Tiểu sử tác giả: Giáo Sư Nguyễn Văn Tuấn
Ông sinh ra và lớn lên tại Kiên Giang. Vượt biên rời Việt Nam bằng thuyền năm 1981, năm 1982 ông sang định cư tại Úc.
Khi sang Úc định cư, ông bắt đầu bắc các công việc phụ bếp, rồi làm phụ tá trong phòng thí nghiệm sinh học tại Bệnh viện St. Vincent’s.
Từ năm 1987-1997: Ông lần lượt tốt nghiệp Thạc sĩ thống kê Đại học Macquarie (Úc), Tiến sĩ y khoa Đại học New South Wales (Úc), Nghiên cứu sinh sau tiến sĩ (postdoc) tại đại học Wright State, Mỹ và Đại học Basle, Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Sandoz (Thụy Sĩ) và Bệnh viện St.Thomas (Anh).
Năm 2009, ông được bổ nhiệm chức danh Giáo sư kiêm nhiệm tại Đại học New South Wales (Úc) trong khi công việc chính vẫn là nghiên cứu viên chính của viện Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Úc. Từ năm 2008 - 2013 ông được làm Nghiên cứu viên cao cấp Hội đồng quốc gia về nghiên cứu y khoa và y tế Úc (NHMRC).[1]
Trên trường quốc tế ông đã có gần 150 công trình nghiên cứu khoa học mà 70% là về di truyền học, 30% là dịch tễ học.
Ngoài lĩnh vực Y khoa tạo nên tên tuổi, ông cũng dành thời gian viết về nghiên cứu văn học và báo chí, với những bài viết sắc sảo trên những tờ báo lớn ở Việt Nam.
ooOoo
Giấu Tay (Hidden Hand)
Những
cuộc xâm lăng mềm (đọc sách "Hidden Hand" của
Clive Hamilton và Mareike Ohlberg)
June
27, 2020
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
Giáo sư Nguyễn Văn Tuấn
Hai
tác giả Clive Hamilton và Mareike Ohlberg mới xuất bản một
cuốn sách nhan đề "Hidden
Hand" (Giấu Tay). Cuốn sách
là một công trình sưu khảo công phu về những cuộc xâm
lăng và khuynh đảo của Trung Cộng vào hệ thống chánh
trị, kinh tế, khoa học, văn hoá, và truyền thông ở các
nước phương Tây. Có thể xem đó là cuộc xâm lăng mềm,
với tiền là phương tiện chánh. Đây là một cuốn sách
hết sức thú vị, cung cấp rất nhiều thông tin mang tính
mở mắt cho những ai quan tâm đến thời cuộc và sự ảnh
hưởng của Trung Cộng trên trường quốc tế, kể cả
Việt Nam. Bài điểm sách này sẽ điểm qua những nội
dung chánh, và chia sẻ vài thông điệp chánh trong cuốn
sách.
Ở
Úc, tuần vừa qua xảy ra một biến cố chánh trị làm
cho cuốn sách này trở nên tâm điểm của thời cuộc.
Một thượng nghị sĩ Úc tên Shaoquett Moselmane (gốc
Lebanon) bị cảnh sát xét nhà riêng sau một thời gian bị
cơ quan tình báo Úc ASIO điều tra về những mối liên hệ
giữa ông với đảng cộng sản Trung Cộng. Ông dân biểu
đã là đối tượng được báo chí theo dõi về mối liên
hệ giữa ông và đảng cộng sản Trung Cộng. Từ năm
2018, ông và người phụ tá là John Zhang (gốc Tàu) có
những phát biểu ủng hộ nhà cầm quyền Trung Cộng và
chỉ trích những chánh sách cứng rắn của Úc đối với
Trung Cộng.
Báo
chí Úc cho biết nếu chứng cớ từ cuộc điều tra đầy
đủ, ông dân biểu này có thể bị truy tố ra toà về
tội giúp cho thế lực nước ngoài can thiệp vào chánh
trường Úc. Nếu bị truy tố thì đây là trường hợp
đầu tiên trên thế giới về sự can thiệp của nước
ngoài vào chánh trường địa phương. Những gì diễn ra
trong trường hợp của vị dân biểu này có thể nói là
rất phù hợp với những chiến lược gây ảnh hưởng
của Trung Cộng trong các thể chế dân chủ ở phương
Tây.
Chiến
Tranh Lạnh
Từ
điển tiếng Anh định nghĩa Hidden Hand là thế lực gây
ra những tác động tiêu cực. Hidden Hand cũng có thể hiểu
là những người ở vào vị trí quyền lực cao nhứt
nhưng giấu mặt. Hidden Hand cũng có thể là một hội ái
hữu kiểm soát một mạng hội kín, và những hội kín
này thực hiện những mệnh lệnh của thế lực cấp
trên. Thường, những người thực hiện mệnh lệnh không
biết ai là người ra lệnh.
Có
lẽ mượn ý nghĩa đó, nên hai tác giả Clive Hamilton và
Mareike Ohlberg (H&O) đặt tựa đề cho cuốn sách mới
là Hidden Hand [1] để mô tả những hoạt động của Đảng
cộng sản Trung Cộng (CCP) nhằm lũng đoạn chánh trường
phương Tây và thiết lập một trật tự thế giới mới
theo ý tưởng của những kẻ điều hành CCP, mà người
đứng đầu hiện nay là Tập Cận Bình.
Tại
sao Hidden Hand? Thật ra, đây là cuốn sách nối tiếp cuốn
Silent Invasion (Cuộc xâm lăng thầm lặng) công bố vào năm
2017 mà tôi có điểm sách [2]. Silent Invasion viết về
những chiêu trò xâm lăng vào Úc của CCP, còn Hidden Hand
thì viết về cuộc xâm lăng của CCP vào các nước phương
Tây. Cuộc xâm lăng này diễn ra trên tất cả lãnh vực,
từ chánh trị, kinh tế, khoa học – công nghệ, gián
điệp, đến văn hoá.
Cứ
mỗi lần Mĩ hay Úc nêu những hành động hung hãn của
Trung Cộng ở Biển Đông (hay bất cứ nơi nào trên thế
giới), thì phía Trung Cộng đều cho viên phát ngôn than
phiền rằng Mĩ dùng ngôn ngữ thời Chiến Tranh Lạnh, là
khơi dậy chủ nghĩa McCarthy. Mới đây, trong lúc mối quan
hệ ngoại giao giữa Úc và Trung Cộng hơi căng thẳng,
viên phát ngôn Tàu cũng nói rằng Úc hành xử như thời
Chiến Tranh Lạnh.
Ngoài
miệng thì than phiền như thế, nhưng về thực chất thì
Trung Cộng đã thực hiện Chiến Tranh Lạnh từ … 30 năm
trước. Theo H&O, Trung Cộng sau thời chế độ Xô Viết
sụp đỗ tự xem mình bị vây hãm bởi các kẻ thù, và
những kẻ thù này cần bị đánh bại và vô hiệu hoá.
Để đánh bại kẻ thù, CCP đã phát động một cuộc
Chiến Tranh Lạnh từ thập niên 1990!
Trong
Lời nói đầu, tác giả cho biết nhiều người trong giới
trí thức ở phương Tây đánh giá thấp hay bác bỏ sự
đe doạ của Trung Cộng đối với nền dân chủ phương
Tây. Hai tác giả cho rằng đó chính là lí do tại sao họ
viết Hidden Hand. Nói cách khác, tác giả muốn 'giáo dục'
những ai còn ngây thơ với mối đe doạ từ Trung Cộng.
Sách
bao gồm 13 chương, bàn những vấn đề về sự vận hành
và tổ chức của CCP, cách thức mà nó tranh thủ vận
động trong và ngoài nước qua mạng lưới công an và gián
điệp, các biện pháp kiểm soát hệ thống truyền thông,
các chương trình lũng đoạn thông tin ở phương Tây, và
ý tưởng thay đổi trật tự thế giới. Nội dung chánh
của sách chỉ chừng 270 trang, nhưng phần tham khảo và bị
chú chiếm 130 trang, chứng tỏ tác giả đã đầu tư rất
nhiều công sức và thời giờ vào việc soạn thảo cuốn
sách.
CCP
và những người bạn
CCP
đã xây dựng hẳn một mạng lưới ảnh hưởng trên đất
Mĩ từ thập niên 1970. Họ có khả năng và đã mua chuộc
rất nhiều kí giả, nhà khoa học, học giả, thậm chí
chánh trị gia và những nhà vận động làm việc cho họ.
Cả Joe Biden và Donald Trump đều xem mình là "bạn"
của Tập Cận Bình. Dưới thời Obama, Mĩ đã đứng
khoanh tay nhìn Trung Cộng xây dựng những công trình quân
sự trên Biển Đông, vì Obama cũng đánh giá thấp mối đe
doạ của Trung Cộng. John Bloomberg, ứng cử viên phó tổng
thống Mĩ, cũng có thể xem là một người bạn thân của
Tập. Chẳng những các chánh khách, mà gia đình của họ
(như gia đình của Donald Trump, con rể Jared Kushner và con
gái Ivanka Trump) cũng là bạn thương mại với Trung Cộng.
Trung Cộng đã có những người bạn như thế giúp cho họ
đạt được những mục tiêu dài hạn.
Nhưng
đừng tưởng rằng Trung Cộng xem mọi người bạn như
nhau. Đối với CCP, cái gì cũng được phân nhóm, và bạn
bè cũng được phân nhóm. Phân nhóm để có chánh sách
đối phó và đối xử. Đối với người ngoại quốc,
CCP chia thành 4 nhóm như sau:
- Nhóm 1 là những người bạn. Đây là những người đồng ý với và ủng hộ chủ trương của CCP hết mình. Họ thường được trích dẫn trên hệ thống truyền thông của TC;
- Nhóm 2 là những người bạn có thể tin được. Họ thường là những người trong giới doanh nhân mà CCP có thể dựa dẫm vào, nhưng không thể tin tưởng;
- Nhóm 3 là những học giả và giới kí giả. Đây là những người yêu Trung Cộng, nhưng biết rõ những chiêu trò xấu và bẩn của cộng sản và CCP;
- Nhóm 4 là 'kẻ thù'. Đây là những người yêu Trung Hoa và văn minh Trung Hoa, nhưng ghét cộng sản. Đây là những kẻ mà CCP sẵn sàng bôi nhọ mỗi khi có dịp;
- Nhóm 5 là 'thờ ơ'. Đây là những người không biết và không cần biết về Trung Cộng. Trong cái nhìn của CCP, đây là những người có ích và có thể gây ảnh hưởng bằng cách mời họ xuất hiện trong các dịp lễ lạc để tạo ra ấn tượng tốt.
Trong
một chương viết về cách CCP lũng đoạn các quan chức
ngoại giao nước ngoài, H&O cho biết các đại sứ khi
mới tới Trung Cộng, họ trước hết bị 'cách li' với
các nhân vật cao cấp trong CCP. Sau đó một thời gian, họ
sẽ nhận được tin nhắn rằng một quan chức cao cấp
trong CCP muốn gặp họ. Mục tiêu là làm cho người được
mời đến gặp cảm thấy mình 'đặc biệt', được tin
cẩn, và có thể tiếp cận những thông tin mà người
khác không có. Tuy nhiên, đó chỉ là một chiêu trò tâm
lí để khai thác đối phương!
Khi
cần đe doạ, Trung Cộng dùng ngôn ngữ mơ hồ, mù mờ,
để cho đối tượng tha hồ đoán. Thật ra, đây là một
chiêu trò của người cộng sản Tàu, vì sự
mơ hồ có tác dụng gây sợ hãi nhiều người, và ai cũng
có thể là những kẻ thù của chế độ.
Đảng
và doanh nghiệp: hôn phối chánh trị
Trong
chế độ Trung Cộng, mối quan hệ giữa doanh nghiệp và
đảng là một cuộc hôn phối chánh trị. Mối liên hệ
giữa các cán bộ cao cấp trong đảng và doanh nghiệp diễn
ra 2 chiều: cá nhân và chánh trị. Các cán bộ cao cấp
trong đảng hoặc gia đình của họ đều đứng đằng sau
hay có quyền lợi tài chánh với doanh nghiệp, và họ
hưởng lợi từ doanh nghiệp. Trong mỗi doanh nghiệp cấp
trung và lớn đều có chi bộ của CCP, và chi bộ chính là
nhóm người định hướng, thậm chí điều hành, doanh
nghiệp. Các doanh nghiệp có cán bộ của đảng 'bảo trợ'
thường làm ăn khấm khá, và họ được ưu tiên nhiều
lãnh vực, kể cả đóng thuế ít hơn các công ti ngoài
đảng. Công cuộc chống tham nhũng mà Tập Cận Bình phát
động thật ra chẳng có ảnh hưởng gì đáng kể đến
các doanh nghiệp do CCP bảo trợ.
Có
thể nói tất cả các nhân vật đứng đầu các tập đoàn
lớn (như Alibaba, Baidu, Huawei, Tencent, v.v.) đều là đảng
viên của CCP hay tỏ lòng trung thành tuyệt đối với CCP.
Richard Liu (được xem là một Jeff Bezos của Trung Cộng)
từng nói rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ thành hiện thực
trong thế hệ này. Xu Jiayin, một đại gia bất động sản
tuyên bố rằng "tất cả
những gì tập đoàn sở hữu là do Đảng cho".
Đại gia kĩ nghệ nặng Liang Wengen thì cảm tính hơn khi
nói "cuộc đời của tôi
thuộc về Đảng".
Trong
quan hệ doanh nghiệp nước ngoài, CCP còn cài đặt người
vào các thiết chế kinh tế của Mĩ và Âu châu. Một
trong những thiết chế mà CCP nhắm tới để gây ảnh
hưởng là Wall Street. Trong chuyến viếng thăm Mĩ, thủ
tướng Trung Cộng không tới Washington trước, mà đến
New York, nơi mà ông có những cuộc hội kiến bận rộn
với các nhân vật trong hệ thống tài chánh Mĩ. Những
sếp của các tập đoàn lớn như JP Morgan, Merrill Lynch,
Morgan Stanley, Dow Jones, Goldman Sachs, Citigroup, Bank of America,
v.v. đều được tiếp đón trọng thị. Sau lần tiếp đón
là hàng loạt hợp đồng thương mại trị giá tỉ USD
được kí kết.
Nhưng
CCP còn nghĩ đến thế hệ tương lai, và các thiết chế
tài chánh Mĩ là mục tiêu. Câu lạc bộ công tử và tiểu
thơ (princelings) là một nhóm trong chương trình này. Chẳng
hạn như tập đoàn JP Morgan có một chương trình có tên
là "Sons and Daughters
Program" (nhưng các tập
đoàn Mĩ lớn đều có những chương trình tương tợ)
nhằm nâng đỡ các con cháu của các cán bộ cộng sản
cao cấp từ Trung Cộng. Chẳng hạn như Goldman Sachs chỉ
riêng năm 2013 đã có 25 con cháu cộng sản, trong đó có
cả cháu nội của Giang Trạch Dân (Jiang Zemin). Merrill
Lynch và Citigroup cũng có nhiều nhân viên là các công tử
và tiểu thơ của CCP, kể cả con dâu của Triệu Tử
Dương (Zhao Ziyang). Morgan Stanley thì mướn con trai của Chu
Dung Cơ (Zhu Rongji) và con gái của Chủ tịch của Ngân
hàng Phát Triển Chen Yuan. Đây là những công tử và tiểu
thơ đã hoặc đang theo học tại các trường hàng đầu
của Mĩ. Có thể nói [chương trình] "Sons and Daughters
Program" hoặc tương tợ là nơi ươm mầm cho thế hệ
elite tài chánh tương lai của Trung Cộng.
Hoa
kiều vụ
Hiện
nay, có khoảng 50 đến 60 triệu Hoa kiều ở nước ngoài.
CCP xem đây là một nguồn lực rất quan trọng trong chiến
lược ảnh hưởng thế giới. Trong 3 thập niên qua, Trung
Cộng đã có nhiều biện pháp và chương trình nhằm kéo
những Hoa kiều về 'đất mẹ' bằng cách này hay cách
khác. Một trong những tổ chức quan trọng nhứt của CCP
là "Mặt Trận Đoàn Kết" (United Front), với nhiệm
vụ chánh là quản lí Hoa kiều và cái mà họ gọi là
"qiaowu" (Hoa kiều vụ). Hai cơ quan phụ trách việc
hiện các chánh sách là Cục Người Hoa ở Nước Ngoài,
viết tắt là OCAO (rất giống với "Uỷ ban Người
Việt ở nước ngoài" của Việt Nam). Tuy nhiên, mạng
lưới tổ chức thì phức tạp hơn nhiều so với những
gì tôi mô tả (có thể xem trang 124-125 để thấy sơ đồ
tổ chức nhằm khuynh đảo Hoa kiều).
Một
số trong cộng đồng Hoa kiều ở nước ngoài trở thành
không chỉ là những tiếng nói của CCP, mà còn một lực
lượng đe doạ những ai dám thách thức sự đàn áp của
Trung Cộng. Những thành viên của Pháp Luân Công bị xách
nhiễu và đe doạ bởi những "Hoa kiều" ở New
York là một ví dụ. Sinh viên gốc Duy Ngô Nhĩ nói về sự
tàn ác của CCP cũng bị sinh viên Trung Cộng đe doạ. Một
số Hoa kiều 'độc lập' (tức không dính dáng gì đến
CCP) cũng bị đe doạ và cô lập. Ở Đức, sự lộng hành
của các Hoa kiều thân cộng nghiêm trọng đến nỗi có
Hoa kiều độc lập cho rằng họ xem Đức như là một sân
vườn của đảng cộng sản Trung Cộng!
Một
chiến lược của CCP và khuyến khích và hỗ trợ cho Hoa
kiều tham chánh trong chánh trường địa phương, họ gọi
chương trình này là "huaren
canzheng" (Hoa kiều tham
chánh). Qua chương trình này, CCP giới thiệu những ứng
viên gốc Hoa nhưng thân cộng (dĩ nhiên) ra ứng cử cấp
địa phương, bang, và thậm chí liên bang. Họ đã thành
công đưa Hoa kiều vào những vị trí quan trọng ở Anh,
Úc, và vài địa phương ở Mĩ.
Mạng
lưới gián điệp: phi chánh thống
Các
trung tâm gián điệp phương Tây thường chỉ tập trung
vào những việc như đánh cắp tài liệu mật của chánh
phủ và quân sự, bằng cách tuyển mộ những điệp viên
hay cài điệp viên vào chánh phủ và cơ quan quân sự.
Nhưng hoạt động gián điệp của Trung Cộng vượt ra
ngoài biên giới truyền thống đó và bao gồm luôn cả
đánh cắp thông tin mật từ các công ti kĩ nghệ, tập
đoàn kinh tế, và cả tổ chức dân sự.
Hệ
thống tổ chức gián điệp và tình báo của Trung Cộng
phức tạp hơn nhiều so với các chánh phủ phương Tây. Ở
cấp trung ương có 2 cơ quan tình báo quan trọng là Tổng
Cục I (trực thuộc Bộ Công An) và Tổng Cục II (còn gọi
là 2PLA, thuộc Bộ Quốc Phòng). Tổng cục I về chức
năng thì tương đương với CIA và FBI cộng lại, nhưng
còn có quyền lực chánh trị. Tổng cục II dùng nhà báo,
học giả, và nhà ngoại giao làm bề mặt để hoạt động,
và cũng có quyền lực chánh trị. Ngoài hai cục đó,
Trung Cộng còn có những Cục khác như Cục 10 (lo các vấn
đề ở nước ngoài), Cục 11 (liên quan đến các 'think
tank', viện nghiên cứu), Cục 12 (lo về các vấn đề xã
hội), v.v. Theo FBI, chỉ riêng Cục 12 đã thành lập hơn
3000 công ti làm bình phong cho những hoạt động gián điệp
trên thế giới.
Các
'ổ' gián điệp Trung Cộng không chỉ tuyển dụng người
trong nước, mà còn tuyển dụng người nước ngoài và áp
dụng các thủ thuật tâm lí để gây áp lực đến nạn
nhân. Vào thập niên 1990, cẩm nang của MI5 (cơ quan tình
báo Anh) dành cho các doanh nhân làm ăn ở Trung Cộng có
cảnh báo rằng không nên nhận những món quà quá mức,
và cảnh giác với những lời tâng bốc tận mây xanh.
Chiến thuật của tình báo Trung Cộng là làm cho nạn nhân
mang nợ bằng những món đắt tiền hay mĩ nhân kế, để
nạn nhân tự cảm thấy có nghĩa vụ phải đáp nghĩa.
Hình thức đáp nghĩa có thể đưa nạn nhân vào vòng tay
của các ổ gián điệp Trung Cộng.
Cục
tình báo Úc (ASIO) cũng hay cảnh báo giới ngoại giao và
doanh nhân Úc về những chiêu trò theo dõi của an ninh
Trung Cộng. ASIO khuyên tất cả các thành viên trong đoàn
không dùng charger điện thoại của khách sạn, không dùng
bất cứ USB nào được cho làm quà, không bao giờ để
máy tính cá nhân trong phòng khách sạn, v.v. Một hình
thức hăm doạ khác là meinren
ji, dùng hình ảnh của nạn
nhân trong những tình huống khó xử (có khi là hình ảnh
ghép, sửa) làm cho nạn nhân rơi vào vòng kim toả của
gián điệp Trung Cộng.
Truyền
thông: "Họ của chúng tôi là Đảng"
Chương
9 của cuốn sách là một trong những chương thú vị, vì
trong đó tác giả bàn về hệ thống truyền thông của
CCP. Đây là chương 'mở mắt' cho nhiều người phương
Tây, nhưng có lẽ chẳng làm ngạc nhiên ai đã quen với
sự kiểm soát hệ thống truyền thông của đảng cộng
sản. Nói ngắn gọn và ví von, tất cả nhà báo Trung Cộng
chỉ có 1 họ duy nhứt: Đảng.
Ai
cũng biết CCP kiểm soát hệ thống truyền thông một cách
toàn diện, không chỉ trong nước mà còn ở nước ngoài.
Sự trung thành của giới báo chí đối với CCP là tuyệt
đối. Ban Tư Tưởng của CCP thường xuyên gởi chỉ thị
cho tất cả các báo và đài mỗi tuần, hướng dẫn vấn
đề gì cần được đề cậ và đề cập như thế nào,
ai cần được nhắc đến hay không nên nhắc đến, và hệ
thống phải tuân thủ tuyệt đối; họ không có lựa
chọn.
Nếu
hệ thống truyền thông không tuân thủ, thì họ sẽ bị
phạt. Hình phạt có thể chỉ là cảnh cáo, nhưng cũng có
khi cả 'sanh mạng chánh trị'. Chẳng hạn như năm 2015, 4
kí giả Trung Cộng bị phạt vì họ đánh vần sai vài chữ
trong bài diễn văn của Tập Cận Bình làm cho người đọc
hiểu rằng Tập Cận Bình sắp từ chức. Trong cùng năm,
một kí giả chuyên về tài chánh bị bắt vì anh ta công
bố những con số thật (nhưng đối với CCP thì đó là
những thông tin nguỵ tạo).
Ngay
từ 1955, Mao Trạch Đông đã huấn thị cho Tân Hoa Xã rằng
phải "quản lí toàn cầu", và phải "làm cho
cả thế giới nghe tiếng nói của Trung Cộng". Thời
của Mao thì Tân Hoa Xã tập trung vào việc tuyên truyền ở
Á châu và Phi châu, nhưng dưới thời Tập Cận Bình thì
cánh tay của Tân Hoa Xã vươn ra Âu châu và Mĩ châu. Tính
từ năm 2009 đến nay, Tân Hoa Xã đã có 180 văn phòng
ngoài Trung Cộng, với tổng hành dinh vùng đặt ở New
York, Brussels, Hồng Kong, Moscow, Cairo, Vạn Tượng (Lào), và
Mexico City. Tư 2010, Tân Hoa Xã có hẳn một kênh CNC
World (cạnh tranh với CNN?) truyền tin bằng tiếng Anh đến
thế giới.
Ngoài
Tân Hoa Xã, Trung Cộng còn có tờ nhựt báo China Daily
(tiếng Anh). China Daily được thành lập vào năm 1981, với
sự giúp đỡ của nhựt báo "The Age" của Úc và
tài trợ từ Chánh phủ Úc. Tờ China Daily nhận chỉ thị
từ CCP qua Cục Thông Tin Quốc Gia để quảng bá quan điểm
của CCP và thông tin từ Trung Cộng đến thế giới.
CCP
còn tích cực huấn luyện kí giả từ các nước đang
phát triển. Theo "Reporters without Orders" hàng vạn
kí giả từ các nước nghèo (như Việt Nam) được Tân
Hoa Xã tài trợ để tham dự các lớp tập huấn do Ban Tư
Tưởng của CCP tổ chức. Những kí giả này sẽ là những
"sứ giả" cho CCP và qua đó phát huy 'quyền lực
mềm' của Trung Cộng.
Một
chiến lược truyền thông khác của Trung Cộng có tên là
"Mua tàu đi biển" (Buying a boat to sail the sea). Theo
chiến lược này, Trung Cộng tung tiền ra mua cổ phần
những tập đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây.
Nếu mua không được, họ áp dụng chiến lược "Mượn
tàu đi biển" ("borrowing a boat to sail the sea"),
mà theo đó, Trung Cộng thương lượng với các tập
đoàn truyền thông nổi tiếng ở phương Tây (như New York
Times, Wall Street Journal, Washington Post, Daily Telegraph, Sydney
Morning Herald, Le Figaro, El Pais) để thêm một phụ chương
có tên là "China Watch" do China Daily sản xuất.
Ngay cả tập san khoa học lừng danh Nature cũng có phụ
chương chỉ dành cho Trung Cộng.
Trong
khi Trung Cộng nâng cao nỗ lực quảng bá quan điểm của
CCP ra nước ngoài, thì cái cơ chế này lại hạn chế,
thậm chí ngăn chận, luồng thông tin từ ngoài vào Trung
Cộng. Từ năm 2009 Trung Cộng đã chận hầu hết các mạng
xã hội từ phương Tây (như facebook, google, twitter). Chỉ
có mạng LinkedIn của Microsoft thì không bị chận vì
LinkedIn sẵn sàng theo đường lối hay làm theo chỉ thị
của CCP.
Nhưng
CCP lại dùng mạng xã hội phương Tây để quảng bá các
tin giả (fake news). Theo H&O, Trung Cộng có hẳn một đội
quân dư luận viên (có tên là "Đảng 50 xu" hay
"50 cent Party) vốn là những nhân viên trong hệ thống
chánh quyền của Trung Cộng. Đội quân dư luận viên này
chỉ có một nhiệm vụ duy nhứt là tung tin giả, đe doạ,
và khủng bố những người nào có quan điểm khác với
CCP. Mỗi năm, đội dư luận viên này tung ra 450 triệu
bình luận trên các mạng xã hội phương Tây, với đa số
là nguỵ biện và chửi bới, hay nói chung là
'misinformation'. Đối tượng của họ là Đài Loan, Tây
Tạng, người Duy Ngô Nhĩ, Đức Đạt Lai Lạt Ma. Năm
2019, Twitter phải khoá hơn 1000 tài khoản, và sau đó hơn
200,000 tài khoản mà họ nghi là do nhà nước Trung Cộng
bảo trợ.
Chánh
trị hoá văn hoá
Đối
với CCP, văn hoá là một mặt trận, nên Trung Cộng rất
quan tâm đến việc chánh trị hoá văn hoá. Tập Cận Bình
không giấu diếm gì khi muốn CCP là chủ nhân, là bảo hộ
nhân văn hoá Trung Hoa. Đảng cộng sản tự cho mình cái
quyền phán xét cái nào là văn hoá chánh thống, và cái
nào không phải là văn hoá Trung Cộng. Một ví dụ tiêu
biểu là áo sẩm (qipao hay cheongsam) vốn được xem là
trang phục truyền thống của phụ nữ Trung Hoa, nhưng thật
ra nó có nguồn gốc từ Mãn Châu và được phụ nữ
Trung Hoa mặc lần đầu vào những năm 1910. Trong thời
Mao, áo sẩm được xem là trang phục của giới tư sản,
nhưng gần đây thì nó được xem là một biểu tượng
văn hoá của Trung Cộng. Và, CCP nhứt định dành quyền
quảng bá áo sẩm, không có bất cứ một tổ chức tư
nhân nào liên quan.
Dĩ
nhiên, trong một xã hội mà CCP kiểm soát tất cả lãnh
vực, thì văn học cũng không thể thoát khỏi vòng kim
toả. Một ví dụ tiêu biểu là chủ trương và tầm nhìn
của Hội Nhà Văn Trung Cộng. Hội này tuyên bố nhiệm vụ
số 1 là "tổ chức các
nhà văn học tập về chủ nghĩa Mác Lê, tư tưởng của
Mao Trạch Đông, và lí thuyết của Đặng Tiểu Bình, và
học tập đường lối chánh sách của đảng."
Thỉnh thoảng cũng có nhà văn tự trọng xin ra khỏi Hội,
nhưng đa số nhà văn thì muốn lưu lại trong Hội để
hưởng phước lợi và có dịp đi nước ngoài để 'giao
lưu' cùng các đồng nghiệp phương Tây.
Năm
2011, CCP lưu hành một tài liệu nhan đề "Culture Going
Global", mà trong đó họ vạch ra những chiến lược
để quảng bá văn hoá Trung Cộng đến thế giới, và CCP
muốn dùng văn hoá để kết nối tất cả Hoa kiều ở
nước ngoài. Một tập đoàn có tên là "Poly Culture"
được ra đời vào năm 2000, và nhanh chóng trở thành một
'thương hiệu' trong giới elite phương Tây. Theo đánh giá
của các chuyên gia phân tích, Poly Culture có giá trị 140
tỉ USD. Poly Culture còn là sân chơi của các công tử và
tiểu thơ đỏ, là con cháu của các cán bộ thượng tầng
trong CCP.
Hoạt
động của Poly Culture rất đa dạng. Họ tổ chức hàng
loạt chương trình hoà nhạc tại các hí viện lừng danh
nhứt và lớn nhứt ở Pháp, Ý, Tây Ban Nha, v.v. Họ bảo
trợ các cuộc triển lãm tranh ảnh về Trung Cộng, và
thiết lập các viện bảo tàng quảng bá văn hoá Trung
Cộng tại các nước phương Tây. Nhưng thay vì hoạt động
văn hoá thuần tuý như là một phương tiện ngoại giao,
thì Poly Culture lại đem chánh trị vào văn hoá và gây áp
lực lên những nhóm mà họ bảo trợ. Ở Canada và Âu
châu, họ ép buộc ban tổ chức triển lãm không được
dùng hình ảnh của Pháp Luân Công, và những hình ảnh mà
họ xem là có yếu tố chánh trị. Thế nhưng trớ trêu
thay, họ lại chánh trị hoá triển lãm bằng những hình
ảnh của Tập Cận Bình!
Khoa
học và công nghệ
Có
lẽ lãnh vực khoa học và công nghệ là món mà CCP thèm
thuồng nhứt. Điều này cũng dễ hiểu, vì để hiện đại
hoá đất nước, Trung Cộng cần đến nhân tài "knowhow"
về khoa học và công nghệ. Để thu hút nhân tài, CCP đề
ra kế sách "Ngàn Nhân Tài" (Thousand Talents Plan).
Theo kế sách TTP, nhà khoa học sẽ được cung cấp tài
trợ và cơ sở vật chất để làm nghiên cứu tại Trung
Cộng. Số tiền tài trợ rất hấp dẫn, và dễ làm xiêu
lòng những nhà khoa học đang bị khó khăn về tài trợ ở
các nước phương Tây. Do đó, Trung Cộng đã thu hút hàng
vạn nhân tài từ các nước phương Tây. Đa số những
người tài này là các nhà khoa học gốc Hoa, nhưng chương
trình Thousand Talents Plan còn tuyển cả giới khoa học
không phân biệt quốc tịch.
Không
chỉ tuyển dụng nhân tài về Trung Cộng, CCP còn tích cực
đánh cắp kĩ thuật và dữ liệu khoa học từ các nước
phương Tây, đặc biệt là Mĩ. Ỡ Mĩ, có khá nhiều nhà
khoa học gốc Hoa, và một số giữ những vị trí quan
trọng trong hệ thống khoa học. Chẳng hạn như Bộ Năng
Lượng (Department of Energy) có đến 35,000 nhà khoa học
nước ngoài đang làm việc tại các trung tâm nghiên cứu
(kể cả nghiên cứu về vũ khí), và trong số này có
chừng 10,000 người gốc Hoa hay từ Trung Cộng. Qua các
chương trình giao lưu, CCP dùng các nhà khoa học gốc Hoa ở
Mĩ để thu thập dữ liệu khoa học đem về Trung Cộng.
Một
số nhà khoa học đã trở thành nạn nhân của 'chương
trình' đánh cắp khoa học này. Năm ngoái, trung tâm nghiên
cứu và điều trị ung thư MD Anderson (Mĩ) phát hiện một
số nhà khoa học gốc Hoa chuyển tài liệu cho Trung Cộng,
và những người đã bị sa thải. Năm nay (2020), một nạn
nhân nổi tiếng khác là Giáo sư Charles Lieber (Đại học
Harvard) bị FBI bắt vì có cáo buộc rằng ông được
tuyển vào chương trình Thousand Talents Plan và nhận lợi
lộc (lương 50,000 USD mỗi tháng [?] và chuyển giao công
nghệ cho Đại học Công nghệ Vũ Hán) nhưng ông không
khai báo với phía Mĩ về những hoạt động đó. Nhưng
trong thực tế thì có hàng trăm vụ đánh cắp khoa học
khác ít khi nào được đề cập trên báo chí.
Nhiều
nhà khoa học Trung Cộng mang chức danh khoa học (giáo sư)
sang các nước phương Tây để hợp tác nghiên cứu, nhưng
trong thực tế họ là những sĩ quan quân đội cao cấp.
Theo Alex Joske (một chuyên gia nghiên cứu về Trung Cộng),
tính từ 2007 đến nay (2020), quân đội Tàu đã gởi ra
nước ngoài hơn 2500 nhà khoa học nhưng thực chất là
những sĩ quan cao cấp. Họ hợp tác tại các đại học
hàng đầu của các nước phương Tây. Ở Úc, hai trường
đại học được đề cập đến là Đại học New South
Wales và Đại học Công nghệ Sydney.
*
* *
Trong
khi các chánh khách phương Tây đặt câu hỏi có phải họ
đang ở vào thời Chiến Tranh Lạnh với Trung Cộng, thì
Trung Cộng đã có câu trả lời từ 30 năm trước. Không
chỉ có câu trả lời mà họ còn chủ động phát động
một cuộc chiến tranh như thế dưới nhiều hình thức
khác nhau. Qua Hidden Hand, bạn đọc có thể thấy rõ những
lãnh vực mà Trung Cộng dưới sự điều hành của CCP đã
xâm nhập vào hệ thống các thiết chế chánh trị, kinh
tế, khoa học và công nghệ, truyền thông, và văn hoá của
các nước phương Tây. Gần như các nước giàu có như
Mĩ, Đức, Anh, Pháp, Ý, Canada, Úc, v.v. đều không 'thoát'
khỏi sự xâm nhập của CCP. Do đó, câu chuyện về ông
dân biểu Úc được đề cập trong phần đầu của bài
điểm sách này chỉ là phần nổi của một tảng băng
chìm.
Đối
với chúng ta, người Việt Nam, đọc cuốn sách này rất
'thấm' và học được rất nhiều điều. Nhìn những nước
phương Tây bị ảnh hưởng, thì câu hỏi Việt Nam có bị
ảnh hưởng hay không là câu hỏi thừa thải. Thỉnh
thoảng người nước ngoài đọc báo chí Việt Nam bắt
gặp những danh từ mới như "Thế lực thù địch",
"Quyền lực mềm", "Trỗi dậy trong hoà bình",
hay tên của những cơ quan như "Tổng cục II",
"Mặt trận đoàn kết", mà không biết đến từ
đâu, thì cuốn sách này cho chúng ta một câu trả lời
về xuất xứ: Trung Cộng.
Trong
phần mở đầu sách, Hamilton và Ohlberg quan sát rằng giới
kí giả và học giả khi mới tới Trung Cộng (qua những
chuyến đi do CCP tài trợ) thường có ấn tượng rằng đó
là một đất nước phát triển thần kì, với tốc độ
phát triển kinh tế cao nhứt nhì thế giới. Họ kinh ngạc
trước những công trình kì vĩ, những công nghệ chẳng
thua kém gì so với phương Tây. Tuy nhiên, họ quên rằng
các nước khác cũng phát triển như vậy, thậm chí còn
cao hơn Trung Cộng. Họ cũng quên rằng CCP chính là thế
lực làm cho Trung Hoa lạc hậu cả 1 thế kỉ. Họ ca ngợi
rằng 700 triệu người Hoa đã thoát khỏi cái nghèo, nhưng
họ quên rằng từ 1949 đến nay, chính CCP là thủ phạm
làm cho hàng trăm triệu người Hoa nghèo đói.
Tóm
lại, Hidden Hand là một cuốn sách hay và đáng đọc như
cuốn trước (Silent Invasion). Có thể xem cuốn sách là một
cảnh báo -- có lẽ hơi muộn -- về mối đe doạ của
Trung Cộng đến trật tự thế giới do phương Tây lãnh
đạo. Chiến lược "Một Vành Đai, Một Con Đường"
mà Trung Cộng đang quảng bá, khi đặt trong bối cảnh
chung, có lẽ chỉ là một con ngựa Troia mà thôi. Trong khi
nhiều người vẫn còn rơi vào những "bẫy mật"
của Trung Cộng, thì cũng có nhiều người trong giới trí
thức phương Tây đã ngộ ra mối đe doạ và có những
hành động ngăn chận. Cuốn sách này có lẽ sẽ giúp cho
những ai còn thờ ơ (nhóm 5, theo cách phân loại của CCP)
hiểu được những hình thức xâm lăng mềm, và hi vọng
sẽ không rơi vào những cái "bẫy mật" được
trải thảm bằng tiền.
___________
[1]
Sách Hidden Hand của Clive Hamilton và Mareike Ohlberg, do Nhà
xuất bản Hardie Grant phát hành vào tháng 5/2020. Sách có
402 trang, bao gồm 270 trang nội dung chánh và 132 trang bị
chú và tài liệu tham khảo.
Tác
giả Clive Hamilton là giáo sư về đạo đức công chúng
(Public Ethics) thuộc Đại học Charles Sturt (Canberra). Tiến
sĩ Mareike Ohlberg là một nhà nghiên cứu gốc Đức chuyên
nghiên cứu về các chánh sách và ảnh hưởng của Trung
Cộng.
No comments:
Post a Comment