Trần
Vũ
LTS: Thượng
Uyển Bỏ Hoang là một trong những truyện ngắn đầu tay
của Trần Vũ, in trên tập san Làng Văn năm 1987 và được
Nguyễn Trung Tây đánh máy lại, lần đầu tiên lên web.
Với bút pháp hoàn toàn hiện thực, tác giả cố gắng
ghi lại thực tế của Sài Gòn vào những năm 1978-1979, mà
theo anh: "Là giai đoạn kinh khủng.Tiến lên chủ nghĩa
Cộng Sản nên không còn chợ búa, siêu thị, cửa hàng tư
nhân… Nhà nước không bán thực phẩm cho dân chúng, chỉ
trong biên chế, tổ chức, đoàn, đảng, mới được mua
theo tem phiếu. Cả thành phố ăn độn khoai mì. Đói thê
thảm, không có xăng, cúp điện, không tivi, không điện
thoại. Phía Bắc chiến tranh với Trung Hoa, phía Tây chiến
tranh với Kampuchia, cả nước vượt biên… Bắt lính, bố
ráp, truy quét tàn dư Mỹ Ngụy, cải tạo, đóng chốt,
kiểm kê tài sản… Phải là người Nam và sống
trong Nam thời kỳ này mới hiểu vì sao Giải phóng đồng
nghĩa Mất tất cả."
Trời
xế trưa, nắng gay gắt và vàng sậm. Tôi dựa lưng vào
vách tường hoen ố phía sau, đổi cách ngồi cho đỡ mỏi.
Những người chung quanh cũng vươn vai, đổi chỗ, và xê
dịch sao cho thoải mái. Ba bốn tiếng đồng hồ chụp
giật làm ai nấy thấm mệt. Lợi dụng lúc thưa khách,
mọi người lui vào lề tìm chút bóng râm. Tôi kéo thấp
chiếc nón lá che ánh nắng đang nung dòn trên mặt. Nắng
từ mái tôn cũ tả tơi, rơi đổ lên đám người lây lất
lúp xúp dưới đất. Màu da mọi người bình thường xanh
xám, lúc này pha trộn màu nắng thành màu vàng đặc biệt.
Không phải màu nghệ hay màu vàng lá mạ cổ điển mà là
màu vàng úa gần tiệp với màu lá chuối, từa tựa phân
ngựa. Thứ màu ngày xưa tôi thường dùng để đánh lớp
đầu tiên cho dầy phông. Tôi biết mình cũng giống như
những người ngồi đây, đang phát sinh cho xã hội một
trường phái mới. Một trường phái thực tiễn sống mà
ngoại kiều về nước ai trông thấy chúng tôi cũng đều
liên tưởng đến những tranh tập thể, mang hình thù kỳ
dị. Thật vậy, nhìn lũ chúng tôi thân thể tiều tụy,
màu da vàng tái không ai không nghĩ đến những người mẫu
trong tranh, cổ dài ngoằng và chân tay khẳng khiu. Tuy nhiên
sáng hôm nay, những bức họa lập thể ấy đều tỏ vẻ
hài lòng, ít hằn học so với ngày hôm qua. Quả tình nếu
hình thù chúng tôi có vẻ lập dị, thì đầu óc lại rất
đơn giản. Chỉ cần nửa ngày trôi qua bình yên, không
phải ôm đồ chạy tháo thân là chúng tôi mãn nguyện.
Giờ
mùa bán đã qua, con đường trở lại thưa vắng và yên
lặng. Tôi thả rơi tầm nhìn mệt mỏi lên khu phố một
thời là đại lộ chính của Sài Gòn. Những buynh đinh cũ
được sơn phết, nhiều tấm bảng mới sơn, màu hãy còn
tươi, bồn nước đang phun, đồng hồ được thay pin tiếp
tục quay; một số hàng rào mái ngói được sửa sang phô
diễn cố tình làm đẹp, đập vào mắt du khách. A, thì
ra nhà nước đang ra sức kiếm ngoại tệ bằng công trình
xây cất của Ngụy ngày xưa. Tia nhìn tôi vừa chạm phải
hình ảnh tòa nhà Hữu Nghị. Tòa cao ốc vòi vọi, ngất
ngưỡng cho tôi cảm giác đang ngồi dưới đáy vực. Thời
trước, mỗi lần đi ngang hotel Palace tôi đâu có mặc cảm
thấp hèn như bây giờ. Kể cũng không có gì lạ, thường
người ta chỉ biết mình ngã xuống vực khi đã rơi đụng
đáy, còn mới trượt chân thì không ai biết mình đang
rơi.
Có
tiếng lục đục bên cạnh. Ông cụ thuộc diện mất sức
lao động, nuôi tuổi già bằng nghề bơm rửa viết máy,
lấy trong bọc ra một gói khoai sắn, chậm rãi đưa bàn
tay dính mực lên vuốt cổ họng sau mỗi bận nuốt xuống
một miếng sắn. Ông cụ là một trong số ít người còn
giữ thói quen ăn nhiều bữa trưa. Đại đa số chúng tôi
thường quấy quá, phần vì muốn tiết kiệm, phần vì dạ
dày đã quen với khẩu phần ít ỏi thường nhật, qua
quýt cũng tạm đủ.
Lề
đường lúc này bừa bãi. Những món hàng mà mọi người
chất xếp lây lất hờ hững. Trong ngày, có lẽ giấc
trưa là lúc những kẻ chợ trời như tôi đăm chiêu và
ít tha thiết với vốn liếng của mình nhất. Ở cái lúc
mà khách mua đã vãn, đã về nhà dùng cơm hay quay về sở
làm, người bán chợ trời không biết làm gì hơn là thả
rơi suy tư của mình vào khoảng không. Ít ai ngờ những
kẻ sống lê lết trên vỉa hè tìm cơm áo qua ngày như lũ
chúng tôi lại hay suy tưởng như một triết gia. Từ lâu,
tôi đã sớm nhận rõ tính ưu việt của chế độ này là
giúp cho con người biết tách rời cái tâm của mình ra
khỏi thân xác. Tất cả người dân Sài Gòn “tiên tiến”
đều hướng nội, điều khiển tâm thức như một thiền
sư. Những khi đói khổ, người ta cho tâm sống với quá
khứ dĩ vãng một thời ấm no. Gặp lúc tuyệt vọng tâm
sẽ được cho đi trước thời gian để sống với mơ ước
về một vùng đất mới hay một đổi thay. Bằng cách này
hay cách khác, người Sài Gòn sống ở ngoài không và thời
gian thực tại. Họ sống ở hai đầu mốc thời gian, hoặc
ở tận cùng quá khứ, hoặc bên kia tương lai, nhưng không
bao giờ giữa thì thực tại. Thực tại giản dị đã trở
thành một thì của u tối. Chỉ cần ngồi ở lề đường
này vài ba tuần lễ, qua những giấc trưa im ỉm như hôm
nay là tôi khám phá ra được điều ấy. Những tia nhìn
quen thuộc của bạn hàng mà hàng ngày tôi bắt gặp rơi
rớt trên vỉa hè, vào giữa trưa như có sức bay bổng
chuyên chở cả một phần đời người mang nó. Những tia
nhìn ban đầu khởi đi từ tròng mắt luôn ánh màu xanh hy
vọng, trôi ra xa mông lung chơi vơi một lúc trước khi hụt
hẫng để rồi sau cùng chỉ còn màu xám u uất. Tôi ở
trong cùng tình trạng với các đồng nghiệp đang ngáp
ngắn ngáp dài chờ khách. Nhưng tôi không đẩy tâm thức
ra xa, không giết nỗi lo âu buồn bã, đói lạnh của mình
bằng cách ấy. Có lẽ vì tôi theo ngành hội họa từ
thuở niên thiếu, nên gặp lúc khốn khó, tôi tập nhìn
đời như nhìn những bức tranh, không để ám ảnh bởi
màu sắc hay khủng hoảng bởi hình ảnh. Tôi cố tìm
trong mỗi bức tranh, đường nét, góc cạnh và vị trí
riêng, để tôi có thể nhìn bức họa của chính mình,
của những âu sầu khốn khổ ở góc cạnh tương đốt
bớt phũ phàng, một góc tiếp thu riêng biệt mà tôi có
thể lọc lại màu sắc, làm vơi dịu bớt cường độ mà
người thợ sơn mới đã áp đặt. Mấy năm qua, từ ngày
rời hội nhà giáo, nếu cái nghề hội họa không còn
giúp tôi kiếm sống, ít ra nó cũng giúp tôi chịu đựng,
làm vơi dịu màu sắc hằn học của đời khi phải trực
tiếp thâu nhận. Lâu lâu tôi vẫn có thể phác họa, vẽ
vời trong trí tưởng tượng…
Mãi
suy tư, triết lý vớ vẩn mà Cường đến lúc nào tôi
không hay. Gã con trai khóa bánh xe đạp, đến bên tôi
cười:
– Cô
đang “vẽ” phải không? Từ xa thấy đôi mắt cô mơ
màng là Cường đoán liền.
– Vẽ
vời gì, tôi chỉ nghĩ lung tung cho qua thì giờ.
Tôi
hơi ngước mặt, đủ để cho tầm nhìn đọng lại trên
khuôn mặt Cường mà tôi không bị nắng chói.
– Cô
bán được khá không?
Tên
con trai hỏi, nụ cười vẫn còn nở trên môi.
– Cũng
tạm. Bán được ba ống kem đánh răng và một bịch sữa
bột Liên-Xô. Hy vọng chiều khá hơn.
Tôi
vừa trả lời vừa đưa tay chỉ mấy món hàng còn lại
bày trên tấm ny lông. Kể ra bán chừng ấy là gia đình
tôi đủ sống hôm nay, nghĩa là có đủ tiền mua nửa ký
mì sợi, chút rau và ít ngô khoai cho hai đứa con tôi và
mẹ chồng. Nhưng nếu muốn bữa ăn có thêm chất đạm
thì thật tình tôi cần phải bán thêm gấp năm, sáu lần
những món đồ vừa bán. Nói vậy để so sánh chứ tôi
làm gì có vốn để mua nhiều mặt hàng.
– “Đạt”
rồi, cứ coi như cô không bị cháy giáo án hôm nay.
Gã
con trai nhìn tôi cười chế diễu, mặt mũi nó sạm nắng,
tóc tai chấm ót.
Cường
là học trò tôi hồi còn dạy hội họa cho trường Lasan.
Tôi tình cờ gặp lại nó năm ngoái, trên vỉa hè thương
xá Tam Đa. Cường cao lớn và có dáng thanh niên so với
hình ảnh đứa học trò nhỏ năm xưa nên tôi không nhận
ra. Cường phải nhắc rõ tên tuổi và lớp cũ tôi mới
nhớ. Lúc đó tôi đã bắt đầu lây lất ở chợ trời.
Cường khuyên tôi bỏ lề đường Lê Thánh Tôn, dọn về
bán ở vỉa hè phố Nguyễn Huệ vì theo Cường, đại lộ
Nguyễn Huệ “sang” hơn, có nhiều cán bộ cao cấp và
vợ con từ Bắc vào mua sắm. Nguyễn Huệ cũng kém xô bồ
và ít náo động hơn các khu khác, lại có nhiều kiosques
bán hoa và sông nước Bạch Đằng thơ mộng thích hợp
cho tâm hồn một cô giáo dạy vẽ như tôi! Từ đó Cường
thường hay lui tới chỗ tôi ngồi, chuyện vãn và cùng
“phụ” suy tư với tôi những khi vắng khách. Cường đã
thôi học từ năm 77, hành nghề mua đi bán lại đồng hồ
cũ mà khách phần lớn là bộ đội miền Bắc. Công việc
theo lời Cường rất khả quan, tuy nhiên Cường dấu nhẹm
địa điểm buôn bán và chẳng bao giờ muốn bàn với tôi
về việc buôn bán của nó, vì lý do nào đó thì cho đến
hôm nay tôi vẫn chưa rõ.
Gã
con trai ung dung ngồi xổm trên đất, lôi trong túi giấy
đem theo hai trái bắp nướng và một bọc xôi vò.
– Sáng
nay Cường vô mánh, chớp được cái đổng cũ mà bán cho
anh bộ đội lời quá. Cường mua chút đồ ăn cải thiện,
cô cưa đôi với em nghe.
Cường
chìa cho tôi trái bắp nướng sau khi khoe thành tích, nụ
cười hình như ít khi tắt trên môi nó. Cường đang ở
vào lứa tuổi đẹp nhất của đời người, lứa tuổi
mới lớn, hồn nhiên đón nhận cuộc sống bằng tấm
lòng cởi mở bao dung. Dù xã hội bây giờ khó khăn và
tàn bạo, tuổi trẻ vẫn không than van vì giản dị là
chúng chưa biết hận thù. Cái ngày mà Cường biết đến
thù hận, chắc sẽ làm tôi đau đớn lắm. Thế hệ chúng
tôi đã không cứu vớt được tuổi trẻ hôm nay, thế hệ
sinh sau đẻ muộn giữa oán thù, tranh chấp, mà hoàn toàn
không hiểu vì sao.
– Sao
Cường cho tôi hoài thế? Tôi nợ em nhiều quá biết lấy
gì mà trả!
Tôi
ngập ngừng, ngại ngùng khi đón nhận trái bắp từ tay
đứa học trò. Nó nuôi tôi bằng cả nghĩa đen lẫn nghĩa
bóng. Không có Cường chắc tôi đã bị lừa gạt, bị
bắt hay sạch vốn liếng từ lâu. Và nếu Cường không
đến như cơn gió mát làm dịu bao trưa nồng oi ả, chưa
chắc tôi đã chịu đựng được một mình gần năm trời,
đơn độc không bạn bè, không chút an ủi trên vỉa hè
thành phố.
– Sao
cô cứ kể lể ơn nghĩa làm em mệt. Sống lúc này có
đồng nào mình phải ăn ngay vô bụng đồng đó, để lâu
…nhà nước dám đổi tiền nữa! Cô, ăn đi chớ, dòm
Cường chi dữ vậy. Ăn bắp bây giờ là mốt đó cô biết
không?
– Ăn
bắp nướng mà cũng có “mốt” nữa à?
– Suya!
Ăn bắp nướng là phong trào được nhân dân cả nước
ưa chuộng. Này nha, bắp nướng có thể để dành hai, ba
ngày mà không sợ hư. Khi ăn tập thể, dễ dàng đếm hột
chia khẩu phần, còn lúc nhơi một mình mà muốn cần kiệm
thì ăn một hàng thôi, mấy hàng kia để dành ngày mai. Ăn
hết còn đói …mút cái lõi cũng đã.
– Hay
quá mà tôi không biết!
– Chứ
sao cô. “Nhân dân ta anh hùng luôn có truyền thống phát
huy tính thực tiễn Mác-Lê, phổ cập vào đời sống…”
– Thôi
đủ rồi cậu nhỏ!
Tôi
xua tay nhắc cho Cường biết đang ngồi ở vỉa hè chứ
không phải giữa hội trường kiểm thảo. Đặc điểm
của lớp trẻ như Cường là nói năng thuần thục và
nhuần nhuyễn những từ mới, những châm ngôn cổ động
mà nhà nước không ngừng ra rả trên các loa phóng thanh
nơi phường khóm. Riêng Cường thì mỗi bận sửa được
một từ mới thì hả hê và thích thú lắm, tự cho rằng
đã thấm nhuần sâu rộng tư tưởng cách mạng. Chẳng
hạn như hai câu “Đâu cần thanh niên có, đâu khó có
thanh niên” và “Bàn tay ta làm nên tất cả, dưới sức
người sỏi đá cũng thành cơm,” giới trẻ Sài Gòn sửa
lại là “Đâu cần thanh niên trốn, đâu trốn được có
thanh niên” và “Bàn tay ta làm nên tất cả, dưới sức
người sỏi đá vẫn còn nguyên” mà Cường rất thích,
đọc đi đọc lại cho tôi nghe.
– Này
cô…
– Gì?
Tôi
hỏi, lúng búng những hạt bắp trong miệng.
– Cường
vừa sáng tác được một bức tranh mới chiến lắm.
Gã
con trai vừa nhai vừa kể. Nét mặt nó thôi tinh nghịch,
vẻ quan trọng như lúc sắp đem nộp bài thi. Từ lâu tôi
và Cường hay trao đổi họa phẩm trong trí tưởng tượng
cho nhau “xem.” Một cách giải trí vô hại mà không tốn
tiền. Nếu Cường có vẻ bương chải và hơi du côn ngoài
đời, thì nó lại cũng rất nghệ sĩ. Cường đam mê hội
họa như tôi, nó lại rất thích vẽ tưởng tượng trong
đầu vì cho rằng dễ dàng bôi xóa.
– Để
em kể cô nghe.
Cường
nói mà mắt chong lên bầu trời rợp bóng me…
– Cường
vẽ bức tranh có bầu trời trên một thành phố. Bầu
trời lớn chiếm hai phần ba bề dọc khung. Nền trời
hình thang ngược, to hai bên góc và nhỏ dần chính giữa
cho bức họa có chiều sâu. Đố cô nền trời em tô màu
gì?
Cường
chợt quay lại, bí mật.
– Xanh
lơ hay xanh cẩm thạch?
– Trật
lất! Mấy màu đó thường lắm. Cường chơi màu đỏ, đỏ
tươi pha chút xíu boọc đô thôi.
– Bầu
trời ai sơn màu đỏ, bộ tranh lập thể à?
– Vậy
mới hay!
Cường
cười sung sướng, đắc chí. Nó lim dim đôi mắt, say sưa:
– Không
phải tranh lập thể, em vẽ tranh thường thôi nhưng có ý
nghĩa. Màu boọc đô đánh đậm ở giữa chỗ phát xuất
chiều sâu, toả dần ra thành màu đỏ đậm rồi đỏ
tươi, đỏ lịm, máu…! Cô hiểu ý Cường không? – Tên
con trai giương mắt nhìn tôi dò hỏi – Màu đỏ là màu
nóng tượng trưng cho bầu trời nhiệt đới oi bức, màu
đỏ cũng là… Cường chợt thấp giọng, liếc chung
quanh, …là màu của tụi nó. Cái nền trời đỏ rực tỏa
rộng bao trùm lên thành phố nhỏ xíu bên dưới nhìn vô
là thấy bị đè nén liền!
Từ
giọng kể oang oang hãnh diện lúc nãy, Cường nhỏ giọng
gần như thì thầm:
– Đó,
sáng tác mới của em đó, cô chấm điểm đi.
– Cũng
khá.
Tôi
gật gù, không quên liếc mắt dòm chừng. Biết cách làm
chiều sâu, có tư tưởng, biết sử dụng tông nóng, khác
biệt của tĩnh và động. Động là màu đỏ ở trên và
tĩnh ở bên dưới… Nhưng mà Cường định vẽ gì bên
dưới mới được chớ? Tôi thắc mắc.
– Thì
vẽ thành phố.
Đến
lượt nó lúng túng.
– Nhưng
thành phố ra làm sao?
– Thành
phố vậy thôi! Cô đã chẳng dạy Cường, vẽ ăn thua
nhất là ở cái nền à? Mà cái nền đỏ, đục đục của
Cường tới quá mức, coi như bức họa thành công, đâu
cần vẽ thêm gì nữa.
Tôi
phì cười, đúng là ngụy biện.
– Nhưng
em không vẽ thành phố ở dưới thì ai mà hiểu được ý
Cường. Vẽ tranh cũng như làm luận, cần phần nhập và
kết thật hay, nhưng cũng phải cần thân bài vì là chỗ
để khai triển. Nếu tranh của Cường chỉ có một mảng
đỏ như thế thì tôi cho ba điểm.
Cường
im lặng, mặt tiu nghỉu. Thấy nó thở phì phò, tôi biết
anh chàng đang bí.
– Thôi
để tôi giúp ý cho em. Bên dưới nếu em muốn vẽ thành
phố thì dễ lắm. Thành phố có nhiều nhà, cao ốc hay là
trệt. Một là em vẽ mấy ngôi nhà lầu thật cao, cho có
vẻ vươn lên, hất đẩy cái nền trời đè nặng. Hai là
em vẽ những căn nhà thấp tồi tàn như đang chịu đựng
mệt nhọc, rồi kẻ thêm con đường đậm như một tì
vết. Cường thấy sao?
– Tuyệt
cú mèo!
Cường
bật dậy, ném mạnh cái cùi bắp đã nhai hết lõi. Nó
đập tay lên đùi khoái trá.
– Hay
thật! Có vậy mà em không nghĩ ra. Cô đúng là giáo sư!
Nắng
trưa gay gắt, chói chan trên bóng cây. Những bóng me rợp
không đủ làm chúng tôi mát. Con đường ban trưa phơi
mình chịu đựng. Riêng hai thầy trò tôi đang chìm vào
một nơi khác, một nơi có nhiều màu sắc và hình ảnh.
– Nè
cô, sao mình không vẽ luôn con lộ Nguyễn Huệ này vô.
Hai dẫy cao ốc hai bên làm “sức vươn lên” như cô
nói. Còn đại lộ là con đường từ chỗ chiều sâu bắt
ra. Cường sẽ chơi màu đen đậm cho thật bị tỳ vết!
– Cũng
được, tùy Cường.
Đứa
con trai cười mãn nguyện. Nó hoàn toàn quên mất vụ vẽ
tưởng tượng, làm như đang đứng trước một họa phẩm
có thật.
– Em
muốn vẽ luôn đám chợ trời mình vô cho thêm sinh động.
– Coi
chừng ôm đồm nhiều quá tranh lại mất ý chính đấy.
Tôi
nhắc khéo.
– Đâu
có, nhấn mạnh thêm chớ. Cảnh đám người nghèo khó lây
lất bán buôn hai bên đường giữa hai hàng cao ốc được
người ta sơn phết giả tạo, che mắt…
Tôi
kéo Cường ngồi xuống, ra dấu cho nó nói nhỏ bớt. Vẽ
tranh tưởng tượng mà phải đi cải tạo thì nguy hiểm
quá!
Dưới
nền trời mơ tưởng của Cường bây giờ có thêm những
gợn mây trắng pha sắc xanh dương, khách mua hàng của
giấc ba giờ chiều lần lượt đổ ra từ các ngõ hẻm.
Gã con trai nhỏm dậy, lấy hai tay phủi quần:
– Mải
chuyện, thôi em về chạy mánh để cô buôn bán.
– Gấp
thế, tôi có khách đâu.
– Nhưng
em cũng phải về kẻo tụi bạn trông, còn lo chạy mối
kiếm tiền ăn tối nữa.
Cường
chắc lưỡi. Gió lòa xòa trên tóc nó bụi bậm rối bời.
Nó đứng lên, chiếc bóng đổ lênh khênh chơi vơi trên
hè. Cường ném cái nhìn lên bầu trời lần cuối, tiếc
rẻ:
– Giá
mà ghi được lên khung vải thì sướng biết mấy. Mà màu
mè gì mà mắc quá trời.
Cường
nói rồi cúi nhìn tôi còn ngồi dựa lưng vào bức tường
chói nắng:
– Biếu
cô bọc xôi vò mang về cho hai em.
– Đâu
được. Cường giữ lại mà ăn quà lát nữa. Hôm nay tôi
cũng bán được, để khi về tôi ghé mua cho chúng nó sau.
– Cô
nhận cho Cường vui. Nay bán được nhưng mai biết đâu,
cô cất tiền phòng thân. Vả lại em lớn rồi, đâu còn
nhỏ nhít gì nữa mà ăn quà. Sao cô khinh Cường thế?
– Nhưng
em nuôi tôi hoài.
– Thì
Cường là “anh nuôi” chiến sĩ mà. Cô cũng là chiến
sĩ trên mặt trận kinh tế!
Gã
con trai toét miệng cười. Nắng lốm đốm rơi trên chiếc
áo trắng ngả màu vàng của nó. Chiếc áo trắng của đứa
học trò sớm vào đời nổi lên trong chiều nắng trông
tang thương, như hình ảnh một thế hệ bị lãng quên,
thiếu chăm sóc. Nhưng còn ai chăm sóc chúng khi lớp thầy
cô giáo chúng tôi đều đã ra ngồi hết ngoài đường?
Không thể trách tuổi trẻ bây giờ, nhỏ mà sớm biết
mánh mung. Lỗi không ở đứa con trai mới lớn đang đứng
trước mặt tôi, cũng không phải lỗi ở đám bạn bè hư
hỏng đồng trang lứa rủ rê nó. Lỗi chính là ở lớp
người lớn chúng tôi, ở thế hệ đi trước đã không
biết gìn giữ và bảo vệ một miền Nam châu ngọc.
– Cảm
ơn Cường cho các em quà, nhưng thôi Cường về cho kịp,
đứng đây chàng ràng tối hồi nào không hay. Có bán buôn
cũng nên cẩn thận…
Tôi
dặn với khi Cường mở khóa xe. Nghe dặn, nó ngẩng đầu
lên bỡn cợt:
– Cô
yên trí, em ở trong ngạch mại đổng có phương án chỉ
đạo làm ăn nghề nghiệp lắm!
Tôi
định la nó vài câu về tội ăn nói bộp chộp thì có
mấy người khách. Loay hoay bán được hai cây viết Bic,
lúc ngẩng lên thì Cường đã đi mất.
Con
đường về chiều nắng dịu, như cơn sốt đã hạ chỉ
còn hơi nóng rã rượi trên thân thể con bệnh. Vài chuyến
xích lô đạp qua trong bụi bậm. Dăm người bộ đội nắm
tay nhau vung vẩy, họ nói chuyện và cười đùa hồn
nhiên. Sài Gòn chùng xuống sau một ngày cơm áo, thêm một
ngày đi qua trong chật vật lặng lẽ, mệt nhọc.
Buổi
sáng Sài Gòn gây lạnh. Mọi người co ro trong tinh sương
của màn trời tím nhạt, mặt trời lên chậm ngoài xa
trên khu Khánh Hội. Đường phố chưa tỏ, lờ mờ chút
ánh sáng. Tôi co vai, ôm chiếc nón lá hứng chịu những
cơn gió lạnh thổi hắt lên từ bờ sông. Chưa đến bảy
giờ. Giấc này những cán bộ miền Bắc còn đang điểm
tâm. Người miền Nam đại đa số trên đường đến xí
nghiệp và họ cũng chẳng dư dả để mua sắm. Còn phải
đợi một, hai tiếng đồng hồ trước khi nghe tiếng chân
của người khách đầu tiên. Tuy chỉ buôn bán từ chín
giờ sáng trở đi, nhưng ngày nào tôi cũng dậy sớm ra
ngồi ở đây. Không riêng tôi, những bạn hàng thường
nhật cũng đều có mặt. Không ai muốn mất chỗ tốt, và
bị đẩy lui về khoảng trống trước công an phường.
Ngồi xa có gì còn chạy kịp, chứ ngồi ở đó thấp tha
thấp thỏm sợ bị bắt lúc nào không biết.
Gió
sông Bạch Đằng thổi lên, mùi sình tươi tanh nhờn nhợn.
Tôi ngồi sát tường nhưng không dám dựa. Tường vừa
được sơn quét lại, còn ướt. Từ hai hôm qua chúng tôi
không còn bán chợ trời bên khu thương xá Tax nữa, mà di
tản qua phía nhà ngủ Hữu Nghị. Dẫy thương xá Tax cũng
đang được sơn phết và tô điểm lại. Nguyên dẫy phố
từ chợ Bến Thành ra rạp Rex xuống bến Chương Dương,
tất cả nhà cửa bùng binh đều được nhà nước cho
chỉnh trang. Để làm gì thì quả tình đang là đề tài
cho dân chúng bàn tán.
– Kể
ra họ cũng biết sạch sẽ, bỏ thời giờ ra sửa sang chỗ
làm ăn cho chúng mình đấy chứ nhỉ?
Ông
cụ bơm rửa viết máy nhận xét, rồi như sợ lỡ lời,
vớt vát:
– Công
tác tập thể của cách mạng thường là có mục đích
…tốt cả.
Câu
nói của ông cụ có phản ứng ngay. Một chị đàn bà gần
đó đốp chát, không chút nể nang:
– Tốt
mẹ gì! Họ đón Liên Xô chớ sửa sang gì cho mình. Nhà
tui trên sông, bùn dơ tràn vô nhà mà có ma nào thèm “liên
hệ xây dựng” cho đâu!
Ông
cụ im lặng, không dám tranh luận trong lúc đám chợ trời
nhao nhao, mỗi người một ý:
– Không
phải đón Liên Xô đâu. Tụi đó cũng chuyên chính vô sản
như mình thì ăn cái giải gì! Có lẽ là Việt kiều hay
phái đoàn Quốc tế, họ muốn khuếch trương du lịch.
– ĐM…
Mấy thằng ngu thế, đã sang được bên kia còn mò về!
– Nhỏ
chứ. Vạ mồm vạ miệng lại đi cải tạo ở trường
phục hồi nhân phẩm thì khốn!
Lời
cảnh cáo của một mạng làm đám chợ trời xìu xuống,
câu chuyện chìm hẳn đi. Tôi ngồi yên nghe, nhưng không
tham dự. Phần biết không đi đến đâu, phần cũng sợ
vạ miệng. Thời buổi cuốn theo chiều gió, biết tin ai
được!
– ĐM.
Dính trây trét lên hết áo rồi!
Tiếng
la thất thanh của một thằng nhỏ cỡ 16, 17 tuổi, ngủ
gục dựa lưng vào tường bị vấy sơn làm tôi giật
mình.
– ĐM!
Tiêu cha cái áo vía. Tiên sư cha sáng sớm ra chưa bán đã
lỗ. Sơn quốc doanh con c. gì lâu khô quá. ĐM, lựu đạn
nó!
Thằng
nhỏ tiếp tục chửi đổng, văng tục chán chê mãi rồi
mới im. Cái dáng con trai mới lớn, gầy gò vì ăn uống
thất thường của nó làm tôi chợt nhớ đến Cường,
không biết công việc làm ăn của nó có trôi chảy. Hai
ba ngày rồi tôi không gặp nó. Mấy bữa nay không hiểu
chích sách mới thế nào mà chúng tôi bị bố ráp liên
miên, cứ ngồi bán được mười lăm, hai mươi phút là
tất tả chạy. Tôi không bán được đồng nào, còn ăn
lậm vào vốn, không đủ tiền mua thêm hàng mới. Tôi chỉ
còn lại dăm cây viết Bic, một bịch đường Cuba, hai hộp
sữa và xấp vải gin Trung Quốc. Đến chiều mà không bán
được là gia đình tôi lại húp cháo bo bo.
Tôi
thở dài, ngó ra mặt sông. Những tàu hàng quốc doanh và
Đông âu đậu trong bến làm tôi mơ một chuyến đi xa đến
một vùng trời khác, nhưng mãi mãi tôi biết chỉ là ảo
vọng. Vả chăng chồng còn cải tạo, gia đình tôi không
thể đành lòng ra đi. Gió sông Bạch Đằng lại đưa lên
mùi sình tanh hôi. Trong lúc đợi khách, nhìn những giấy
rách gió lùa qua mặt đường, tôi chợt nghĩ mình cũng
đang hóa thành rác rưởi bay vương vãi trên hè phố.
Buổi
sáng hôm sau nữa, tôi vừa bày hàng ra thì Cường ở đâu
chạy đến, mặt mũi nó xanh tái, tóc bết mồ hôi, hơi
thở hổn hển, đứt quãng:
– Cô
dọn qua bên này làm Cường kiếm hụt hơi.
– Em
đi đâu mà chạy dữ vậy, bệnh hay sao mà coi xanh quá?
– Không
có bịnh, bị tụi nó truy quét, xém chút nữa là bị
chụp…
– Tôi
đã dặn em phải cẩn thận…
Tôi
thật tình thương nó, thằng nhỏ đáng lẽ bây giờ phải
đang ngồi trong lớp học đã phải lăn vào đời kiếm
sống.
– Cẩn
thận cũng bị. Tụi nó cải trang làm nhân dân, núp bên
đường Pasteur đông lắm. Cường nhờ tống hết ga mới
thoát.
Đứa
con trai ngước nhìn tôi, nụ cười quen thuộc vắng bóng.
– Thế
xe em đâu?
– Thằng
bạn lấy đi tẩu tán rồi, sợ tụi nói ghi được số
xe. Không biết tụi nó có xuống dưới này hay không…
Cường
vừa nói một mình, vừa ngó dáo dác. Tôi thấy nó thật
sự mất bình tĩnh. Bình thường Cường vui và hay đùa
cợt, chuyện gì nó cũng diễu được.
– Thôi
cứ ngồi yên ở đây một lúc cho qua, chắc họ không
xuống tận dưới này đâu. Uống ngụm nước mát cho
khỏe.
Tôi
rót cho Cường một nắp nước từ bi đông luôn mang theo
mình. Lần đầu tiên tôi mới biết Cường chạy mánh
bằng Honda, trước tôi cứ ngỡ nó quanh quẩn lây lất
trên một vỉa hè nào đó như tôi. Cường uống chậm
rãi, da mặt đã bớt xanh.
– Chắc
cô buôn bán ế ẩm? Em cũng ế lắm không được mối
nào.
Cường
chớp mắt, nó nhìn xấp vải và bịch đường hôm nọ
nên đoán ra.
– Thì
buôn bán ngày được ngày không. Ai cũng phát tài thì
thiên hạ kéo nhau ra đường hết.
– Nhưng
sao lúc này cán bộ, bộ đội ít đeo đồng hồ quá…
Cường
tiếp tục than thở, nhưng hình như nó buột miệng nói
không suy nghĩ nên có vẻ ngượng ngập sao đó. Tôi không
để ý lắm, nói tránh sang chuyện khác cho nó vui lên:
– Tôi
mới vẽ được bức tranh đẹp lắm, Cường có muốn tôi
tả cho em “xem” không?
Cường
nhìn tôi đăm đăm, đôi mắt một phút rực sáng. Một
chút màu sắc tưởng tượng đủ làm nó quên hết cuộc
đời nguy hiểm, bắt bớ, và gian truân.
– Cô
kể liền đi, Cường mê tranh lắm.
– Cường
còn nhớ cái nền đỏ, đục đục trong bức họa hôm nào
Cường vẽ cho tôi xem không?
– Nhớ
chứ cô, bức “tủ” của em mà.
– Tôi
dùng cái nền đó và sửa đổi thêm thắt cho bóng bẩy
hơn. Tôi đặt tựa cho bức tranh là “Thượng Uyển Bỏ
Hoang.”
Gã
con trai xuýt xoa và chăm chú lắng nghe. Đồng hồ công
viên điểm 10 giờ sáng. Nắng tỏa lan dần, nàng vàng nhẹ
nhàng lên tàn me xanh lá. Tôi biết hai thầy trò sắp ra
khỏi cuộc đời bằng cánh cửa hội họa.
– Tôi
giữ nguyên cái nền với cùng ý nghĩa mà Cường muốn
nói. Công nhận là cái nền đỏ hôm đó Cường vẽ thành
công lắm. Tôi chỉ thêm màu sắc sáng tươi vào hai dãy
phố chung quanh con đường tỳ vết cho thành phố có dáng
vẻ lộng lẫy của thời thịnh trị…
– Đâu
được cô, như vậy khách xem tranh lại tưởng nhờ cái
nền đó mà thành phố trở nên huy hoàng thì hỏng bét!
Cường
ngắt lời tôi, phản đối.
– Khoan
đã, em để tôi nói hết. Em cứ phát biểu linh tinh như
vậy làm sao tôi diễn tả cho xong. Cường có thấy bây
giờ bên ngoài thành phố được chỉnh tranh cho đẹp đẽ
không? Cường nhìn bức tường sau lưng tôi là biết.
Tôi
hơi gắt, la cái tật bộp chộp của thằng nhỏ.
– Rồi,
“nhất trí” với cô chuyện “rửa” tường.
– Dưới
cái nền đỏ của Cường, tôi muốn ví thành phố như
một khu vườn: những dinh thự, nhà cửa là cổng rào khu
vườn. Thành phố đã có một thời là hòn ngọc viễn
đông nên khu vườn ngày xưa là thượng uyển, cây trồng
bên trong tươi tốt nhờ được người làm vườn cũ sốt
sắng, tận tình chăm sóc. Trái lại hôm nay, người làm
vườn mới nếu chịu khó sơn phết hàng rào thì lại bỏ
bê không dòm ngó gì đến cây cỏ. Những loài thảo mộc
quý tàn tạ và héo úa. Trong vườn chỉ còn cỏ dại và
những hạt giống cũ sót lại vừa nẩy mầm, nhưng vì
không được vun xới, săn sóc nên đã sớm bị sâu ăn…
Cường
mở to mắt, thán phục:
– Hay
quá! Phải công nhận là “tranh giáo viên” có khác, sâu
sắc. Nhưng cô định vẽ gì trong thành phố chỗ con đường
tỳ vết của Cường?
– Tôi
vẽ các em.
– Tụi
em?
– Ừ,
nhưng tôi không vẽ chân dung Cường và các bạn. Tôi vẽ
những cây bắp.
– Cây
bắp?
Mặt
tên con trai đờ ra, hai mắt tròn xoe và trán nhăn lại suy
nghĩ. Những nếp nhăn sớm vì lầm than bây giờ biến
khuôn mặt nó thành ngộ nghĩnh khiến tôi bật cười.
Cường vẫn chưa hiểu.
– Các
em là những cây bắp mọc lên từ những hạt giống
còn sót lại. Những thân bắp chưa có trái mọc hỗn độn
không thành hàng lối, lẫn với đám cỏ dại và gai rừng
của người làm vườn đem từ Trường Sơn về. Cường
là một cây bắp non, sớm bị sâu ăn.
– Cường
hư dữ vậy sao?
– Tôi
không trách em hư. Tôi chỉ trách họ không chăm sóc
em đúng mức, bỏ bê và xua đuổi các em vào hố thẳm
của đời sống.
– Ờ…
ờ… có lẽ. Nhưng cô có vẽ cô vào tranh luôn không?
Tôi
gật đầu. Cường đâu biết bức họa này là hiện thực
của chính chúng tôi.
– Thế
cô là cây gì?
– Không
là cây gì cả. Lũ người lớn chúng tôi là đất, đất
trong vườn ngày xưa có nhiệm vụ bồi bổ, nuôi dưỡng
cho cây tươi tốt và đơm hoa kết trái. Bây giờ người
làm vườn mới không bón phân, tưới nước nên đất khô
cằn thiếu chất bổ, không đủ dinh dưỡng cho cây nẩy
nở viên mãn. Nếu bên ngoài tôi chọn những màu sắc
tươi sáng để tô vẽ dinh thự, làm cổng rào cho vườn
thì bên trong vườn phải dùng những màu thật buồn.
Chẳng hạn, màu xanh tím trộn đen cho lá ngô, màu vàng
“Ấn” pha mạ nhạt cho thân bắp. Đất cũng không thể
có màu “thổ” bình thường mà phải là xám tro.
– Xám
tro?
– Ừ,
xám tro vì đất đã hết màu mỡ, phai lạt khô cằn, đã
hóa tro tàn. Mình chọn những tông lạnh và nhạt tạo vẻ
tương phản với sắc đỏ rực rỡ của hàng rào và nền
trời trên cao.
– Mình
có cần vẽ “thằng” làm vườn đứng gác ngoài cổng
không cô?
– Tôi
nghĩ không cần thiết. Người xem tranh nhìn cái nền đỏ
gay gắt của Cường là họ hiểu. Dưới ảnh hưởng của
sức nóng quá độ, thảo mộc héo úa.
– Cường
muốn xin cô một điều.
Người
nam sinh đã một lần là học trò của tôi, mấp máy đôi
môi. Đôi mắt thường khi trong sáng, bây giờ phảng phất
buồn.
– Em
nói đi.
– Cường
muốn xin cô bức “Thượng Uyển Bỏ Hoang”.
– Em
quên rằng mình vẽ trong trí tưởng.
– Cường
không quên, nhưng Cường muốn xin cô vẽ riêng cho Cường
thôi, đừng diễn tả lại cho ai khác.
Người
nam sinh nuốt nước bọt, ánh mặt tối lại.
– Em…
sắp phải đi xa, nên muốn có chút gì của cô đem theo mà
không bao giờ đánh mất.
– Cường
đi đâu?
Tôi
vụt nghe chỗ ngồi mình hụt xuống, tòa cao ốc Hữu Nghị
cao thêm và vực thẳm sâu hút.
– Lúc
nãy em ghé định báo tin cô biết, nhưng thấy cô đang vẽ
nên không tiện nói. Em… bị trúng tuyển nghĩa vụ quân
sự rồi. Tụi nó gửi liên tiếp hai ba giấy đến nhà
giục khám sức khoẻ. Chậm lắm là tuần sau em đi.
Một
chiếc Molotova chạy ào qua. Sức gió thổi mạnh, hất tung
lớp bụi. Những vụn cát nhỏ bay vào tròng mắt đau sót.
– Cường
có định trốn hay không?
Tôi
nghe giọng mình nhỏ, lạc hốt hoảng.
– Trốn
đâu bây giờ? Mình không có hộ khẩu ai mà dám chứa. Ở
chưa hết ngày, công an khu vực và tổ trường đã biết
mặt rồi.
Cường
cúi đầu, tóc lưa thưa như lộng một con chim sẻ bị
thương dúi mỏ vào cánh.
– Trốn
được nhiều lắm vài tháng, làm sao trốn cả đời?
Làm
sao trốn cả đời? Đứa con trai nói lên tâm trạng bi đát
tuyệt vọng của sáu mươi triệu người Việt Nam. Một
đời người sinh ra chỉ là để trốn tránh? Như thế đâu
còn là đời sống, chỉ là duy lý sinh thể. Một tập hợp
tế bào may mắn giữ được sự sống khi phần tâm linh
đã mất. Tôi nắm lấy tay Cường, bàn tay nhỏ xương,
ngón tay trầy trụa và đầy đất: những ngón tay của
đứa trẻ họa sĩ không được cầm cọ.
– Đi
bộ đội là “qua đời” cô biết không?
Cường
tiếp sau thoáng im lặng, cúi mặt.
Tôi
cầm tay Cường mà thấy tay mình run theo từng hơi thở
của nó. Tôi muốn nói điều gì cho Cường bớt buồn, an
ủi gầy dựng lại ánh lửa nhỏ tin tưởng đang tàn lụi
trong lòng thế hệ trẻ. Tôi muốn kể một câu chuyện
nhưng không kể được. Cảm giác đang vẽ bức tranh
“Thượng Uyển Bỏ Hoang” lúc này chỉ còn lại khu vườn
trụi lá. Những thân cây bắp ngã nghiêng, xiêu vẹo vì
cơn giông vừa ùa đến. Lần đầu tiên tôi biết, không
thể sống chỉ bằng chọn đãi lọc lựa màu sắc. Có
thứ màu đen thê thiết, khủng khiếp mà không phiến lọc
nào ngăn được. Tôi nghẹn ngào:
– Bức
họa “Thượng Uyển Bỏ Hoang” là của chính em.
Tiếng
nói tôi bỗng chìm vào âm thanh hỗn độn vang lên từ ngã
tư đường. Bức tranh “Thượng Uyển…” trước mắt
tôi còn đó, nhưng đã ngập tiếng huyên náo. Quanh cảnh
náo loạn, bùng vỡ với thác người đổ ngược về phía
chúng tôi. “Chạy…chạy….” Tiếng hô hoán của đám
chợ trời xô đẩy nhau tìm đường thoát. Cường bật
dậy thu dọn đồ hàng tôi bày trên vải ny lông. Ông cụ
bơm rửa viết máy cạnh tôi bị những người bỏ chạy
hất ngã chúi, thùng đồ nghề rơi vỡ tang hoang.
– Chạy
cô ơi!
Cường
chụp tay tôi vùng lôi mạnh. Tôi có cảm giấc toàn bức
họa bị giật đổ, màu sắc bê bết. Tôi vừa chạy theo
Cường vừa chết lặng, sợ hãi của bao lần bị vây bắt
bừng bừng trỗi dậy trong đầu. Tiếng chân người xô
lấn chạy huỳnh huỵch, tiếng công an la hét lẫn với
tiếng xe jeep phóng chận. Vườn thượng uyển bị dẫm
nát, dày xéo. Đây đó vang lên tiếng la hét chửi bới.
Hình ảnh ông cụ già hàng xóm ngã xấp mặt trên hè
đường, máu mũi đổ chan hòa, trộn với mực tím chồng
lên bức họa. Ai đó đang lấy một tấm pa lét màu bẩn
trây trét, đập mạnh lên bức tranh tôi vừa vẽ.
Tôi
trở lại con đường Hàm Nghi sau một thời gian khá lâu
vắng mặt. Lúc còn bán trên đường Nguyễn Huệ, ít khi
nào tôi ra Chợ Cũ. Phần không phải chỗ mình buôn bán,
phần cũng không có việc gì làm ở đây. Tôi trở lại
nghề chợ trời sau khi đi thăm chồng cải tạo ở Bắc.
Sau buổi chia tay với Cường trong một ngõ hẻm nhỏ thoát
thân, tôi về nhà nhận được giấy thăm chồng. Lần đầu
tiên tôi được phép đi thăm chồng nên dầu không có
tiền, tôi cũng vay mượn và bán đi những gì còn chút
giá trị. Rồi tôi ở Bắc về, lao đao như người bệnh.
Về đến Sài Gòn, tôi vội vàng ra ngay chợ trời kiếm
sống, để trả nợ và để quên. Tôi ra chợ trời cũng
để kiếm Cường. Một thằng bạn nó mà tôi tình cờ
gặp ở ga Hòa Hưng hôm về, cho biết Cường đã đào ngũ
và trở lại Sài Gòn. Khi tôi hỏi Cường ở đâu, thằng
Tâm không cho biết, chỉ nói Cường không muốn gặp rồi
nó vùng bỏ chạy.
Tôi
đi rảo từ đường Nguyễn An Ninh cửa Tây chợ Bến
Thành qua ngã nhà chú Hỏa, rồi vòng xuống Chợ Cũ. Từ
khi cao trào quét sạch tàn dư được phát động, song song
với việc làm đẹp thành phố, phường đội được tung
ra truy quét chúng tôi. Không dám ngồi một chỗ, tôi đành
“đứng” chợ trời. Rời đại lộ Nguyễn Huệ, thí
điểm của chiến dịch, tôi lê la trên những con đường
khác, cố làm ra vẻ một người dạo mát. Gặp đâu bán
đó, vừa đi vừa bán, không dám dừng lâu chỗ nào sợ
bị tình nghi. Tôi đi mà dòm chừng để ý kiếm Cường.
Tôi biết chỉ có thể gặp nó trên những ngõ ngách chợ
trời. Chắc chắn Cường không dám về nhà vì sợ bị
bắt. Nó trốn đâu đó và chỉ thò mặt ra chợ để sinh
sống. Tin Cường trốn nghĩa vụ làm tôi hoang mang không
ít, mặc dù đó là phản ứng rất bình thường và phổ
cập của lớp thanh niên trước hiểm nguy của cuộc chiến
tranh bên Kampuchia. Cường đã chọn con đường sống ngoài
vòng kềm tỏa của chế độ. Tôi cần phải gặp Cường
dù chưa biết giúp được gì cho nó. Tôi chỉ biết mình
không thể bỏ rơi Cường, tuổi trẻ liều lĩnh nhưng rất
dễ lầm lẫn.
Tôi
đi ngang chợ thú cũ. Những lồng mèo chó đã biến mất.
Đây đó vài người dựa gốc cây, ôm trong lòng một con
thú ốm. Dưới chân họ là miệng bao bố mở sẵn, chỉ
cần một dấu hiệu là họ bỏ “hàng” vào bao ôm chạy
thật lẹ. Tôi đang sống trong một xã hội mắt trước
mắt sau, một xã hội “khẩn trương tranh thủ tình hình”
xen lẫn với nghi ngờ, dấu giếm và sợ hãi.
Tiếng
máy một chiếc Honda rú lên, xen lẫn với tiếng the thé
của một mụ đàn bà Bắc. Tiếng mụ cán bộ tru tréo
mỗi lúc một lớn. Ba bốn bóng công an áo vàng không biết
từ đâu xuất hiện chạy về phía ngã tư. Liên tiếp là
tiếng súng AK vang lên. Một vài người đứng gần tôi
vụt chạy vào các ngõ hẻm. Tôi lùi lại theo bản năng
sinh tồn, dáo dác tìm đường thoát. Nhưng tôi tự trấn
an ngay. Không phải một vụ truy quét của cách mạng. Thay
vì bỏ trốn, người ta chạy về phía có tiếng súng. Đám
đông đổ dồn về ngã tư. Có thể là một vụ đánh
ghen của các bà Bắc hay một trận ấu đả giữa bộ
đội. Thêm một tính ưu việt của chế độ mà tôi là
nạn nhân không ý thức. Sự yếu kém trung thực của
phương tiện truyền thông khiến con người ta khao khát,
tò mò trước những hình ảnh lạ. Không còn tin vào báo
chí, nhân dân chỉ thích nghe và tin vào những điều gì
mình tận mắt chứng kiến. Tôi chen vào giữa đám đông,
luồn chui qua nhiều cái nách trước khi nhón được đầu
nhìn thấy cảnh tượng.
Trên
lớp đá sỏi khô cằn của khu vườn, những cây bắp
hoang còn sót đã bật gốc. Thay vì xịt thuốc chữa trị,
người ta đã thẳng tay dùng rựa phát ngang. Thân cây bắp
gẫy rập, mủ tràn ra. Tên làm vườn sau khi làm xong công
việc phát gốc bình thản bỏ đi.
Tôi
chết lặng giữa đám đông đang tản mát. Bầu trời đen
quay cuồng và sắc màu bức hoạ đảo lộn. Tôi nghe điếng
lịm tê tái khắp mình mẩy, đau nhừ các đốt xương,
như chính mình vừa hứng chịu báng súng AK tàn bạo. Hình
ảnh chiếc xe máy nằm đổ nghiêng, bình xăng vỡ chổng
trơ, xăng chảy ra đường, bánh xe còn quay và mặt mũi
đứa con trai bầm dập, máu mũi máu miệng trào ra dưới
báng súng làm tim tôi quặn thắt. Chiếc áo trắng học
trò bê bết máu, đứa con trai bị còng tay đẩy lên xe,
mặt mũi sưng húp. Ai đó thông tin cho những kẻ đến
chậm: “Giật đồng hồ bị bắt rồi.”
Tôi
biết. Mãi mãi khu vườn xanh tốt của chúng tôi đã chết,
không thuộc về tôi, không còn là của Cường. Phải thật
lâu sau mới có loài thảo mộc nẩy mầm được trên mặt
đất đã hóa đá.
Trần
Vũ
Tháng
5/ 1987
No comments:
Post a Comment