Hội Tam Điểm ( Freemasonry)
Thuật ngữ Hội Tam Điểm (tiếng Anh: Freemasonry; tiếng Pháp: Franc-maçonnerie,
nghĩa là "Nền tảng tự do") dùng để chỉ một tập hợp những hiện tượng
lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ một môi trường hội nhập mà việc
tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung[1] và các nghi lễ gia nhập có liên
hệ tới những ẩn dụ về người thợ xây đá.
Tên gọi trong tiếng Việt của
hội này là "Tam Điểm" được giải thích là do các hội viên người Pháp khi
viết thư cho nhau thường gọi nhau là Sư huynh/Sư đệ (frère), hay Đại Sư phụ
(maître), viết tắt F hay M và thêm vào phía sau 3 chấm như 3 đỉnh hình tam giác đều.
Lịch sử về Hội chưa thật rõ ràng, người ta
cho rằng Hội đã xuất hiện vào cuối thế kỷ 16 ở Scotland, sau đó là Anh,
rồi lan ra các quốc gia khác. Thay đổi theo từng thời kỳ và theo từng lãnh thổ,
Hội Tam điểm tự mô tả mình như một "hiệp hội những người thông thái và bác
ái", một "hệ thống luân lý miêu tả bằng các biểu tượng" hay một
"bí tích gia nhập". Bắt đầu trở thành một hội phái từ năm 1717
ở London, "Nền tảng
tự do" này được gọi là tư biện (speculative, hay phisolophical-tư tưởng)
trên các Nghĩa
vụ Cổ xưa và được gọi là có hiệu lực (operative) sự liên minh giữa
những người thợ xây xây cất, giữa những người khác, những nhà thờ[2].
Hội Tam điểm truyền bá một lối giáo dục có
tính bí truyền, tiên phong sử dụng những biểu tượng và nghi lễ. Nó khuyến khích
thành viên hành động vì sự tiến bộ nhân loại, nhưng để cho mỗi thành viên lựa
chọn cách để thực hành điều đó[3]. Hoạt động từ thiện là một trong
những phương thức hành động của họ [4]. Tôn chỉ này mang tính toàn thế giới
bất chấp sự thực hành và cách thức tổ chức của Hội là rất khác nhau tùy theo
mỗi quốc gia và mỗi thời kỳ. Hội tập hợp những người ở nhiều quốc gia khác nhau
trên thế giới muốn hiến thân cho sự vươn lên về phương diện tinh thần và luân
lý. Hội phát triển một số lượng lớn các nghi lễ và biểu tượng mà không phải
luôn luôn được thông hiểu giữa các thành viên.
Mục lục
·
1Lịch sử
·
2Tổ chức
Cho đến giữa thế kỷ 20, lịch sử Hội Tam Điểm vẫn bị loại
khỏi nền giáo dục lịch sử hàn lâm[5]. Những người ủng hộ lẫn chống đối
Hội Tam điểm đã đưa ra rất nhiều luận chứng đối nghịch nhau, hoặc đôi khi trùng
nhau thì lại sai, một ví dụ điển hình là vào cuối thế kỷ 19 đã lưu truyền một huyền thoại
phổ biến cho rằng chính Hội Tam điểm đã đứng sau cuộc Cách mạng Pháp năm
1789.
Tuy nhiên về sau nghiên cứu lịch sử Hội Tam
điểm đã phát triển mạnh, tách ra thành một ngành riêng(tiếng Pháp: maçonnologie),
bao gồm các nghiên cứu rộng rãi về một thế giới văn hóa và trí thức xoay quanh
Hội Tam Điểm. Nó chủ yếu đề cập tới các hoạt động cá nhân mà bộc lộ trí tưởng
tượng và những quan điểm rất đa dạng của các hội viên Tam Điểm hơn là cố xác
định một nhận thức luận khắt
khe nào đó; hoặc phức tạp hơn, liên quan tới cuộc đấu tranh giữa các quan điểm
và giữa các hội đoàn.
Việc nghiên cứu này có một lợi thế là số
lượng sử liệu phong phú, bao gồm các văn bản (thư từ trao đổi, bản thảo, văn
bằng, tranh khắc kẽm, tranh biếm họa, bài báo, v.v.), các vật nghi thức (bàn
tam điểm, bàn của các hội quán, đĩa và huân chương tưởng niệm) cùng các đồ vật
thông thường (đồng hồ, tẩu thuốc, hộp thuốc, v.v.) được trưng bày rộng rãi trong
nhiều bảo tàng và các triển lãm thường xuyên[5].
Mặc dù các cơ sở đầu tiên có lẽ đã xuất
hiện ở Scotland vào cuối thế kỷ 16, Hội Tam điểm vẫn thường thêm vào nguồn gốc
lịch sử một nguồn gốc cổ xưa hơn mang tính huyền thoại và biểu tượng. Họ định
vị nguồn gốc của mình trong thời gian dựa vào nghệ thuật xây cất. Trong giai
đoạn mà ngành cổ sinh vật học còn
chưa phát triển, lẽ tự nhiên họ coi nguyên khởi của hội đã xuất hiện từ thời
kỳ Adam (con người đầu tiên, theo quan điểm
hồi đó), hoặc Noeh (người xây dựng thuyền Ark vĩ đại trong truyền thuyết Do
Thái – Cơ đốc giáo), nhưng phổ biến hơn cả là thời kỳ xây dựng Đền
Jerusalem tức Đền Salomon bởi kiến trúc sư Hiram Abif.
Xuất hiện khoảng năm 1390, Bản thảo
Regius mô tả các thông lệ của hội Tam điểm đã xác lập một cách tượng
trưng sự liên hiệp giữa họ dưới sự bảo hộ của Euclid và Pythagoras những ông tổ của hình học, và
dưới sự bảo trợ của vua Athelstan nước Anh[6].
Năm 1736 ở Pháp, hiệp sĩ Andrew
Michael Ramsay đã liên hệ Hội Tam Điểm với lịch sử các Kỵ sĩ
Thập tự. Những người khác ở Anh và Pháp, muộn hơn một chút, đã biến
đổi nguồn tham khảo này sang một nguồn có tính biểu tượng liên hệ với Thánh chế La Mã hoặc
với Hiệp
sĩ Đền Thánh.
Sau việc ấn hành ở Pháp cuốn Séthos của
giám mục Jean
Terrasson năm 1731 và sau đó là việc tái khám phá Ai Cập cổ đại của
người phương Tây, một số nghi lễ Hội Tam Điểm cũng dời nguồn gốc biểu trưng về
thời kỳ xây dựng các Kim Tự Tháp[7].
Cuối cùng vào giữa thế kỷ 19, với việc khám
phá lại các di sản của thời Trung Cổ, huyền thoại Hội Tam Điểm được chuyển
dời và tăng cường bằng những liên hệ với việc xây dựng các nhà thờ.
Tóm lại, sau tất cả những chỉnh sửa trên là
một huyền thoại về Hội luôn luôn được đặt dưới sự bảo trợ có tính biểu tượng
của tất cả những gì thúc đẩy sự tiến bộ, trong suốt lịch sử, nghệ thuật xây
dựng và những giá trị mà nó gợi lên.
Một hội quán tam điểm (tiếng Anh: lodge,
tiếng Pháp: loge) là cơ sở địa phương của Hội Tam Điểm, thông
thường tập hợp khoảng vài chục hội viên.
Hội quán tam điểm cổ nhất mà người ta biết
được đã được tổ chức như một phường hội riêng rẽ của thợ xây nhà nguyện Mary
ở Edinburgh dưới sự lãnh đạo của William
St Clair[8]. Phần lớn các cơ sở riêng lẻ đầu
tiên của hội đều ở Scotland và tuân theo các Điều
khoản Shaw. Tất cả đều đòi hỏi quyền tự trị và thực hành:
·
một nghi lễ cổ xưa gia nhập phường hội gọi
là nghi lễ Nghĩa
vụ cổ xưa
·
hoặc, chịu ảnh hưởng của dòng đạo Tin
Lành Trưởng Lão, một nghi
lễ rất đơn giản gọi là Lời tam
điểm (tiếng Anh: Mason's Word, rõ ràng liên hệ
với "God's Word – lời của Chúa").
Cả hai nghi lễ này không phải là đặc biệt,
trái lại, khá tương tự với những nghi lễ của các phường hội khác, như hội
"Người làm vườn tự do" (Free Gardeners)[9]. Tuy nhiên nhờ vào uy tín của nghề
thợ nề trong giai đoạn ấy, các nghi lễ này nhanh chóng trở nên thông dụng trong
hàng ngũ của họ, và dần dần đã có những quý tộc và tư sản tham gia vào hội, số
này sau khi gia nhập tiếp tục hoạt động nhưng thường ít tham gia các buổi họp ở
hội quán.
Gần cuối thế kỷ 17, đã có khoảng ba chục
hội quán ở Anh. Ngài Robert
Moray gia nhập ở Newcastle năm 1641 và nhà bác học nổi
tiếng Elias
Ashmole ở Warringtion, Lancashire năm 1646. Ashmole viết trong
nhật ký rằng ông vẫn liên tục quan tâm tới Hội Tam Điểm nhưng phải hai mươi năm
sau mới trở lại hội quán. Cho tới khoảng thời gian này các cơ sở hội ở Anh vẫn
chỉ tập hợp chủ yếu các thị dân trung lưu, các thợ thủ công và tiểu thương.
Chúng đã hầu như không dính dáng tới nghề thợ nề nữa và có liên hệ với các tổ
chức tương tự như Free Gardeners hay Oddfellows. Tôn chỉ chủ yếu của nó là lòng
từ thiện và tinh thần tương thân tương ái, trong một thời kỳ mà chưa có những
bảo trợ xã hội công cộng. Nó giúp đỡ những thành viên bị ốm đau hay mất việc
làm, lo việc đám tang của các thành viên hoặc nếu cần thiết chăm sóc cho vợ góa
con côi của họ.
Cách thức cụ thể các hội quán Tam Điểm thực
thụ (gọi là tư biện – speculative) tách khỏi các phường hội nghề nghiệp
(operative) ra sao còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia nghiên
cứu Hội Tam Điểm. Một giả thuyết, gọi là lý thuyết chuyển vị (theory
of transition) theo đó quá trình chuyển hóa diễn ra từ từ ở Anh trong suốt thế
kỷ 17, hiện nay được ít sử gia ủng hộ. Dường như vào thời kỳ chiến tranh với
nước Anh, một số phường hội thợ nề ở Scotland đã thu nhận những thành viên ở
ngoài ngành nghề của mình, đó là những thành viên danh dự và hầu như không tham
dự các cuộc họp. Muộn hơn một chút, vào nửa cuối thế kỷ 17, nhiều quý tộc
Scotland đã tham gia vào những hội quán mà trong đó các thành viên thợ nề là
rất hiếm[10]. Cũng thời kỳ đó ở Anh, các phường
hội thợ nề đã không còn. Mối liên hệ giữa hai loại hội quán do đó có thể đã
được thiết lập thông qua các hội hữu ái, cùng với ảnh hưởng của các quý tộc
Scotland theo phái Jacobite[10] rồi sau đó là các trí thức như
Robert Moray, Elias Ashmore hay James
Anderson, những người gia nhập những hội quán gốc Scotland nhưng
hoạt động ở Anh[11].
Một Đại hội quán (tiếng
Anh: Grand Lodge) là một tập hợp nhiều hội quán (lodge).
Ngày 24 tháng 6 năm 1717, ngày lễ thánh St
Jean, bốn hội quán ở London ("Ngỗng và Món Nướng",
"Cốc Vại và Nho", "Quả Táo" và "Vương Miện") đã
họp ở quán rượu "The Goose and Gridiron" lập nên Đại hội quán đầu
tiên, "Đại hội quán của London và Westminter"[12], sau đổi tên thành Đại hội quán Anh
(Grand Lodge of England).
Nhóm này sau đó được gọi, một cách không
chính thức, là những người hiện đại (The Moderns). Họ đề cao
bản Hiến
chương Anderson ban hành tháng 1 năm 1723 soạn thảo bởi thầy tu
dòng Trưởng Lão người Scotland James
Anderson với sự giúp đỡ của thầy tu, nhà khoa học theo Anh giáo John Theophilus
Desaguliers, đồng thời tìm cách tổng hợp nghi lễ Nghĩa vụ cổ
xưa với nghi lễ Lời Tam điểm thành một nghi lễ rộng
rãi hơn trong quan niệm về "tôn
giáo tự nhiên" [13] vốn đóng khung trong sự dẫn
giải về Tam
Vị Thánh Thể[14].
Một phần lớn nhờ việc thành lập Đại hội
quán ở Anh mà sau đó tổ chức Hội Tam Điểm lan ra khắp lục địa châu Âu hai mươi
năm sau đó, rồi dần dần ảnh hưởng tới các thuộc địa của các nước châu Âu trên
thế giới. Các hội quán đáng chú ý đã được thiết lập ở Nga (1717), Bỉ (1721), Pháp (1725), Tây Ban Nha (1728), Italia (1733), Đức (1736))[15]. Ở Pháp, Italia và một mức độ thấp
hơn ở các quốc gia châu Âu khác, tồn tại những hội quán độc lập với Đại hội
quán ở Anh, do một số quý tộc Jacobite người Scotland lưu đày thành lập. Các
Đại hội quán xuất hiện sau đó: ở Ireland (1725),
Scotland (1736), Pháp (1738).
Vài năm sau, tập hợp xung quanh hội quán
York và sau đó là những hội quán London khác, một Đại hội quán nữa ra đời ở
Anh, gọi là "Đại hội quán Tam điểm cổ điển" (Antient Grand Lodge of
England), đối lập với Đại hội quán trước. Nó đề cao bản Hiến chương Laurence
Dermott (1751) và tìm cách lan tỏa ảnh hưởng trong nước lẫn ngoài nước Anh,
nhất là ở Bắc Mỹ. Cuộc cạnh tranh giữa hai phái (Tân phái và Cựu phái – The
Moderns and The Ancients) kéo dài suốt nửa sau thế kỷ 18.
Trong thời kỳ cuộc Chiến
tranh Napoleon, hai Đại hội quán Anh đã hợp nhất, vào năm 1813,
thành một tổ chức gọi là "Đại hội quán Anh thống nhất". Trong khi đó
ở Pháp, Hoàng đế Napoleon I áp
đặt sự tái tổ chức các chi hội trong một tổ chức gọi là "Grand Orient de
France" với định hướng gần gũi với Cựu phái.
Một nghi lễ tam điểm là một tập hợp những
nghi thức và lễ bái tam điểm.
Vào thế ký 17, các nghi thức tam điểm, đơn
giản hơn nhiều những thế kỷ sau này, thường không được chép lại và càng không
được in ra do đó ngày nay người ta hầu như không còn biết đến chúng nữa ngoại
trừ qua một số rất ít những ghi chép và những lời tiết lộ. Việc nghiên cứu các
tài liệu có được cho thấy những nghi lễ này đã biến đổi khá nhiều theo thời
gian[16].
Trong thế kỷ 18, với việc tái tổ chức thành
các Đại hội quán, cả Cựu phái lẫn Tân phái đều thực hiện các nghi thức mới
tương tự cho nhau, chỉ có vài điểm khác biệt đáng kể như việc đặt các vật biểu
trưng, cách thức truyền các mật ngữ hay sự dính líu nhiều hay ít tới tôn giáo
Cơ đốc.
Tuy nhiên, từ những năm 1740, người ta nhận
thấy những sự phân kỳ mới, bên cạnh những nghi thức của ba cấp độ truyền thống,
dưới hình thức hàng trăm các cấp độ bổ sung gọi là cấp độ cao mà
nhiều trong số đó chỉ là những biến thể của nhau, hoặc chúng chỉ là những dự
thảo mà chưa bao giờ được thực hành. Sự nhân lên các nghi thức tam điểm này đã
làm nảy ra những ý kiến phải chuẩn hóa chúng và nhóm lại thành những bộ nghi
thức mạch lạc và ổn định: những nghi lễ tam điểm. Các nghi lễ phổ biến nhất bao
gồm Nghi lễ thi đua (tiếng Pháp: Rite émulation), Nghi
lễ Scotland cổ xưa, Nghi lễ York, Nghi lễ Pháp. Gần
một chục các nghi lễ khác cũng được cử hành tương đối rộng rãi trên thế giới.
Sự khác nhau giữa tất cả các nghi lễ này thường chỉ là rất ít ở ba cấp độ cơ
bản và chỉ trở nên đáng kể ở các cấp độ bổ sung mà đôi khi được gọi là cao
cấp.
Hội Tam Điểm được tổ chức thành các hội
quán (loge, lodge). Đó là các nhóm cơ sở và nắm quyền lực chủ yếu của hội, nhất
là quyền tuyển lựa thành viên mới. Các hội quán hợp thành các hội phái (tiếng
Pháp: obédience, tức các Đại hội quán - Grand Lodge hoặc ở Pháp và vùng ảnh
hưởng là các Grand Orient). Trên hết, thuật ngữ, dòng hội Tam Điểm (tiếng Pháp:
Ordre maçonnique) để chỉ một ý tưởng về một hội Tam Điểm toàn cầu(chứ không
phải một cấp tổ chức thực sự). Kiểu mẫu tổ chức này của hội tam điểm được vay
mượn bởi rất nhiều tổ chức phi tam điểm, nhất là ở Anh và Hoa Kỳ, như những tổ chức tương tế xã hội
hoặc B'nai
B'rith.
Dựa trên sự khác nhau về nghi thức tam điểm
giữa các hội phái mà người ta có thể nhìn nhận Hội Tam Điểm bao gồm hai nhánh
chính:
·
Nhánh truyền thống cũng là nhóm phổ
biến hơn trên thế giới, tập hợp hầu hết các hội phái kết nạp một cách thường
xuyên.
·
Nhánh tự do không áp đặt bất kỳ
niềm tin cụ thể và chấp nhận vô thần.
Hội chống lại hội tam điểm có định nghĩa là
"đối lập với hội tam điểm",[17][18] nhưng không có bất cứ một
phong trào chống lại hội tam điểm một cách đồng nhất. Hội chống lại hội tam
điểm bao gồm những lời chỉ trích khác nhau từ các nhóm khác nhau (và thường
không tương thích) là những nhóm chống đối hội tam điểm dưới một hình thức nào
đó. Các phe phái chỉ trích hội tam điểm bao gồm các nhóm tôn giáo, các nhóm
chính trị, và các thuyết âm mưu.
Hội tam điểm đã thu hút sự chỉ trích từ các
quốc gia thần quyền và những tổ chức của các tôn giáo vì hội tam điểm đã có ý
muốn cạnh tranh với các hệ tư tưởng tôn giáo, hoặc cho là có mục đích mang đến
sự rối loạn chia rẽ trong nội bộ cộng đồng giới chức sắc lãnh đạo tôn giáo và
những người giáo dân, và từ lâu hội tam điểm cũng là đối tượng được đề cập đến
trong các lý thuyết âm mưu, mà khẳng định rằng hội tam điểm là một hội kín
huyền bí và mang đầy quyền lực độc ác.[19]
Người Do Thái bị coi là
có dính líu với hội tam điểm theo góc nhìn của thế giới Hồi Giáo
Rất nhiều lý luận đến từ thế
giới Hồi Giáo mang nội dung chống đối hội tam điểm thường đi
kèm với chủ nghĩa bài Do Thái và ý thực hệ đấu tranh chống lại chủ nghĩa phục
quốc của người do thái, và còn có cả những lời chỉ trích kết nối hội tam điểm
với Al-Masih ad-Dajjal (đấng cứu thế giả mạo)[20][21]. Một số tín
đồ hồi giáo có tư tưởng chống lại hội tam điểm, thì cho rằng
mục đích chính của hội tam điểm là mang lại những lợi ích và lợi nhuận cho
những người Do Thái đang sinh sống ở khắp mọi nơi trên thế giới và mục tiêu
chính của hội tam điểm là giúp đỡ người do thái trong sứ mệnh hủy diệt Nhà thờ Hồi giáo
Al-Aqsa để tái xây dựng lại Đền Solomon ở Jerusalem[22]. Trong điều 28 của Hiệp ước, Hamas
tuyên bố rằng Hội tam điểm, Rotary International và các nhóm tương tự khác
"làm việc vì lợi ích của chủ nghĩa phục quốc của người Do Thái và tuân
phục theo các hướng dẫn của chủ nghĩa đó..."[23]
Rất nhiều quốc gia với số lượng người
Hồi Giáo là đa số, những quốc gia này không cho phép sự thành
lập cơ quan tổ chức của hội tam điểm trong lãnh thổ đất nước của họ. Tuy nhiên,
những quốc
gia Hồi giáo khác như Thổ Nhĩ Kỳ và Morocco đã thành lập các
Grand Lodges[24], và trong khi đó ở Malaysia [25][26] và Lebanon[27] có các khu Grand Lodges hoạt
động theo mệnh lệnh của cơ quan tổ chức Grand Lodge.
Ở Pakistan vào năm 1972, Zulfikar Ali Bhutto,
sau đó làm Thủ tướng Pakistan,
đã đưa ra lệnh cấm về hội tam điểm. Những tòa nhà Lodge bị chính phủ Pakistan
tịch thu.[28]
Năm 1799, Hội Tam Điểm Anh quốc gần như bị
đình chỉ hoạt động do tuyên bố của Quốc hội. Sau Cuộc Cách mạng Pháp, Đạo luật
Các Tổ chức Bất hợp pháp đã cấm bất kỳ cuộc hội họp nào của các nhóm và yêu cầu
các thành viên của họ phải tuyên thệ hay buộc phải làm nghĩa vụ phát giác và
báo cáo cho các cơ quan chính phủ.[29]
|
4.
^ Đặc biệt đúng với hội Tam Điểm ở khu
vực nói tiếng Anh, xem Masonic Medical Centre for Children (truy
cập 02/09/2011)
5.
^ a ă (Dachez 2003, tr. 8-11)
7.
^ "Cuốn 'Séthos' trước hết là
một tác phẩm hư cấu, trừ sự vay mượn từ Diodor
xứ Sicilia và các tài liệu khác, và các mô tả liên quan đến các
sự kiện khác nhau có liên quan đến những bí mật về Isis, đã thu hút được trí
tưởng tượng của các độc giả của thế kỷ 18", James Stevens Curl, giáo
sư đại học Montfort, Leicester, các chủ đề trang trí Ai Cập và tam điểm trong L'Égyptomanie
à l'épreuve de l'archéologie, Louvre, éd. du Gram, 1996, p. 349
10.
^ a ă (Kervella 2009, tr. 31-57)
11.
^ Roger Dachez, Les origines de
la maçonnerie spéculative, état des théories actuelles, trên tạp chí
"Renaissance traditionnelle", xem trực tuyến (không truy cập được -
02/09/2011)
17.
^ "Anti-Masonry" – Oxford
English Dictionary (Compact Edition), Oxford University Press, 1979, p.369
18.
^ “Antimasonry – Definition of Antimasonry by Webster
Dictionary”. Webster-dictionary.net. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm
2011.
20.
^ Sands, David R (1 tháng 7 năm
2004). “Saddam to be formally charged”. The
Washington Times. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2006.
21.
^ Prescott, Andrew. The Study of Freemasonry as a New Academic Discipline.
tr. 13–14. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2008.
23.
^ “Hamas Covenant 1988”. Avalon.law.yale.edu. 18
tháng 8 năm 1988. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2011.
28.
^ Peerzada Salman, "Masonic Mystique", December
2009, Dawn.com (News site), retrieved 3 January 2012
29.
^ Andrew Prescott, "The Unlawful Societies Act",
First published in M. D. J. Scanlan, ed., The Social Impact of
Freemasonry on the Modern Western World, The Canonbury Papers I (London:
Canonbury Masonic Research Centre, 2002), pp. 116–134, Pietre-Stones website,
retrieved 9 January 2014
Tìm hiểu thêm về
Freemasonry tại các dự án liên quan |
|
Từ
điển từ Wiktionary
|
|
Tập tin
phương tiện từ Commons
|
|
Tin tức từ
Wikinews
|
|
Danh ngôn từ
Wikiquote
|
|
Văn kiện từ
Wikisource
|
|
Tủ sách
giáo khoa từ Wikibooks
|
|
Tài nguyên
học tập từ Wikiversity
|
·
Freemasonry article from the 1911 (11th
Ed.) Encyclopedia
Britannica.
·
Web of Hiram at the University of
Bradford. A database of donated Masonic material.
·
Masonic Books Online of the Pietre-Stones
Review of Freemasonry
·
The Constitutions of the Free-Masons (1734),
James Anderson, Benjamin Franklin, Paul Royster. Hosted by the Libraries at the
University of Nebraska-Lincoln
·
The Mysteries of Free Masonry, by William
Morgan, from Project Gutenberg
·
A Page About Freemasonry the world's
oldest Masonic website (không truy cập được 02/09/2011).
No comments:
Post a Comment