Nixon nhìn cuộc chiến VN dưới nhiều khiá cạnh:
- Cuộc chiến VN là một vi
khuẩn vĩ đại gây phân hóa không hàn gắn được trong xã hội và chính trị Mỹ, làm
tê liệt tất cả mọi chương trình nội bộ hay ngoại giao của Mỹ. Chưa kể tốn kém
quá mức về tiền bạc và nhất là sinh mạng thanh niên Mỹ. Mà lại không thấy giải
pháp nào khi khối CS quốc tế vẫn kiên trì giúp VC và VC nghiến răng thí mạng cùi
tới cùng. Ông cho rằng việc cần phải làm là một mặt củng cố quân lực VNCH qua
sách lược gọi là ‘Việt Nam hóa’, mặt khác điều đình với Liên Xô và TC chấm dứt hay ít nhất giảm
mạnh viện trợ quân sự của họ cho VC, như vậy sẽ giúp cho VNCH một cơ hội đánh nhau
ngang tay với VC, và trong cuộc chiến ‘ngang tay’ đó, TT Nixon tin tưởng VNCH
sẽ chỉ thắng hay huề, không thể thua.
- Nhưng quan trọng hơn nữa
trong cái viễn kiến quốc tế của TT Nixon, cuộc chiến VN là một chất keo kết nối
khối CS, nhất là Nga và Tàu, mà nếu Mỹ chấm dứt can thiệp thì chất keo sẽ tan
và mấy ông CS sẽ túm đầu đánh nhau túi bụi. Khối CS quốc tế đang bị chi phối
bởi việc dành ảnh hưởng giữa hai ông anh lớn, Mỹ cần phải triệt để khai thác
phân hóa đó để tạo ra thế chân vạc, ‘tam quốc tân thời’, chứ hai ông CS lớn đó
ngồi với nhau thì Mỹ khó chống đỡ.
TT Nixon đã có viễn kiến xa hơn tất cả mọi người. Sau khi chiến
tranh VN chấm dứt, quan hệ Liên Xô - Trung Cộng đổ vỡ hoàn toàn, không hàn gắn
được. Sau đó, ngay cả TC cũng đánh VC trong khi VC đánh Căm-Pu-Chia. Chuyện
‘môi hở răng lạnh’ biến thành răng cắn cho đứt môi.
Phải thẳng thắn nhìn nhận chiến tranh VN là một hột cát kẹt trong
con mắt của Mỹ, không có một ích lợi nào mà chỉ làm cộm mắt. TT Nixon thực sự
muốn chấm dứt chiến tranh VN. Nhưng cũng không khác TT Johnson, ông không muốn
là tổng thống đầu tiên thua trận, nhất là thất hứa không bảo vệ đồng minh. Thất
hứa đó, ông sợ Mỹ sẽ phải trả giá quá cao khi Mỹ và khối Liên Xô-TC còn đang
tranh dành ảnh hưởng trên các quốc gia đệ tam. Mỹ bỏ miền Nam VN quá dễ dàng sẽ
khiến các quốc gia đệ tam cân nhắc việc làm đồng minh với Mỹ.
Điều ông hy vọng là sẽ có thể điều đình trên đầu VC, tức là điều
đình thẳng với Liên Xô và TC để hai xứ đàn anh này ép VC chấp nhận một giải
pháp nào đó mà sẽ không có bên nào thắng bên nào thua, chấm dứt chiến tranh VN
theo mô thức Triều Tiên, duy trì tình trạng hai miền trong khi chờ đợi thống
nhất có thể cả chục năm sau.
TT Nixon sai lầm và thất bại vì ông đã không tính trước sự chống
đối quá mạnh của đối lập DC và nhất là không tính Watergate.
Đảng DC thất bại với TT Johnson nhất quyết
không cho ông CH Nixon thành công. Trong suốt thời gian nắm quyền, ông Nixon đã gặp
phải chống đối tuyệt đối của phe đối lập DC và TTDC thiên tả suốt ngày bôi bác
miền Nam và ca tụng VC, chưa kể hàng vạn người xuống đường biểu tình liên tục
cả mấy năm trời. Chỉ trong 4 năm nhiệm kỳ
đầu, TT Nixon đã bị Hạ Viện DC biểu quyết hơn 80 lần, trung bình 3 tuần một lần
trong suốt bốn năm liền, đòi TT Nixon chấm dứt can dự vào cuộc chiến.
Tháng Chạp 1969, Thượng Viện DC thông qua luật
Church-Cooper (thượng nghị sĩ DC Frank Church
của Idaho, và CH John Cooper của Kentucky) cấm triệt mọi hoạt động quân sự -hành quân hay
dội bom- trên lãnh thổ Lào. Đường mòn Hồ Chí Minh được các nghị sĩ DC Mỹ bảo
đảm an toàn tuyệt đối.
Năm 1974, VNCH bất lực nhìn VC chuyển quân và
súng đạn ào ạt vào Nam VN qua đường mòn bây giờ đã thành xa lộ HCM. TT Nixon
muốn đánh bom, nhưng bị vướng xình lầy Watergate, không đủ hậu thuẫn chính trị
để vượt qua luật Church-Cooper.
Tháng 6, 1970, Thượng Viện DC thông qua tu chính
Church-Cooper cấm chính quyền Nixon không được chi một đồng nào cho cuộc chiến
tại Căm-Pu-Chia, cấm gửi lính qua hay đánh bom xứ này luôn. Đến phiên các mật
khu VC trên đất Căm-Pu-Chia được Thượng Viện DC Mỹ bảo đảm an toàn. VC di
chuyển bộ tư lệnh từ “R” ở Nam VN qua Căm–Pu-Chia.
Năm 1973, lấy cớ Hiệp Định Paris đã ký, TNS
Church lại cho thông qua luật mới cắt hết mọi viện trợ quân sự cho ba nước
Việt-Miên-Lào. QLVNCH hết nhận được viện trợ quân sự. Cũng năm 1973, quốc hội
thông qua luật War Power Act, Quyền Tham Chiến, bắt tổng thống phải xin phép
quốc hội nếu tham gia bất cứ cuộc chiến nào quá ba tháng. Vì Hiệp Định Paris đã
chấm dứt chiến tranh VN, nếu Mỹ trở lại VN thì sẽ coi như mở đầu một cuộc chiến
mới, phải có sự chấp thuận của quốc hội do DC nắm đa số tại cả hai viện. (Cả hai luật cắt viện trợ hoàn toàn và cấm
tham chiến khi đó được tân nghị sĩ Joe Biden ủng hộ)
Trong khung cảnh ‘nội chiến’ với đối lập DC đó,
TT Nixon lại dính vào vụ Watergate, dĩ nhiên bị TTDC và DC triệt để khai thác,
cuối cùng ép ông phải từ chức.
Câu hỏi không bao giờ có câu trả lời: nếu TT Nixon không bị DC chặt chân trói
tay và dính lầy Watergate thì số phận VN sẽ ra sao? Hiệp Định Paris sẽ như thế
nào? Ông sẽ đối phó thế nào khi thấy VC chuyển quân giữa ban ngày trên xa lộ
HCM? Ông sẽ phản ứng ra sao khi VC xé Hiệp Ước Paris, tung thiết giáp chiếm Nam
VN năm 75?
Nhiều người VN trách cứ TT Nixon và nhất là cố
vấn Kissinger đã gian trá, lừa gạt VNCH, bán đứng VNCH cho Trung Cộng, để bảo
vệ Do Thái.
Luận cứ này có đúng nhưng cũng sai. Đúng ở điểm
TT Nixon muốn tìm giải pháp rút khỏi VN và nhiều khi đã không hoàn toàn chân
thật với TT Thiệu, vì nhu cầu bảo vệ quyền lợi Mỹ cũng như thực hiện sách lược
‘tam quốc’ của ông, trong khi ông lại không muốn TT Thiệu công khai chống vì
ông sợ mang tiếng phản đồng minh, do đó đã dấu TT Thiệu nhiều chuyện. Không
đúng ở điểm TT Nixon muốn bán đứng VNCH cho TC với bất cứ giá nào, để bảo vệ Do
Thái. Tố Kissinger “bán đứng VN để bảo vệ Do Thái” là một luận cứ thô thiển dễ
ăn khách vì Kissinger là Do Thái. Cũng chỉ là một giả thuyết nằm trong câu
chuyện hư cấu thế lực ngầm Do Thái thao túng cả thế giới. Thật ra, Do Thái chưa
bao giờ là một yếu tố quan trọng trong việc giải quyết chiến tranh VN.
TT Nixon cố gắng tìm một giải pháp để VNCH có thể
tồn tại lâu dài, qua những cuộc dội bom Căm-Pu-Chia và nhất là những cuộc dội
bom trên Hà Nội mùa Giáng Sinh 72, nhưng mỗi lần ông ra tay mạnh là một lần bị
khối DC ra luật mới trói tay thêm.
Luận cứ TT
Nixon bán đứng miền Nam thật ra là do phe DC tung ra để chạy tội sau khi mất
miền Nam, dấu nhẹm tất cả những biểu quyết của khối DC tại quốc hội đã khoá
chặt tay TT Nixon. Nếu quốc hội đã ra luật cắt mọi viện trợ quân sự, cấm Mỹ
dội bom trên cả bốn vùng, nam và bắc VN, Lào và Căm-Pu-Chia, cấm cả tổng thống
không được tham chiến trở lại thì cho dù TT Nixon muốn giữ miền Nam thì ông có
cách nào? Làm sao có thể nói TT Nixon là người chịu trách nhiệm
về việc bỏ/mất VNCH? Điều ngạc nhiên phải nói là việc ông đã cứng cựa, cầm cự
dai dẳng được 4 năm, vớt vát đến cùng, trước khi ký Hiệp Định Paris.
TT Nixon bị phe đối lập DC đánh đến độ không còn
giữ được cái ghế của ông, làm sao giữ được cả miền Nam VN?
6. TT Ford. Cộng Hòa 1974 – 1976
TT Ford nhậm chức sau khi TT Nixon từ chức. Ông
thừa hưởng một nước Mỹ đang bị khủng hoảng nặng chưa từng thấy và phải tập
trung mọi nỗ lực để cứu con bệnh Mỹ, trong khi uy tín ông không có bao nhiêu vì
chỉ là tổng thống ‘ngáp’ do Nixon chỉ định chứ không ai bầu (tuy ông có được quốc hội phê chuẩn). Trong chuyện VN, ông hoàn toàn bị trói tay bởi
Hiệp Định Paris cũng như các luật Church-Cooper.
Khi VC rầm rộ chiếm miền Trung, ào ạt nam tiến,
TT Ford tìm mọi cách cứu giúp. Ông yêu cầu quốc hội cho lính Mỹ trở lại viện cớ
không phải để cứu nam VN, mà là để cứu lính và dân Mỹ còn đang ở VN. Ông cũng
yêu cầu quốc hội cho tháo khoán khẩn cấp 720 triệu tiền viện trợ quân sự đã được phê chuẩn cho tài khoá 75 nhưng chưa tháo khoán. Những yêu cầu này bị quốc hội DC bác bỏ. Nhưng TT
Ford vẫn bất chấp, trong những ngày cuối, cho chở hàng loạt vũ khí, đại bác,
súng đạn qua cho VNCH, lấy cớ thay thế hao mòn, trên nguyên tắc được Hiệp Định
Paris cho phép. (Những chuyến bay này chở bom đạn đến, khi rời VN thì chở qua
Mỹ hàng ngàn trẻ mồ côi VN; chuyến bay đầu tiên, họa vô đơn chí, rớt ngay tại
Tân Sơn Nhất, cả trăm trẻ em bị chết)
Cuối tháng Tư 75, khi VC gõ cửa Sàigòn, quốc hội
DC cũng bác luôn yêu cầu của TT Ford xin viện trợ khẩn cấp 300 triệu để tăng
cường bảo vệ thủ đô Sàigòn và phần còn lại của miền Nam trong khi chờ đợi (hy
vọng?) các bên điều đình lại. Cận ngày mất nước khi không còn hy vọng gì, TT
Ford xin chuyển số 300 triệu này qua một quỹ
đặc biệt giúp chuyên chở và định cư tại Mỹ khoảng 200.000 quân cán chính VNCH mà ông cho rằng chắc chắn sẽ bị VC giết sau khi
họ chiến thắng. Đề nghị này cũng bị quốc hội DC bác.
Mãi đến ngày 23/5, ba tuần sau khi VNCH đã mất, trong khi cả vạn người Việt đang chờ tại
Guam và Wake, và sau những vận động mạnh của TT Ford trong hậu trường, quốc hội
mới biểu quyết chấp nhận 130.000 người
Việt đầu tiên tỵ nạn. Ở đây, phải ghi nhận khi đó, tân thượng nghị sĩ Joe Biden
đã là tiếng nói chống đối mạnh nhất.
KẾT
Nhìn vào thực tế lịch sử, VN từ thời Quốc Gia VN đến Đệ Nhất rồi
Đệ Nhị Cộng Hòa, cũng kể luôn cả chế độ VC tại miền Bắc, trước sau vẫn chỉ là
quân chốt trên bàn cờ chính trị thế giới. Quân chốt của Mỹ và quân chốt của
khối CS quốc tế, trong một cuộc chiến ‘ủy nhiệm’ không hơn không kém. Việc đánh
hay giúp VN –QG hay CS- luôn nằm trong những tính toán lớn của các đại cường.
Cấp lãnh đạo VN từ CS đến QG, có tiếng nói rất nhỏ và quyền hành còn nhỏ hơn
nữa.
Dù vậy, cũng không thể nói cấp lãnh đạo VN hoàn toàn không có
trách nhiệm. Về phiá quốc gia, những chuyện như Bảo Đại ăn chơi trác táng không
lo việc nước, hay TT Diệm xây dựng nên một quốc gia thịnh vượng và ổn định,
nhưng sau đó phạm nhiều sai lầm nghiêm trọng trở nên độc đoán, hay các tướng
lãnh đảo chánh trên danh nghiã để đánh VC hữu hiệu hơn, nhưng rồi vì tham vọng
cá nhân liên tục chỉnh lý lẫn nhau, bán cái việc đánh VC cho Mỹ, các sư sãi
‘chống chiến tranh’, linh mục ‘chống tham nhũng’, sinh viên ‘chống bắt lính’,
ký giả ‘đi ăn mày’, nhân sĩ ‘đòi quyền sống’, các chính khách thời cơ ‘cẳng
giữa’, những cuộc triệt thoái hỗn độn qua những quân lệnh bất nhất, rồi cuộc
đầu hàng vô điều kiện quá nhanh thay vì cầm cự ít lâu để tìm cách điều đình,…
cuối cùng đưa đến mất nước, đó chính là những phần trách nhiệm lớn của người
Việt quốc gia, không phải là lỗi của Johnson hay Nixon hay Kissinger gì hết.
Những sai lầm đó đưa đến sự hy sinh cao cả nhưng oan uổng của một
số tướng lãnh oai hùng tuẫn tiết vì nước và những sĩ quan và lính can trường
chiến đấu đến cùng dù biết vô vọng.
Những lập luận "Mỹ tháo chạy" hiển nhiên không sai lắm,
nhưng dù sao cũng vẫn là cách các quan chức miền Nam xiả tay đổ thừa mà không
dám nhận phần trách nhiệm của chính mình.
Nhiều chính khách và tướng lãnh có trách nhiệm lớn trong cuộc
chiến đã viết sách hay nói chuyện. Hầu hết đều khoe mình đúng và tài giỏi, để
đổ thừa tất cả sai lầm lên đầu người khác. Điều đáng buồn là hình như những vị
này, trong đó có nhiều vị bỏ quan bỏ lính ôm vợ con chạy, đã không có một vị
nào đủ can đảm đứng ra nhận sai lầm của chính mình, công khai có một lời xin
lỗi người dân và nhất là xin lỗi người lính miền Nam, từ lính
chủ lực tới địa phương quân, nghiã quân, nhân dân tự vệ và cảnh sát, và nhất là
vợ con của lính, là
những nạn nhân khốn khổ thật sự trong cuộc chiến bi thảm kéo dài 30 năm.
No comments:
Post a Comment