Hà Nội: 1948-1954, những năm tháng cũ
(1)
Vào một ngày khoảng đầu
tháng 8 năm 1954, khi từ bến Sáu Kho Hải Phòng bước lên tàu Ville de Saigon để
theo gia đình di cư vào Nam, tôi không hề nghĩ là phải một thời gian lâu lắm
tôi mới trở lại đất Bắc. Ấy thế mà sau khi rời quê hương miền Bắc từ Cảng Hải
Phòng bằng đường thủy, phải chờ suýt soát nửa thế kỷ, quá nửa đời người, tôi
mới trở về đất Bắc bằng đường hoả xa, đặt lại bước chân đầu tiên trên thủ đô Hà
Nội tại ga Hàng Cỏ ở đường Hàng Lọng, những tên gọi xa xưa của Hà Nội băm sáu
phố phường.
Khi bước chân ra ngoài
nhà ga, trời còn mờ sáng, nhìn chưa rõ mặt người. Quang cảnh chung quanh thật
ồn ào, náo nhiệt: Tiếng chào mừng của thân nhân đi đón nhau, tiếng rao của
những người bán hàng, tiếng mời mọc của những anh lái xe ôm, của tài xế xe
taxi, tất cả đã tạo thành âm thanh của một tiếng nói lạ tai. Cái tiếng nói này,
khi mới về Việt Nam ở Sài Gòn, tôi đã nghe từ một cô xướng ngôn viên đài truyền
hình và lúc ấy tôi không chú ý đến cho lắm vì chỉ là một tiếng nói lẻ loi,
nhưng lúc này tôi mới cảm thấy xa lạ, vì nó không giống chút nào với tiếng nói
mà tôi vẫn hằng quen thuộc của người Hà Nội thuở xưa. Thế rồi dần dần tôi mới
nghĩ ra là thời gian đầu thập niên 1950, Hà Nội chỉ có khoảng 300,000 người mà
nay dân số đã lên đến trên 3 triệu, gia tăng gấp 10 lần. Năm 1954, nhiều người
Hà Nội đã di cư vào Nam, nhiều người Hà Nội khác, vì việc mưu sinh sau đợt đánh
tư sản, đã phải về các miền quê, tỉnh nhỏ. Trong khi đó thì dân tứ xứ lại đổ xô
tới khiến Hà Nội mất dần sắc thái riêng, trong đó có cái tiếng nói được gọi là
của “người Trường An thanh lịch”. Tuy diện tích Hà Nội cũng tăng gấp 10 lần so
với trước kia, tương ứng với đà gia tăng dân số, nhưng hầu hết số dân này lại
tập trung trong khu nội thành, gần như tương đương với diện tích của toàn thể
thành phố Hà Nội thời trước. Cho nên thành phố trở nên đông đúc khác thường, xe
cộ đầy đường, có những phố khi xưa cả ngày lúc nào cũng đìu hiu vắng vẻ thì nay
tấp nập người qua kẻ lại không ngớt. Không thiếu gì các cao ốc hai, ba chục
từng. Cảnh tượng phố phường Hà Nội nhộn nhịp không khác với Sàì Gòn là bao. Vì
đã sống ở Sài Gòn cả hơn một tháng trước khi ra Bắc nên tôi không đến nỗi quá
sửng sốt nhưng cũng không tránh khỏi ngậm ngùi trước cảnh thay đổi của Hà Nội
so với gần 50 năm trước khi thành phố này còn vắng vẻ, cuộc sống còn lặng lẽ,
êm đềm.
*
* * * *
Hà Nội từng là thủ đô
của nước Việt nam trong gần 800 năm từ thời nhà Lý đầu thế kỷ thứ 11 tới
thời Lê mạt cuối thế kỷ thứ 18. Nhưng trong các năm 1948-1954 này, Hà Nội
chỉ còn là thủ đô của Bắc Phần, trước kia là Bắc Kỳ theo tên gọi thời Pháp
thuộc. Hà Nội nằm dọc theo hữu ngạn sông Hồng Hà, nôm na gọi là sông Cái, hoặc
còn gọi là Nhị Hà, vì trước khi tới Hà Nội, sông Hồng đã tách ra 1 nhánh nhỏ
hơn gọi là sông Đuống chảy ngang qua Hải Dương. Thành phố trải dài từ phía bắc
cầu Long Biên (Paul Doumer) qua viện Bảo Tàng (Louis Finot), Bệnh Viện Đồn Thuỷ
(Lanessan) xuống tới phiá nam Phà Đen, nơi có một trung tâm huấn luyện Sỹ Quan
và Hạ Sỹ Quan cho Quân Đội Quốc Gia của thời kỳ mới thành lập.
Khu buôn bán chính của
Hà Nội tập trung ở phiá đông bắc thành phố nơi có hồ Hoàn Kiếm hay còn gọi là
hồ Gươm. Hồ Hoàn Kiếm là một di tích lịch sử và cũng là thắng cảnh du lịch nổi
tiếng nhất của Hà Nội. Du khách tới Hà Nội thế nào cũng phải ghé thăm hồ Gươm,
bằng không ít nhất cũng phải có lần đi ngang qua. Hồ nằm dài theo hướng bắc
nam, song song với sông Hồng và cách sông Hồng chừng gần 1 cây số, phía bắc
rộng hơn một chút và tiếp giáp với khu phố cổ hay khu phố “Ta”, phía nam hẹp hơn
và tiếp giáp với khu phố “Tây”. Dọc hồ phía đông là đường Đinh Tiên Hoàng với
Phòng Thông Tin thành phố, Tòa Thị Chính, vườn hoa Chí Linh (Paul Bert), Nhà
Bưu Điện, chấm dứt tại điểm giao tiếp với phố Trường Tiền một bên và phố Hàng
Khay phía bên kia. Men theo hồ phía tây là đường Lê Thái Tổ, đi tới khoảng giữa
thì cắt chéo bởi phố Hàng Trống từ góc phố Hàng Gai đâm xuống. Tại góc ngã ba
này có toà nhà thời 1945 về trước là của hội Khai Trí Tiến Đức, lúc này thuộc
Nha Thông Tin và dùng làm Phòng Triển Lãm Hội Hoạ, Nhiếp Ảnh, … Khoảng năm
1950-1951, điêu khắc gia Đài Loan là Đới Ngoạn Quân đã có 1 tuần lễ trưng bày
các tác phẩm nghệ thuật khắc trên ngà những bài thơ, bài văn cổ bằng chữ Hán…
với nét chữ nhỏ li ti, phải dùng kính ‘lúp’ (kính phóng đại) mới coi rõ được.
Có lúc đây là nơi dùng làm đấu trường cho các trận bóng bàn tranh giải vô địch
Bắc Phần hoặc các trận giao hữu quốc tế, như dịp hè năm 1950, 2 danh thủ vô
địch Pháp là Amouretti và Hagenauer đã tranh tài cùng các hảo thủ Việt Nam
trong đó có anh em Mai Văn Hoà và Mai Văn Chất từ Sài Gòn ra. Phố Hàng Trống
tiếp nối phố Lê Thái Tổ từ góc đường này chạy dọc cho tới cuối hồ thì cắt ngang
bởi phố Hàng Khay bên tay trái và phố Trường Thi bên tay mặt, ngay tại góc
đường này có sở Cẩm Hàng Trống.
Nói đến hồ Hoàn Kiếm thì
thoạt tiên phải kể tới Tháp Rùa. Tháp này xây trên 1 hòn đảo nhỏ ở lui về
phía nam và gần với bờ phía tây của hồ. Tháp có 2 tầng với một vòm nhỏ hơn ở
trên cùng. Khoảnh đất chung quanh tháp có chiều rộng từ 3 đến 5 thước. Tương truyền
rằng đây chính là địa điểm Thần Kim Quy đã lấy lại kiếm thần từ vua Lê Thái Tổ.
Rùa Thần có thật chăng thì không rõ, nhưng thực sự dưới hồ có rùa và là rùa rất
lớn. Trong những ngày hè oi bức, thỉnh thoảng rùa đã bò lên nằm im sưởi nắng
dưới chân tháp hàng tiếng đồng hồ. Tôi đã nhiều lần khi đi ngang từ bờ hồ phía
đông nhìn thấy, mai rùa lớn, to bằng cái nong, chắc chắn đường kính phải trên 1
thước, có thể tới gần 2 thước. Dường như dưới hồ không phải chỉ có một con ruà
lớn như thế, tuy tôi chưa bao giờ thấy hai con cùng lên nằm dưới chân tháp một
lúc.
Tại mặt bắc và gần với
bờ phía đông của hồ Hoàn Kiếm là Đền Ngọc Sơn trên một hòn đảo lớn hơn đảo Tháp
Rùa rất nhiều. Từ bên ngoài hướng đường Đinh Tiên Hoàng đi vào phải qua một
cổng hai bên có hai đại tự chữ Nho đỏ chót, có lẽ là hai chữ Ngọc Sơn (?). Đi
ngang một con đường hai bên là hai bức tường xây thấp, qua chừng vài chục thước
là tới một cổng nữa, kiểu tam quan, giữa là cổng lớn như lối đi chính, hai bên
là 2 cổng nhỏ mang tính cách trang trí nhiều hơn vì lúc nào cũng đóng. Qua khỏi
cổng trong này là đến cầu Thê Húc, một cây cầu gỗ, với màu sơn đỏ như son bắc
qua mặt hồ dẫn vào Đền Ngọc Sơn. Đền Ngọc Sơn được xây từ giữa thế kỷ thứ 19,
bên trong thờ Đức Trần Hưng Đạo, vị anh hùng phá quân Nguyên vào thế kỷ thứ 13,
và thờ Thần Văn Xương, ngôi sao chủ việc văn chương khoa cử. Từ cầu Thê Húc đi
vào, còn có lối đi nhỏ hai bên hông đền sát với mặt nước hồ, với hàng cây rậm
rạp um tùm. Theo hai lối đi này vòng qua khỏi đền vào phía bên trong là Trấn Ba
Đình, một khu đất phẳng và rộng, quang đãng, từ đó nhìn chếch về hướng Nam là
thấy Tháp Rùa ngay phía trước mắt.
Ngày nay có lẽ ít ai còn
nhớ rằng cầu Thê Húc đã một lần bị sập (cũng như cầu Thị Nghè ở Sài Gòn bị sập
vào năm 1957 trong dịp Hội Chợ Thị Nghè khiến có một số người bị thương và
chết). Tối Trung Thu rằm tháng tám năm 1949, dân chúng Hà Nội đổ ra chơi quanh
hồ Hoàn Kiếm, đua nhau vào thăm đền Ngọc Sơn. Qua cầu Thê Húc, vì người qúa
đông, chen chúc nhau nên cầu lung lay rồi đổ sụm xuống. Nhưng cầu rất ngắn và
thấp, cách mặt nước không xa, cho nên không có ai chết hoặc bị thương nặng, hầu
hết chỉ phải một phen hoảng sợ và quần áo bị ướt sũng mà thôi.
Bên ngoài đền, phía trái
cổng Tam Quan chừng hơn 10 thước có một tòa tháp gọi là Tháp Bút xây trên một
gò đất nhỏ và thấp, phủ đá bên ngoài. Đây là một tòa tháp đặc, 4 cạnh, 5 tầng,
trên cùng có 1 cây trụ dài tựa như 1 quản bút, trên thân tháp có tạc 3 chữ Nho
là “Tả Thanh Thiên”, có nghĩa là ‘viết lên trời xanh’. Tháp này do ông Nguyễn
Siêu (cùng với Cao Bá Quát, đã được xưng tụng là “Thần Siêu Thánh Quát) thời
vua Tự Đức nhà Nguyễn xây lên. ‘Viết lên trời xanh’ có nghĩa là viết lên để kể
nỗi thống khổ hay oan ức của người dân, những mong ông trời để mắt xuống mà
thấu hiểu. Dân gian có câu “Tháp Bút, Đài Nghiên”. Thế nhưng ở đây lại chỉ thấy
có Tháp Bút mà không có Đài Nghiên để sóng đôi cùng.
Có một kiến trúc đặc
biệt mang tính cách hiện đại so với những di tích cổ kính của Hồ Gươm là tòa
nhà Thủy Tạ, có chừng 1 phần 3 xoải ra trên mặt nước, ở bên hồ gần góc phía tây
bắc do người Pháp xây cất từ hàng chục năm trước trong thời tiền chiến. Vào
thời gian này, đây là nhà hàng ăn có khiêu vũ, nơi từ chiều tối cho tới nửa đêm
các ông tây bà đầm gốc Pha Lang Sa hay thuộc loại lô-can kéo nhau đến ăn uống,
nghe nhạc và nhảy với nhau. Đứng từ xa, sau hàng liễu rũ, nhìn ánh đèn xanh đỏ
từ nhà Thủy Tạ chiếu xuống mặt nước hồ, nghe tiếng nhạc bập bùng vọng tới, thấp
thoáng những thân hình lả lướt theo tiếng kèn điệu nhạc, tưởng chừng như đang
ngắm một tòa thuỷ cung nơi tiên cảnh. Toà nhà Thủy Tạ này bây giờ thuộc về
thành phố Hà Nội và có lúc, khoảng năm 1951, được dùng làm một thư viện của
thành phố. Nhưng chỉ mấy tháng sau, chắc hẳn thấy rằng dùng như thế thì phí
phạm quá cho nên thư viện đã âm thầm được chuyển tới một nơi khác thích hợp hơn
để toà nhà Thủy Tạ này được đem cho thuê để trở lại thành nhà hàng ăn chơi như
những năm xưa cũ.
Khi kể những sự tích về
Hồ Hoàn Kiếm, có mấy địa điểm ít được ai nhắc nhở tới.
Trước hết, đó là tòa
tháp nổi có tên là Tháp Hòa Phong ngay bên lề đường Đinh Tiên Hoàng sát cạnh
đường xe điện, đối diện với nhà Bưu Điện phía bên kia đường. Từ Tháp Rùa qua
Tháp Hòa Phong tới nhà Bưu Điện, tất cả gần như cùng nằm trên một đường thẳng.
Tháp này xưa kia nằm trong phạm vi và thuộc về chùa Báo Ân, nơi bây giờ là tòa
nhà Bưu Điện. Không rõ vì sao và vào lúc nào ngôi chùa Báo Ân này không còn nữa
và di tích duy nhất ngôi chùa để lại chỉ là Tháp Hòa Phong. Đây là tòa tháp
vuông mỗi chiều dài chừng 3 thước, 4 cạnh trổ ra 4 cửa có thể đi xuyên qua bên
dưới trong lòng tháp, phía trên có 2 tầng thu nhỏ lại hơn và trên cùng là mái
tháp bao tròn chung quanh.
Một địa điểm khác là ở
mặt tây Hồ Gươm trên đường Lê Thái Tổ gần phố Bảo Khánh có Đền Vua Lê trong một
tòa nhà có vườn và tường bao chung quanh, từ đây trông thẳng qua bên kia đường
là thấy Trấn Ba Đình. Hàng năm trong dịp kỷ niệm vua Lê Thái Tổ, thành phố có
tổ chức tế lễ tại đây. Tôi ở Hà Nội gần 6 năm, đi qua Hồ Hoàn Kiếm không biết
bao nhiêu lần mà chưa bao giờ có dịp vào thăm bên trong Đền Vua Lê. Nằm ở một địa
điểm vắng vẻ nhất toàn khu quanh hồ Gươm, lại không có một lối kiến trúc khác
thường nào cho nên Đền Vua Lê ít người biết tới cũng không phải là điều đáng
lạ.
Sau hết là Đền Bà Kiệu
nằm ở trên mảnh đất hình tam giác góc phố Hàng Dầu đâm ra phố Đinh Tiên Hoàng,
trông sang bên kia đường là cổng Đền Ngọc Sơn. Đền Bà Kiệu dường như đã bỏ
hoang từ lâu, còn lại chỉ là một toà miếu nhỏ với một cây đa lớn bên cạnh,
không có người coi sóc và hàng ngày nguời qua kẻ lại nhưng không mấy ai để ý
tới. Theo nhà văn Nguyễn Triệu Luật trong cuốn “Bốn con yêu và hai ông đồ” thì
vào thời cuối Nhà Lê, thành Thăng Long có bốn con yêu, tất cả đều là yêu nữ:
Long
Thành có bốn yêu tinh
Yêu
trước hồ Giám, yêu đình Đồng Xuân
Yêu
cây bàng giữa Hàng Cân
Yêu
gốc cây liễu giữa sân chùa Tàu
Đây là ngôi chuà Tàu do
một người Khách Minh Hương lập nên. Giữa sân chùa có một cây liễu già xù xì lâu
ngày thành tinh. Con yêu gốc liễu này tác quái không ai dám ở nên chùa trở
thành hoang phế và đến ngày nay không hiểu sao lại trở thành tên là Đền Bà
Kiệu.
Quanh Hồ Hoàn Kiếm ở
phía nam là một khu đất rộng, như một công viên, nhiều cây cối nhưng quang
đãng. Từ cuối xuân qua hè sang đầu thu, có những hàng nước nhỏ với dăm ba cái
bàn và mỗi bàn bốn ghế, sáng đến tối về, bán nước cam, nước chanh, nước dừa cho
khách nhàn du nghỉ chân giải khát. Góc phía đông nam giáp với đường Đinh Tiên
Hoàng và phố Hàng Khay có nhiều quán bán hoa từ những làng trồng hoa gần hồ Tây
như Ngọc Hà, Yên Phụ đưa tới. Hoa bán ở đây chắc hẳn giá phải đắt hơn những nơi
khác vì địa điểm này nằm trong khu phố Tây, và những khách hàng thường là những
người tây phương lắm tiền nhiều bạc.
Còn phải kể thêm mấy
nhân vật Hồ Gươm mà các học sinh chúng tôi của những năm đầu thập niên 1950
chắc không sao quên được.
Nhân vật đầu tiên là Mụ
Béo với quán giải khát cũng mang tên “Mụ Béo” ở đầu đường Lê Thái Tổ gần xế với
nhà Thủy Tạ phía bên kia đường. Bây giờ ở đất Mỹ này, những phụ nữ to béo mập
mạp như Mụ Béo là chuyện thấy thường ngày không có gì là lạ. Nhưng vào thời kỳ
đó, ở Việt Nam, hình dung béo tốt như Mụ Béo là một hiện tượng khác thường. Đặc
biệt nữa là Mụ Béo có cô con gái (một hay hai cô, tôi không nhớ rõ) cũng có
tướng tá dáng bộ giống gần như mẹ, thường thấy đứng bán hàng. Quán Mụ Béo vào
đầu thiên niên kỷ mới đã được du khách ngoại quốc biết đến tên tuổi. Có một bài
viết về Hà Nội của một ký giả ngoại quốc nào đó đã nhắc đến cái tên gọi là “The
Fat Lady”. Có lẽ đây phải là bà Jr Fat Lady nối nghề của mẹ chứ cụ Sr Fat Lady
tới năm tháng này hẳn đã đến thời quy ẩn trong tuổi xế chiều, hoặc không còn
trên cõi đời này nữa.
Kế đó là anh Tàu bán
thịt bò khô mà địa điểm hành nghề lúc nào cũng ở bên hông cửa hàng kem Hồng
Vân, trên cao trông xuống quán Mụ Béo ở phía nam bên dưới và xa xa về hướng
đông nam là khu đền Ngọc Sơn cây cối um tùm. Anh Tàu này có thân hình cao và
gầy guộc, lúc nào cũng bận bộ áo cánh quần dài màu đen. Anh ta bán mỗi đĩa một
đồng, thịt bò khô trộn với đu đủ bào mỏng pha với một thứ nước mắm chua ngọt
cay cay. Hầu như lúc nào cũng có hai ba người, phần lớn là học sinh, đứng chung
quanh, ăn xong xuống quán Mụ Béo ngồi ngắm phố phường, uống cốc nước chanh đá
thì tưởng không gì thú vị cho bằng.
Cuối cùng là ông Tàu già
bán lạc rang, còn gọi là phá-xa, mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào cũng quanh
quẩn ở bên tháp Hòa Phong. Ông Tàu này già hơn và mập mạp hơn anh Tàu bán thịt
bò khô, đeo trước bụng một cái thùng thiếc có bao quanh bằng một lớp vải bông
để ủ giữ cho lạc lúc nào cũng ấm. Cũng với giá một đồng một múc bằng cỡ một vốc
nắm tay, cái thứ lạc trộn húng lìu được rang lên, hột lạc tròn và đều nhai dòn
tan. Vào những chiều đông lạnh, ông Tàu già này đứng tránh gió trong lòng tháp,
nhưng khách hàng quen thuộc vẫn biết để dễ dàng tìm ra. Năm 1957, ở Sài Gòn,
một lần tôi trông thấy ông Tàu già bán lạc rang này đang lang thang trên đường
Lê Văn Duyệt trông sang cửa vườn hoa Tao Đàn phía bên kia đường. Không thấy ông
đeo cái thùng thiếc trước bụng nữa, và trong Nam trời nóng quanh năm, hẳn ông
không còn bán cái thứ quà chỉ thích hợp với khí hậu Hà Nội mà thôi. Tôi không
bao giờ gặp lại ông Tàu gìa này nữa, cũng như không còn thấy lại anh Tàu bán
thịt bò khô mà tôi đã ăn không biết bao nhiêu lần! Tôi không khỏi ngậm ngùi mỗi
khi nghĩ đến
Những
người muôn năm cũ,
Hồn
ở đâu bây giờ?
(Thơ Vũ Đình Liên)
Trở lại hồ Hoàn Kiếm thì
vì ở một vị trí thuận lợi nên đây còn là nơi để các tổng cuộc thể thao Bắc Phần
thỉnh thoảng tổ chức những buổi trình diễn thể thao như đua xe đạp hay bơi lội.
Những cuộc đua xe đạp
nước rút được tổ chức dọc theo đường Đinh Tiên Hoàng và đích tới đặt trước vườn
hoa Chí Linh. Những cua-rơ Hà Nội nổi tiếng nhất thời đó là Ngô Văn Lai và Lai
Kou Chi, một anh Tàu lai. Mùa hè năm 1951, một cuộc đua đường trường được tổ
chức chạy quanh hồ Hoàn Kiếm mấy chục vòng, có sự tham dự của cả các tay đua từ
Sài Gòn ra, trong số có cua-rơ Lê Thành Các, từng nổi tiếng là con “Phượng
Hoàng”, vua leo núi trong những cuộc đua chạy nhiều chặng Vòng Quanh Đông Dương
vào các năm trước 1945 do người Pháp tổ chức. Những cuộc đua này nằm trong
phong trào thể thao do Giám Đốc Thể Dục và Thể Thao Đông Dương là Đại Tá Hải
Quân Ducuroy phụ trách. Lần đua này, tay đua Lê Thành Các tuy đã luống tuổi
nhưng vẫn đoạt giải nhất, quả đã xứng đáng với danh hiệu “Phượng Hoàng”.
Một cuộc thi bơi trong
hồ Hoàn Kiếm đã được tổ chức dường như cũng vào năm 1951 với sự có mặt của
nhiều danh thủ trên sông nước thời tiền chiến như Củ, Mủn, …Đây là những tên
tuổi ở trong đoàn bơi lội của Tuần Phủ Cung Đình Vận trước kia đã từng đoạt
nhiều giải và lần này họ vẫn đủ phong độ để tiếp tục đứng đầu trong bảng sắp
hạng.
Có lẽ sẽ là một sự thiếu
sót nếu không nhắc tới những kỳ chợ phiên (kermesse) tại hồ Hoàn Kiếm, hay nói
rộng ra là ở Hà Nội.
Chợ phiên ở Hà Nội được
tổ chức lần đầu trong khoảng một tuần vào dịp tết Canh Dần, đầu năm 1950 tại
sân trường trung học Chu Văn An, lúc đó trường sở nằm ở trường nữ trung học
Đồng Khánh cũ tại phố Hàng Bài. Dù chợ phiên mở tại một địa điểm chật hẹp,
nhưng vì là lần đầu nên vẫn có nhiều người lui tới.
Lần thứ nhì chợ phiên
được mở ra ở một khu trong khuôn viên Vườn Bách Thảo vào thời gian lễ Giáng
Sinh tháng 12, 1950 cuối năm Canh Dần. Địa điểm rộng lớn hơn hẳn sân trường Chu
Văn An, nhưng vì ở vào chỗ không thuận tiện, cách khá xa trung tâm thành phố,
cho nên người đi xem không đông đảo lắm.
Chỉ chừng hơn một tháng
sau, đúng vào những ngày đầu xuân Tân Mão cuối tháng 1 năm 1951, thành phố lại
tổ chức chợ phiên lần nữa, và lần này ngay tại hồ Hoàn Kiếm. Khu vực chợ phiên
được rào kín chung quanh ở phía tây dọc theo đường Lê Thái Tổ, từ trước nhà
Thủy Tạ kéo dài xuống tới gần sở cẩm Hàng Trống quây lại gần phân nửa vườn hoa
phía nam hồ. Ranh giới khu vực chợ phiên dựng trên lề đường phía bên hồ cho nên
đường Lê Thái Tổ và khúc đường Hàng Trống nối tiếp xe cộ vẫn lưu thông được như
thường. Địa điệm thuận lợi ngay trung tâm thành phố, cho nên chợ phiên kéo dài
trên hai tuần mà khách vẫn tấp nập vào ra.
Lại vào dịp lễ Giáng
Sinh tháng 12 năm 1951, chợ phiên được mở lần này tại Ấu Trĩ Viên trên đường Lý
Thái Tổ, gần góc công viên Chí Linh. Điều đáng nói tới nhất là chợ phiên này
cho tổ chức đánh bạc tự do mà mục đích được cho biết là để lấy tiền giúp cho
binh sĩ và gia đình trong dịp Tết Nguyên đán sắp tới. Đây là một hình
thức kiểu như Cây Mùa Xuân sau này. Nghe nói Thống Tướng De Lattre de Tassigny,
Tổng Tư Lệnh Quân Đội Pháp kiêm Cao Ủy Pháp tại Đông Dương đề nghị thực hiện.
Chợ phiên này lúc nào cũng đông đảo, thiên hạ không có mấy dịp được tha hồ tự
do chơi trò đen đỏ như thế này. Tin báo chí cho biết có người vì thua bạc mà tự
tử, có gia đình xào xáo đi đến tan vỡ. Cũng may mà chợ phiên chỉ mở không qúa
hai tuần.
Rồi cũng như một năm
trước, chợ phiên lại đuợc tổ chức ở hồ Hoàn Kiếm, địa điểm và cách thức cũng y
hệt như năm ngoái, vào dịp đầu năm Nhâm Thìn, tháng 1 năm 1952. Ban tổ chức lần
này có một sáng kiến. Họ cho bắc một nhịp cầu phao (ponton) từ bờ hồ ra tới
Tháp Rùa, chọn đoạn đường ngắn nhất, vào khoảng trên 50 thước. Ai muốn đi qua
cầu để lên thăm Tháp Rùa thì mua vé giá 5 đồng một người, giá của một bát phở
thời đó. Ấy thế mà người ta đua nhau ra coi, trong số đó có tôi, để không bỏ lỡ
cơ hội có một cảm giác đặc biệt, cảm giác đã đặt chân lên một di tích lịch sử
có tính chất huyền thoại. Đây cũng là kỳ chợ phiên cuối cùng ở Hà Nội, những
năm sau đó chắc vì tình hình chiến sự ngày càng nặng nề nên thành phố không
nghĩ đến chuyện tổ chức tiếp nữa.
Người Hà Nội có câu: ở
đây đi lạc đường, cứ tìm đến được hồ Gươm là sẽ kiếm ra lối về nhà, vì ở Hà Nội
đường nào cũng dẫn tới hồ Gươm. Đúng thế! Mấy chục năm xưa, người Pháp làm ra
một hệ thống đường xe điện (tramway) đi quanh các khu phố Ta và trạm đậu chính
nằm bên con đường ngay trên phía bắc hồ Gươm, trông thẳng vào khu phố cổ
Ông
Tây ngồi nghĩ cũng sành
Sinh
ra tàu điện chạy quanh phố phường.
Ông Tây không cho xe
điện chạy quanh trong khu phố Tây, vì ông Tây Bà Đầm không đi xe điện, cần đi
đâu họ đã có xe ô-tô hay xe tay do phu xe kéo. Từ điểm xuất phát tại hồ Gươm
này, có 3 lộ trình xe điện chạy đưa đi khắp các khu phố ta…
Một đường đi suốt phố
Đinh Tiên Hoàng dọc phía đông hồ Gươm về hướng nam qua ngã tư Trường Tiền thì
vào phố Hàng Bài cắt ngang mấy đại lộ trong khu phố Tây. Hết Hàng Bài là tới
phố Huế, 1 khu phố Ta với Chợ Hôm buôn bán tấp nập chạy dài tới Ô Cầu Rền, một
trong năm cửa ô xưa của Thăng Long thành, nơi cư ngụ của những dân nghèo Hà
Nội.
Cầu
Rền mưa dầm lầy lội
Gió
về đã buốt lòng chưa.
(thơ Tạ Tỵ)
Tới đây là bắt đầu vào
khu ngoại ô phía đông nam Hà Nội, sau cùng đi tiếp là đến Bạch Mai.
(còn tiếp)
© Đỗ Văn Minh
Mời click các links dưới đây để xem toàn bộ "Hà Nội: 1948-1954 Những Năm Tháng Cũ"
Hà Nội: 1948-1954, những năm tháng
cũ-Phần 2- Đỗ Văn Minh
No comments:
Post a Comment